Phía Tây Không Có Gì Lạ - Chương 1

Chương 1

Chúng
tôi hiện ở cách mặt trận chín cây số.

Người
ta vừa thay phiên chúng tôi ngày hôm qua.

Bây
giờ bụng đứa nào cũng đầy ăm ắp những đậu trắng với thịt bò, thật là no nê thỏa
thích. Mỗi đứa lại còn lấy đầy được một cà mên để dành cho bữa tối; ngoài ra
lại còn khẩu phần kép xúc xích và bánh mì nữa, kể cũng xôm trò đấy chứ! Đã lâu
lắm mới được một chầu như vậy, gã nấu bếp với cái đầu cà chua đỏ hon hỏn, thân
chinh mang thức ăn lại cho chúng tôi.

Người
nào đi qua, hắn cũng giơ cái môi (muỗng) ra hiệu và múc cho một môi thức ăn đầy
phè. Hắn thất vọng quá không biết làm cách nào để trút hết cái “khẩu đại bác
đậu hầm” này đi. Hai thằng Jađơn và Muynlơ vớ đâu được mấy cái chậu thau, thế
là chúng nó hứng đầy đến miệng, làm của dự trữ. Jađơn làm thế là do cái bệnh ăn
thùng bất chi thình của nó, còn Muynlơ thì vì cái tính phòng xa. Chẳng ai biết
Jađơn tọng tất cả cái của ấy vào đâu cho hết: người nó xưa nay vẫn đét như con
cá mắm.

[Chúc
bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người
yêu sách.]

Nhưng
khoái nhất là có cả khẩu phần kép về món thuốc hút. Mỗi người mười điếu xì gà,
hai chục điếu thuốc lá và hai cuộn thuốc nhai: thật là hợp tình hợp lí! Tôi
đánh đổi chỗ thuốc nhai lấy chỗ thuốc lá của Catdinxki, thế là tôi có bốn chục
điếu. Đủ dùng cho cả ngày.

Nói
của đáng tội, tất cả những món cấp phát này không phải chủ ý dành cho bọn tôi
dâu. Người Phổ có bao giờ rộng rãi đến thế. Chẳng qua là do một sự nhầm
lẫn.

Cách
đây mười lăm ngày, chúng tôi ra tiền tuyến thay phiên đơn vị bạn. Khu vực chúng
tôi tương đối yên tĩnh, do đó viên quản lí đơn vị cữ việc lĩnh đủ số lương thực
thường lệ cho cả một trăm năm mươi người của đại đội, để dùng khi trở về. Thế
nhưng lại đùng cái ngày cuối cùng, khu vực chúng tôi bị một trận tẩm quất ra
trò; pháo binh hạng nặng của quân Anh dọt liên hồi kì trận xuống vị trí chúng
tôi, gây nhiều thiệt hại đến nỗi khi trở về chỉ còn tám chục mống.

Chúng
tôi rút về ban đêm, thu xếp ngay chỗ ngả lưng để có thể dành một giấc hẳn hoi
vì Catdinxki nói đúng, nếu người ta ngủ được nhiều hơn thì chiến tranh cũng chả
đến nỗi gay go quá. Giấc ngủ ở tiền tuyến có gì đáng kể và mỗi phiên mười lăm
ngày thật là lâu quá.

Khi
những đứa đầu tiên trong bọn tôi bước ra ngoài lán trú quân thì trời đã trưa.
Nửa giờ sau, mỗi đứa đã cầm một cái cà mên và tập họp trước “cô nàng đậu hầm”
đang tỏa ra mùi thơm ngậy béo bổ. Đứng trên cùng, dĩ nhiên là những chàng háu
đói, anh chàng An be Cốp loắt choắt, chàng này có nhiều ý kiến rành rọt nhất
bọn tôi: cho nên đã được phong chức binh nhất; Muynlơ, số năm, còn mang theo kè
kè những cuốn sách giáo khoa và luôn nghĩ đến một kì thi vớt (ngay giữa trận
oanh tạc nó cũng vẫn nghiền những định lí Vật lí). Lia, nuôi bộ râu rậm rì, rất
mê bọn gái nhà thổ của sĩ quan; nó cam đoan rằng bọn gái nhà thổ ấy, theo lệnh
của bộ chỉ huy, đều phải mặc áo lót mình bằng lụa và khi tiếp khách từ cấp đại
úy trở lên, đều phải đi tắm trước. Người thứ tư là tôi, Pôn Bao mơ. Cả bốn đứa
cùng mười chín tuổi cả bốn đứa cùng học một lớp rồi cùng ra lính.

