Phía Tây Không Có Gì Lạ - Chương 7 - Phần 1
Chương 7
Đây
là mẹ tôi, đây là chị tôi, đây là cái hộp bươm bướm của tôi, đây là cái đàn
dương cầm bằng gỗ đào hoa tâm, nhưng tôi vẫn còn ngơ ngác. Có một tấm màn và
một khoảng cách giữa con người tôi với sự vật. Vì vậy bây giờ tôi đi lấy cái ba
lô, tôi đặt nó lên cạnh giường, tôi lấy ra những thứ tôi mang về: một cục pho
mát Hà Lan còn nguyên mà Cát đã xoáy cho tôi, hai cái bánh lính, ba lạng bơ,
hai hộp dồi gan, nửa cân mỡ và một túi gạo nhỏ.
-
Chắc mẹ và chị dùng được những cái này…
Mẹ
và chị tôi gật đầu.
-
Có lẽ ở đây tiếp tế cũng khó khăn đấy nhỉ?
-
Chẳng có mấy tí. Thế ngoài ấy có khá không?
Tôi
mỉm cười và chỉ những thứ tôi mang về.
-
Không phải bao giờ cũng được thế này đâu, nhưng kể ra cũng tương đối.
Chị
Ecna giúp tôi cất những thức ăn đi. Chợt mẹ tôi nắm chặt lấy tay tôi và hỏi
bằng một giọng ngập ngừng:
-
Ngoài ấy chắc gay go lắm phải không Pôn?
“Mẹ
ơi, con biết trả lời mẹ thế nào đây? Mẹ sẽ không hiểu được đâu. Vả lại, mẹ cũng
chẳng bao giờ nên hiểu làm gì. Mẹ hỏi có gay go không? Chính mẹ lại hỏi con câu
đó sao, mẹ!”
Tôi
lắc đầu và nói:
-
Không mẹ ạ, chẳng gay lắm đâu. Chúng con ở ngoài đó có rất nhiều bạn bè và cũng
không gay lắm đâu.
-
Ờ, nhưng vừa rồi Hăng ri Brêđêmâyơ về đây, nó kể chuyện ngoài ấy bây giờ khiếp
lắm, có hơi ngạt và bao nhiêu cái gì nữa cơ mà.
Chính
mẹ tôi nói như thế đấy. Mẹ nói, “Có hơi ngạt với lại bao nhiêu cái gì nữa?” Mẹ
không hiểu cái mẹ nói là gì đâu. Chẳng qua mẹ lo cho tôi mà thôi.
Tôi
có nên kể cho mẹ tôi nghe, một lần chúng tôi đã thấy những kẻ chiếm lĩnh ba
chiến hào địch bị chết cứng, khác nào bị sét đánh không? Họ đứng hoặc nằm trên
luỹ, trong hầm, ngay tại chỗ họ bị đánh bất chợt, mặt mũi xám ngoét,
chết.
-
A, mẹ ơi, họ nói thế thôi! Brêđêmâyơ kể những chuyện đó chẳng qua là để làm quà
thôi. Mẹ xem đấy con vẫn khỏe và lại béo ra nữa chứ...
Trước
sự lo lắng của mẹ tôi, tôi lại trở nên hoàn toàn bình tĩnh. Bây giờ tôi có thể
đi đi lại lại, nói năng và trả lời, không còn sợ bất chợt phải dựa vào tường vì
vũ trụ mềm nhũn ra như cao su và những mạch máu của tôi trở nên khô khốc như
bùi nhùi nhóm lửa.
Mẹ
tôi muốn ngồi dậy; trong lúc đó tôi vào bếp tìm chị tôi.
-
Mẹ làm sao thế? - Tôi hỏi.
Chị
tôi nhún vai:
-
Mẹ nằm mấy tháng nay rồi đấy. Nhưng mẹ không muốn nhà viết thư cho cậu biết.
Những thầy thuốc đã đến xem cho mẹ. Có một ông bảo có lẽ vẫn là cái bệnh ung
thư của mẹ đấy thôi!
Tôi
đến phòng quân sự để xin chứng thực vào giấy phép. Tôi đi thong thả qua những
đường phố.
Thỉnh
thoảng có người chào tôi. Tôi không dừng lại lâu vì không thích chuyện trò
nhiều.
Ở
trại lính về, tôi nghe có tiếng người gọi thật to.
Tôi
quay lại, vẫn mải theo đuổi những ý nghĩ của mình; trước mặt tôi là một viên
thiếu tá. Ông ta hoạnh:
-
Anh không chào ta hả?
-
Thưa ngài thiếu tá, xin lỗi ngài, tôi không trông thấy ngài. - Tôi luống cuống
trả lời.
Ông
ta quát to hơn:
-
Anh không thể ăn nói phép tắc hơn hả?
Tôi
chỉ muốn tát cho hắn một cái, nhưng tôi kìm lại được, nếu không thì đi đứt cái
khoản nghỉ phép.
Tôi
cứng người lại theo đúng kiểu nhà binh và nói:
-
Báo cáo, tôi không trông thấy ngài thiếu tá!
-
Vậy thì coi chừng, - Hắn ta xẵng giọng. - Tên anh là gì?
Tôi
nói tên.
Cái
mặt đỏ gay của hắn vẫn còn bừng bừng tức giận.
-
Đơn vị nào?
Tôi
trả lời theo đúng quy tắc. Nhưng vẫn chưa đủ đối với hắn.
-
Ở đâu?
Nhưng
lúc này, tôi đã phát bực và nói với hắn:
-
Giữa khoảng Langơmat và Bitsút.
-
Hả? - Hắn hỏi có vẻ hơi ngạc nhiên.