Đứng
liền sau mấy đứa chúng tôi, là tụi bạn thân. Jađơn, thợ khóa gầy gò, trạc tuổi
bọn tôi, là tay đớp khỏe nhất đại đội. Nó ngồi xuống ăn, lép kẹp như que diêm,
nhưng khi đứng dậy thì xệ ra như con rệp chửa. Hai, Vethut cũng mười chín tuổi,
thợ than bùn, có thể nắm dễ dàng trong lòng bàn tay một cái bánh lính và hỏi
mọi người: “Các cậu thử đoán xem tớ cầm cái gì đây?” Đêtơrinh, nông dân, chỉ
nghĩ đến mảnh ruộng và cô vợ và cuối cùng, Stanitlat Catdinxki cái đầu của nhóm
chúng tôi, con người khắc khổ, lắm mưu nhiều kế, trạc bốn mươi tuổi, có bộ mặt
xám xịt, cặp mắt xanh, đôi vai xuôi thõng và có cái tài đánh hơi kì diệu, thấy
ngay những chỗ nguy hiểm cũng như những chỗ có chén ngon, những chỗ rúc
tốt.

Tiểu
đội chúng tôi làm thành cái đầu con rắn uốn khúc trước “khẩu đại bác đậu hầm.”
Chúng tôi sốt ruột, vì gã đầu bếp còn đứng ì ra đấy, cứ ngớ người la chờ
đợi.

Cuối
cùng, Catdinxki quát to vào mặt hắn: “Này. Hăng ri, mở thùng xúp của mày ra
chứ, đậu nhừ rồi còn gì nữa!”


kia lắc đầu như ngái ngủ:

-
Phải chờ đủ mặt mọi người đã.

Jađơn
cười khẩy: “Bọn tôi đến đủ rồi.”


cai bếp chưa biết tí gì về chuyện xảy ra.

-
Phải, các cậu thì chẳng mong gì hơn. Thế những thằng khác đâu cả rồi?

-
Không phải cái mà mày cho họ chén hôm nay đâu nhé, ở quân y và hố chung
ấy.


đầu bếp tưởng chừng bị một chuỳ choáng óc khi vỡ nhẽ. Hắn lảo đảo:

-Thế
mà tôi lại nấu cho những một trăm năm mươi người!

Cốp
tuôn ra cho hắn một tràng:

-
Thế thì chúng tớ được chén một bữa ra trò chứ sao! Thôi, bắt đầu đi!

Nhưng
đột nhiên, trong đầu Jađơn chợt lóe ra một ý nghĩ. Cái mặt chuột nhọn hoắt của
nó sáng hẳn lên: cặp mắt nheo lại đầy vẻ láu cá, đôi má rung rung và nó cố lách
đến thật gần:

-
Này, ông bạn, thế đằng ấy cũng lĩnh cả phần bánh cho một trăm năm mươi người
đấy chứ?


kia, chưa hết choáng váng, óc còn để tận đâu đâu gật đầu.

Jađơn
túm lấy áo gã.

-
Cả xúc xích cũng thế chứ?

Cái
đầu cà chua lại gật.

-
Cả thuốc lá nữa chứ?

-
Phải, đủ.

Jađơn
nhìn chung quanh, vẻ hớn hở.

-
Mẹ kiếp? Thật là dịp may hiếm có đây! Thế là của chúng mình ráo cả! Mỗi đứa sẽ
lĩnh… xem nào… Đúng rồi, đúng là khẩu phần kép.

Nhưng
gã cà chua đã chợt tỉnh và tuyên bố.

-
Không, không ổn đâu.

Thế
là cả bọn chúng tôi nữa, cũng tỉnh người ra, xô nhau lên phía trước.

-
Sao lại không ổn, hở ông mãnh? - Catdinxki hỏi.

-
Của phát cho một trăm năm mươi người, không thể chia cho tám chục người
được.

-
Chúng tao sẽ cho mày biết.- Muynlơ gầm lên.

-
Thức ăn thì còn được, chứ khẩu phần, tôi chỉ có thể phát cho các anh tám chục
khẩu phần thôi. - Gã cà chua cứ nằng nặc như thế.

Catdinxki
cáu lên:

-
Mày muốn được khiêng về hậu phương đấy phỏng?... Cái khoản ấy không phải là cho
tám mươi người mà là cho đại đội hai. Hiểu chưa? Đưa đây cho chúng tao. Đại đội
hai chính là chúng tao đây.

Chúng
tôi quây chặt lấy thằng cha ấy. Không ai chịu được hắn. Chính vì hắn mà nhiều
phen, ở chiến hào, chúng tôi phải lĩnh thức ăn quá muộn và nguội tanh cả, vì
mỗi khi đại bác chỉ mới bắn sơ sơ một tí, là hắn đã không dám đem nồi cháo lên,
thành thử bọn tôi, những lúc đi lùng ăn, phải đi nhiều đường đất hơn các đại
đội khác. Buncơ, ở đại đội một chẳng hạn, thật là một tay cừ. Tuy béo như con
cun cút, nhưng khi cần thiết, anh ta vẫn thân hành lê thức ăn lên tận tuyến thứ
nhất. Chúng tôi đang bực bội và thế nào cũng xẩy ra choảng nhau, nếu viên chỉ
huy đại dội không đến giữa lúc ấy. Ông ta hỏi đầu đuôi tại sao to tiếng, rồi
chỉ biết nói:

-
Đúng đấy! Hôm qua chúng mình bị thiệt hại nặng. - Rồi ông ta nhìn vào cái thùng
nấu thức ăn. - Món đậu này ăn tốt đấy...


cà chua gật đầu đồng ý.

-
Hầm với mỡ và thịt cơ mà.

Trung
uý nhìn bọn chúng tôi. Ông ta hiểu chúng tôi đang nghĩ gì. Ông ta cũng biết
nhiều chuyện khác nữa, vì ông ta đã lớn lên giữa bọn chúng tôi. Lúc tôi đến đại
đội, ông ta chỉ mới đóng lon cai. Ông ta lại mở nắp thùng một lần nữa và hít
hít. Khi bước đi, ông ta bảo:

-
Nhớ mang cho mình một nửa livre (Một livre vào khoảng gần nửa kí lô) với nhé.
Và nhớ phân phát tất cả khẩu phần nhé, chẳng hề gì đâu.


cà chua mặt thộn ra, còn Jađơn thì nhảy nhót chung quanh hắn.

-
Đằng ấy có thiệt gì đâu kia chứ. Cứ làm như bao nhiêu thức ăn là của riêng của
nó không bằng? Này, bắt đầu đi, lão lính “hậu phương” và đừng có đếm nhầm đấy
nhé!

-
Thôi, xéo ngay đi! - Gã cà chua hét lên.

Hắn
hoang mang quá đỗi. Hắn không thể nghĩ đến một chuyện như thế. Hắn không còn
hiểu sự đời ra sao nữa. Và cũng để tỏ ra bây giờ ta phớt tuốt, hắn lại tự động
phát cho mỗi người hai lạng mật ong nhân tạo nữa kia chứ.

Hôm
nay thật là một ngày hả hê. Lại có cả chuyến thư nữa. Hầu như ai cũng nhận được
thư và báo. Giờ đây chúng tôi đi phất phơ về phía cánh đồng cỏ sau lán trú
quân. Cốp cắp ở tay một cái nắp hộp mỡ cừu.

Phía
tay phải, ven đồng cỏ, người ta đã xây những chuồng xí công cộng to lớn, cả một
ngôi nhà chắc chắn có mái miếc hẳn hoi. Nhưng chỗ ấy chỉ để cho bọn lính mới
chưa biết xoay xở gì thôi. Bọn chúng tôi muốn một cái gì khoái hơn kia. Vì thế,
có những cái trứng cá nhân nho nhỏ rải rác khắp nơi và đều dùng vào một việc
giống nhau. Những cái thùng này vuông, sạch sẽ, toàn bằng gỗ, kín mít, có một
chỗ ngồi thuận tiện, thật không thể chê vào đâu được.

Bên
cạnh lại có cả quai xách nữa, thành ra nó có thể bê đi bê lại được dễ
dàng.

Bọn
chúng tôi đặt ba cái thùng châu vào nhau, rồi ngồi lên chễm chệ, ít ra cũng
phải hai tiếng đồng hồ chúng tôi mới đứng dậy.

Tôi
còn nhớ, đầu tiên, lúc còn là tân binh, ở doanh trại bọn chúng tôi rất ngượng
ngập vì cái chuồng xí công cộng. Chỉ có một cái cửa ra vào mà hai chục đứa
ngồi, đứa nọ chen đứa kia, y như trong tầu hỏa. Đưa mắt một lượt là người ta có
thể kiểm điểm được tất cả: chẳng qua cái thằng lính bao giờ chả phải chịu sự
kiểm soát thường xuyên.

Từ
dạo ấy chúng tôi đã học tập vượt được khối điều còn hơn cái ngượng nghịu vớ vẩn
kia nữa. Với thời gian, chúng tôi gặp thêm nhiều việc ngượng nghịu khác.

Ngồi
ở đây, ngoài trời, quả thực là kì quái. Tôi không hiểu sao lúc trước, chúng tôi
lại cứ rụt rè nhắm mắt trước những việc này, vì nó cũng tự nhiên như ăn như
uống thôi. Và có lẽ cũng chả cần nói đến ở đây, nếu như cái đó không đóng một
vai trò quan trọng và nếu quả nhiên nó không phải là một chuyện mới lạ đối với
bọn chúng tôi, vì đối với bọn lính cựu trào, cái đó đã trở thành sự bình thường
từ đời nào rồi.

Dạ
dày và tiêu hóa là vấn đề thiết thân đối với người lính hơn là đối với bất cứ
người nào khác. Người lính ở nơi đây ra đến ba phần tư số từ ngữ thường dùng và
việc biểu hiện niềm vui sướng cao độ nhất hoặc nỗi bực tức điên cuồng nhất đều
tìm được trong cái từ vựng kia những gì mãnh liệt nhất. Thật không còn dùng
cách nào khác để nói gọn và rõ hơn thế. Gia đình chúng tôi và các giáo sư của
chúng tôi hẳn sẽ rất ngạc nhiên khi chúng tôi trở về nhà, nhưng ở đây nó lại là
tiếng nói phổ biến.

Đối
với chúng tôi, các việc đó trở thành hồn nhiên vô tội vạ vì bắt buộc phải làm
một cách công khai.

Hơn
nữa, đối với chúng tôi, cái việc đó bình thường đến nỗi chúng tôi thấy khoan
khoái y như lúc được đánh mĩ mãn một ván bài chẳng hạn, ở một chỗ không phải lo
đại bác. Không phải ngẫu nhiên mà người ta đặt ra cái danh từ báo cáo “xịa” để
chỉ các loại chuyện nhảm nhí. Những nơi ấy, đối với con nhà binh thật đúng là
chỗ ngồi tán phía và cũng tương tự như bàn ăn của khách quen.

Lúc
này chúng tôi cảm thấy thú vị hơn là ngồi trong bất cứ cái nhà xí nào có đồ sứ
trắng muốt, lịch sự; ở đó chỉ có thể sạch sẽ hơn, nhưng ở đây thì lại thoải mái
dễ chịu. Thật là những giờ phút vô tư tuyệt vời. Trên đầu chúng tôi, trời xanh
biếc. Phía chân trời, lủng lẳng những quả khinh khí cầu, màu vàng, có những tia
mặt trời lấp lánh xuyên qua, cùng những đám mây nho nhỏ màu trắng của những
viên đá ri cao xạ.

Thỉnh
thoảng, khi đuổi theo một tên phi công, chúng lại tỏa ra thành một chùm cao
ngất. Tiếng gầm thét ù tai của mặt trận vọng đến chúng tôi như một cơn bão rất
xa. Nó đã bị tiếng vù vù của đám ong vò vẽ bay ngang qua lấn át. Cánh đồng cỏ
đầy hoa trải ra khắp chung quanh chúng tôi. Những ngọn cỏ non đu đưa mềm mại,
những cánh bướm trắng lượn lại gần nhau; chúng bay là là trong làn gió ấm nóng,
dịu dàng của mùa hạ đến độ chín mùi; còn chúng tôi, chúng tôi đọc thư, xem báo,
hút thuốc, chúng tôi bỏ mũ ca-lô, đặt xuống đất bên cạnh chỗ ngồi; làn gió nhẹ
đùa trên mái tóc, đùa cả với những lời nói và ý nghĩ của chúng tôi.

Ba
cái thùng chúng tôi ngồi đặt giữa những đám hoa mào gà đỏ rực…

Chúng
tôi đặt cái nắp thùng mỡ trên đầu gối. Thế là có cái mặt bàn tất để chơi bài
soát rồi. Cốp đã mang theo cỗ bài. Thỉnh thoảng lại chen vào một ván bài ram.
Tưởng chừng mấy đứa có thể cứ ngồi đến muôn thuở ở đây.

Tiếng
đàn phong cầm từ lán rút quân vẳng đến.

Thỉnh
thoảng chúng tôi đặt bài xuống nhìn nhau, một đứa trong bọn lên tiếng: “Này các
cậu, các cậu...” hoặc “Khéo hỏng bét cả đấy...” Rồi chúng tôi lặng đi một lúc.
Trong lòng chúng tôi có thông cảm xúc thầm kín và mãnh liệt. Đứa nào cũng nhận
thấy thế, cho nên chẳng cần phải nhiều lời. Rất có thể là ngày mai chúng tôi
chẳng còn được ngồi trên những thùng xia này nữa, mà thời thế cũng chẳng khó
khăn gì lắm đâu. Cho nên, đối với chúng tôi, cái gì cung quan trọng và mới lạ:
những bông hoa mào gà đỏ chói cũng như bữa ăn ngon, những điếu thuốc lá cũng
như ngọn gió hè.

Cốp
hỏi:

-
Đã cậu nào gặp lại Kemơrich chưa?

-
Nó đang ở Xanh tiôdép, - Tôi nói.

Muynlơ
bảo nó bị một phát xuyên qua đùi, chỗ gần hông, âu cũng là một dịp tốt để được
về quê một chuyến. Chúng tôi định chiều nay đến thăm nó.

Cốp
rút một lá thư trong túi ra.

“Tớ
xin chuyển lời chào của Căngtôrec đến các cậu.”

Chúng
tôi cười. Muynlơ quăng điếu thuốc lá và nói:

-
Cái lão ấy tớ muốn nó ở đây cơ.

Căngtôrec
là giáo sư của bọn tôi: một con người loắt choắt nghiêm nghị, với bộ áo xám có
đuôi tôm và cái đầu chuột chù. Thân hình lão cũng gần giống thầy cai
Himmenxtôt, “sự khủng khiếp của trại lính tập.” Kể cũng buồn cười. Mọi thứ tai
vạ trên đời thường là do các hạng người thân hình loắt choắt gây ra: chúng nó
cương quyết và quá quắt hơn những người thân hình cao lớn rất nhiều. Bao giờ
tôi cũng cố tránh những trung đội có những tay chỉ huy “tầm vóc bé nhỏ,” những
tay này thường là những bọn độc ác đáng nguyền rủa.

Trong
những giờ tập thể dục, lão Căngtôrec thuyết cho chúng tôi hàng tràng kì cho đến
lúc tất cả lớp học phải sắp hàng theo lão ta đến sở mộ binh để xin nhập ngũ.
Tôi như vẫn nhìn thấy lão ở trước mặt, với đôi kính nảy lửa, còn lão thì nhìn
bọn tôi và nói với một giọng xúc động. Nhưng lúc ấy bọn tôi chưa nghĩ gì đến
chuyện đó cả.

Tuy
nhiên, có một đứa trong bọn do dự và không muốn đi, ấy là Jôdep Bem, cái thằng
to lớn, tính tình vui nhộn.

Nhưng
rồi sau nó cũng bị thuyết phục. Vả lại cũng phải nhận thấy rằng không còn con
đường nào khác. Có lẽ những đứa khác cũng nghĩ giống hệt như Bem; nhưng lẩn
trốn không phải là chuyện dễ, vì thời ấy, cả bố anh lẫn mẹ anh đều có thể văng
ngay vào giữa mặt anh cái tiếng “hèn nhát.” Lúc bấy giờ tất cả những con người
ấy chưa ai tưởng tượng được những gì sẽ xảy ra sau này. Nói cho đúng thì những
người hiểu biết hơn cả lại là những người bình thường và nghèo khổ, ngay từ đầu
họ đã coi chiến tranh là một tai họa, trong khi bọn giàu có lại vui sướng ra
mặt, dù rằng chính bọn này rồi cũng sẽ có thể nhận thấy ngay những hậu quả của
chiến tranh. Catdinxki đổ tội cho nền giáo dục đã làm cho chúng tôi mê muội đi
và cái gì Cát đã nói là đều có suy nghĩ chín chắn.

Kể
cũng lạ, chính Bem lại là một trong những người đầu tiên gục ngã. Trong một đợt
tấn công, nó bị một phát súng vào mắt, bọn tôi cho là nó đã chết nên để lại
trận địa. Không thể vác nó đi được, vì bắt buộc phải rút lui gấp. Buổi chiều,
đột nhiên chúng tôi nghe thấy tiếng nó gọi và thấy nó đang cố bò phía trước
chiến hào. Thì ra nó chỉ bị ngất đi thôi. Nhưng lúc này nó chẳng nhìn thấy gì
nữa, nó đau đến phát cuồng lên, chẳng chịu ẩn nấp gì cả, nên trước khi có người
ra dìu nó về thì nó đã bị giết chết.

Lẽ
dĩ nhiên, người ta không thể đổ trách nhiệm về chuyện này lên đầu lão
Căngtôrec, vả lại nếu người ta cho đó là một sự phạm tội thì cái đời này còn ra
làm sao nữa? Có đến hàng nghìn lão Căngtôrec, tất cả đều yên trí làm thế là tốt
- một cách tiện lợi cho họ.

Nhưng
chính vì thế mà chúng tôi thấy họ đều thất bại cả.

Đối
với cái tuổi mười tám của chúng tôi, đáng lẽ họ là những người đưa đường chỉ
lối, dìu dắt chúng tôi đến chỗ trưởng thành, mở ra cho chúng tôi cái thế giới
mới của cần lao, của nghĩa vụ, của văn hóa và tiến bộ, chuẩn bị cho tương lai.
Đôi khi chúng tôi cũng trêu chọc họ, chơi khăm họ một vài vố gì đó, nhưng trong
thâm tâm chúng tôi tin tưởng ở họ.

Theo
chỗ chúng tôi thấy, khái niệm về một thứ quyền lực mà họ đại diện, chỉ là một
sự sáng suốt hơn và một sự hiểu biết nhân đạo hơn. Vậy mà khi chúng tôi nhìn
thấy người đầu tiên gục chết thì niềm tin tưởng ấy đã tiêu tan. Chúng tôi phải
thừa nhận rằng lứa tuổi chúng tôi trung thực hơn bọn họ nhiều. Họ chỉ hơn chúng
tôi ở cái khoa nói và chỗ khôn khéo. Trận pháo kích đầu tiên đã vạch ra chỗ lầm
lẫn của chúng tôi và làm đổ sụp cái quan niệm về mọi sự trên đời mà họ đã nhồi
nhét cho chúng tôi.

Họ
vẫn còn viết, vẫn còn nói, nhưng chúng tôi, chúng tôi trông thấy những trạm
quân y, những người hấp hối. Trong khi đối với họ, phụng sự quốc gia là giá trị
cao cả nhất, chúng tôi đã hiểu rằng cái sợ chết còn mạnh hơn nhiều. Tuy vậy,
chúng tôi cũng chẳng nối loạn, chẳng đào ngũ, chẳng hèn nhát (tất cả những danh
từ này, bọn họ nói luôn miệng!).

Chúng
tôi yêu tổ quốc chúng tôi, cũng như họ và trong mỗi đợt tấn công, chúng tôi
dũng cảm xông lên, nhưng chính chúng tôi cũng đã biết phân biệt, cùng một lúc,
chúng tôi bắt đầu nhận thấy và chúng tôi đã thấy trong cái thế giới của bọn họ
chẳng có gì còn đứng vững nữa. Bất giác, chúng tôi cảm thấy cô đơn một cách ghê
rợn và tự chúng tôi phải xoay xở lấy một mình.

Trước
khi đến thăm Kemơrich, mấy đứa chúng tôi gói ghém một bọc đồ dùng của nó, những
thứ ấy có thể có ích cho nó trong khi đi đường.


trạm quân y, người đi lại rộn rịp, lúc nào không khí cũng sặc mùi phê nôn, mùi
khăm khẳm, mùi hôi hôi. Tuy lán trú quân chúng tôi đã quen với nhau, nhưng ở
đây dù sao cũng có những cái làm nguời ta phát khiếp. Chúng tôi đi hỏi nhiều
chỗ xem Kemơrich nằm đâu. Nó nằm trong một căn phòng và khi thấy chúng tôi đến,
nó thoáng có vẻ vui mừng, vì nó yếu quá không dậy được nữa. Trong lúc nó mê
man, đã bị người nào đó xoáy mất cái đồng hồ.

Muvnlơ
lắc đầu:

-
Mình vẫn bảo là cậu đừng có mang theo cái đồng hồ tốt như thế cơ mà.

Muynlơ
có phần vụng về và lắm điều, đáng lẽ nó nên im đi thì hơn. Vì rõ ràng là
Kemơrich chẳng còn sống được bao lâu nữa.

Tìm
thấy cái đồng hồ hay không, cũng chẳng có nghĩa lí gì, bất quá cũng đến gửi về
cho gia đình nó thôi.

-
Phăng, cậu thấy trong người thế nào? - Cốp hỏi. Kemơrich cúi đầu:

-
Cũng thường thôi, chỉ phải cái chân đau quá.

Chúng
tôi nhìn vào giường. Chân Kemơrich đặt dưới một vòng cung dây thép, trên đó cái
chăn đắp phồng lên. Tôi khẽ huých vào ống chân Muynlơ, vì thằng này có thể nói
toạc ra với Kemơrich điều mà bọn y tế đã cho chúng tôi biết ở ngoài, Kemơrich
không còn chân nữa. Người ta đã cưa chân nó rồi. Bộ mặt nó trông khiếp quá, vừa
vàng ệch lại vừa xám xịt màu tro. Trên mặt nó, hiện lên những đường nét lạ lùng
mà chúng tôi đã biết rõ vì nhìn hàng trăm lần rồi. Nói cho đúng, đó không phải
là đường nét, mà là những dấu hiệu. Dưới làn da không còn sự sống nữa, sự sống đã
bị đẩy ra ngoài cơ thể rồi; thần chết đang hoành hành bên trong, và đã ngự trị
trong cặp mắt…

Đấy,
Kemơrich, cái thằng bạn, vừa mới đây còn nướng thịt ngựa với chúng tôi, còn
cùng với chúng tôi rúc vào một cái hố trái phá, bây giờ như vậy đấy. Vẫn là nó,
mà lại không phải là nó nữa. Hình ảnh nó bị xóa mờ, chập chờn như một tấm kính
ảnh chụp hai lần. Ngay cả đến tiếng nói của nó cũng đã phảng phất cái gì của
thần chết.

Tôi
nghĩ đến dạo chúng tôi ra mặt trận. Mẹ nó, một bà cụ to béo hiền lành tiễn nó
ra tận ga. Bà cụ khóc sướt mướt. Mặt bà cụ sưng húp lên. Kemơrich có vẻ hơi
ngượng, vì bà cụ chẳng giữ ý tứ gì cả, tưởng chừng cả người bà cụ đã chảy ra
thành mỡ và nước mắt. Bà cụ cứ thế túm ngay lấy tôi, chốc chốc lại níu lấy cánh
tay tôi, van vỉ tôi khi nào ra mặt trận thì trông nom cho thằng Phăng. Kể mặt
nó trông cũng non choẹt thực và xương cốt yếu ớt đến nỗi mới đeo ba lô bốn tuần
lễ mà chân đã to bè ra. Nhưng đã ra trận thì còn trông nom ai được nữa! Cậu sắp
được về nhà đấy. - Cốp nói. - Nếu không thì cũng phải đợi đến ba hay bốn tháng
nữa mới đến kì nghỉ phép.

Kemơrich
gật đầu. Tôi nhìn bàn tay nó mà ái ngại.

Chẳng
khác gì bằng sáp, cáu ghét ở chiến hào đóng đầy cả kẽ móng tay, đen kịt lại như
màu thuốc độc. Tôi nghĩ rằng trong khi Kemơrich đã tắt thở từ lâu thì những cái
móng tay này vẫn tiếp tục mọc, giống như một thứ cây mọc ngầm, kì quái. Tôi
tưởng như nhìn thấy trước mắt, chúng đang xoắn lại thành hình trôn ốc và vẫn
mọc, đồng thời với đám tóc trên cái sọ đang thối rữa - như cỏ trên một miếng
đất màu mỡ, hệt như cỏ vậy. Sao lại có thể thế được nhỉ?...

Muynlơ
cúi xuống:

-
Phăng này, bọn mình mang các thứ lại cho cậu đây.

Kemơrich
ra hiệu bằng tay:

-
Bỏ nó xuống gầm giường ấy.

Muynlơ
làm theo. Kemơrich lại nói đến cái đồng hồ. Làm thế nào cho nó yên tâm mà không
khiến nó sinh nghi? Muynlơ ngẩng lên, tay cầm một đôi ủng phi công.

Một
đôi ủng kiểu ăng lê tuyệt đẹp, da vàng và mềm, cao đến tận đầu gối và buộc dây
ở phía trên, quả là một món ai cũng phải thèm. Muynlơ ngắm nghía mãi, đầy vẻ
say sưa. Nó áp đế ủng vào đế đôi giày thô kệch của nó và hỏi:

-
Phăng này, cậu định mang theo cả đôi ủng nữa chứ?

Cả
ba đứa chúng tôi chỉ có một ý nghĩ. Dù cho nó qua khỏi được chăng nữa thì cũng
chỉ dùng được một chiếc thôi, do đó đôi ủng đối với nó, chẳng còn giá trị gì
nữa. Và bây giờ đôi ủng ấy nằm đây, thật là tai hại, vì hễ nó chết một cái, là
tụi y tá cuỗm ngay.

Muynlơ
tiếp:

-
Cậu để nó lại đây à?

Kemơrich
không muốn thế. Đấy là của quý nhất của nó.

-
Này, chúng mình đánh đổi với nhau nhé, - Muynlơ lại tiếp - Ở đây tại mặt trận,
dùng được việc hơn.

Kemơrich
nhất định không nghe.

Tôi
hất chân Muynlơ. Thế là cu cậu ngập ngừng tiếc rẻ, đành để lại đôi ủng vào gầm
giường. Bọn tôi còn nói chuyện với nhau một lát nữa, rồi mới chia tay.

Chóng
khỏe Phăng nhé! Tôi hẹn với Kemơrich ngày mai sẽ trở lại. Muynlơ cũng hẹn thế.
Cu cậu vẫn nghĩ đến đôi ủng và cố ý theo dõi nó. Kemơrich thở dài. Nó lên cơn
sốt. Ra đến ngoài, chúng tôi gặp một y tá và nhờ hắn tiêm cho người bị thương
một phát.

Hắn
từ chối:

-
Nếu ai cũng tiêm moócphin, thì phải hàng thùng…

-
Thế ra cậu chỉ hầu bọn sĩ quan thôi à? - Cốp nói bằng một giọng hằn học.

Tôi
vội can ngay và cho gã y tá một điếu thuốc lá.

Hắn
nhận, sau đó tôi bao hắn:

-
Nhưng cậu có quyền tiêm không cơ chứ?

Câu
hỏi chạm tự ái hắn.

-
Nếu các cậu không tin thì còn nhờ làm gì?...

Tôi
lại dúi vào tay hắn mấy điếu thuốc nữa.

-
Giúp chúng tớ một tí...

-
Thôi được, - Hắn nói.

Cốp
đi theo hắn, vì nó không tin mấy và nó muốn xem hắn làm ăn thế nào. Bọn tôi đợi
nó ở ngoài.

Muynlơ
lại nói đến đôi ủng:

-
Đôi ủng vừa chân mình lạ lùng. Đi cái đôi giày thổ tả này, hết mụn phỏng nọ đến
mụn phỏng kia. Cậu có tin là nó còn trụ được đến sau phiên gác ngày mai không?
Nếu nó chết đêm nay là đi đứt đôi ủng.

An
be trở ra. Nó hỏi:

-
Các cậu nghĩ sao về...?

-
Đến ngoẻo thôi. - Muynlơ nói, có vẻ dứt khoát.

Chúng
tôi quay về lán trú quân. Tôi nghĩ đến bức thư ngày mai sẽ viết cho mẹ
Kemơrich. Tôi cảm thấy rét, muốn uống một cốc rượu. Muynlơ vặt những lá cỏ và
bỏ vào mồm nhai. Bất giác anh chàng Cốp loắt choắt quăng điếu thuốc lá đi, rồi giậm
chân điên cuồng, nhìn quanh với nét mặt hoảng hốt, méo xệch, mồm nói lắp
bắp:

-
Cứt ơi là cứt!

Mấy
đứa chúng tôi vẫn tiếp tục đi. Một lúc khá lâu sau, Cốp đã dịu. Chúng tôi chẳng
lạ gì cái đó.

Người
ta thường gọi đó là cơn điên ở mặt trận. Ai cũng từng bị cả.

Muynlơ
hỏi nó:

-
Lão Căngtôrec viết cho cậu những gì?

Thằng
kia cười trả lời:

-
Lão ta viết rằng chúng mình là tuổi trẻ gang thép.

Tất
cả ba chúng tôi cười chua chát. Cốp chửi lung tung, nó lấy làm hả dạ khi nói
lên được...

Đấy
bọn họ nghĩ như vậy, bọn họ nghĩ như vậy đấy, hàng chục vạn lão Căngtôrec! “Tuổi
trẻ gang thép.” Tuổi trẻ chưa có đứa nào trong bọn chúng tôi quá hai mươi tuổi
cả. Nhưng nói rằng bọn chúng tôi trẻ ư! Tất cả những cái đó đã chấm dứt từ lâu
rồi.

Chúng
tôi chỉ là một lũ già nua.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3