Tôi
trình bày với hắn là tôi được về phép độ một tiếng đồng hồ, tôi nghĩ rằng hắn
sẽ dịu đi. Nhưng tôi nhầm, hắn lại càng cáu hơn nữa.
-
À, anh muốn mang cái thói ở mặt trận về đây hả? Nhưng vô ích thôi! Ở đây, nhờ
ơn trời, vẫn có trật tự nghe không?
Hắn
ra lệnh:
-
Lùi hai mươi bước, bước!
Tôi
giận tím người, nhưng không thể nào cưỡng lại hắn được, nếu hắn muốn, hắn có
thể tống giam tôi tức khắc. Vì vậy tôi bước lui một cách mạnh mẽ, rồi tôi tiến
lên, khi cách hắn độ năm sáu thước, tôi cứng người lên, chào một cách bực bội,
rồi giữ nguyên tư thế chào như vậy cho đến khi vượt quá hắn sáu thước.
Hắn
gọi tôi lại, ra bộ nhân nghĩa bảo cho tôi biết rằng một lần nữa, hắn đã khoan
hồng hơn là áp dụng kỉ luật quân sự đối với tôi. Tôi tỏ lòng biết ơn, theo đúng
kiểu cách nhà binh.
-
Giải tán! - Hắn ra lệnh.
Tôi
đập gót đánh chát rồi đi.
Thế
là hỏng cả buổi chiều. Tôi về nhà, vất bộ đồng phục vào một xó; đó cũng là dụng
ý của tôi; sau đó tôi lấy bộ quần áo thường trong tủ ra xỏ tay vào.
Tôi
không quen mặc thường phục nữa. Bộ quần áo đã ngắn và chật. Ở trung đoàn, tôi
đã lớn lên. Đeo cổ cồn và thắt ca vát vào vất vả quá. Cuối cùng chính chị tôi
thắt hộ ca vát. Ôi, bộ quần áo mới nhẹ nhõm làm sao. Tôi có cảm tưởng chỉ mặc
áo lót và quần đùi.
Tôi
ngắm mình trong gương. Thật là một hình ảnh lạ lùng. Một cậu bé chịu lễ lần
đầu, da cháy nắng và chóng lớn như thổi, nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên. Mẹ tôi lấy
làm hài lòng thấy tôi mặc thường phục. Như thế có vẻ gần gũi mẹ hơn. Nhưng cha
tôi lại thích tôi mặc quân phục để đưa tôi đến chơi các bạn; tôi từ chối.
Được
ngồi yên một chỗ nào đó thì thật là dễ chịu.
Thí
dụ trong khu vườn của quán cà phê trước nhà tôi dưới bóng những cây dẻ, cảnh
sân chơi ki. Lá rụng xuống mặt bàn và mặt đất. Đấy chỉ là vài cái lá đầu mùa.
Trước mặt tôi có một cốc bia; ở trung đoàn tôi đã đâm nghiện. Cốc đã cạn một
nửa. Tôi còn làm được vài ngụm thật mát nữa, ngoài ra tôi có thế gọi thêm cốc
thứ hai, cốc thứ ba nữa, nếu tôi thích.
Chẳng
có điểm danh, cũng chẳng có bánh quét. Lũ trẻ con nhà ông chủ quan cà phê đang
chơi ki và con chó gục đầu lên đầu gối tôi. Trời xanh, qua cành lá, những cây
dẻ, chiếc tháp chuông màu xanh của nhà thờ thánh Macgơrit đâm vút lên.
Cứ
thế này thì tốt quá, tôi cảm thấy dễ chịu.
Nhưng
tôi không thể hòa được với mọi người. Cái người duy nhất không hỏi tôi, là mẹ
tôi. Còn cha tôi thì cũng như mọi người khác. Ông cụ bắt tôi kể những chuyện ở
mặt trận. Ông cụ có những ý muốn mà tôi thấy vừa ngớ ngẩn vừa cảm động. Tôi đâm
ra không thực sự thân thiết với ông cụ nữa. Cái điều cha tôi muốn là cứ được
nghe tôi kể chuyện, nghe mãi. Tôi thấy cha tôi không hiểu rằng những chuyện như
vậy không thể kể ra hết được, vậy mà tôi cũng muốn làm vui lòng cha tôi. Nhưng
phải mô tả những cái ấy bằng lời thì thật nguy cho tôi quá; tôi sợ nó bị thổi
phồng lên một cách ghê gớm, rồi không thể hãm lại được nữa. Chúng ta sẽ nghĩ gì
nếu biết thật rõ ràng những cái gì đã xảy ra ngoài đấy? Vì thế tôi, chỉ kể vài
ba câu chuyện lăng nhăng thôi, nhưng cha tôi lại hỏi tôi đã đánh giáp lá cà bao
giờ chưa. Tôi nói chưa và đứng dậy đi ra phố. Nhưng, cũng chẳng hơn gì. Sau khi
bị hoảng lên mấy lần vì tiếng tàu điện mà tôi cứ tưởng như trái phá gầm lên,
sắp rơi xuống đến nơi, thì có người vỗ vai tôi. Đó là giáo sư dạy tiếng Đức của
tôi, ông tíu tít hỏi những câu thường lệ: “Thế nào, ở ngoài ấy ra sao? Ghê lắm,
ghê lắm phỏng? Ừ, khiếp thật đấy, nhưng chúng ta nhất định phải giữ vững chứ,
mấy lại người ta nói ở ngoài ấy ít ra các anh cũng được ăn uống khá. Pôn, trông
anh khá đấy. Anh có vẻ khỏe lắm; còn ở nhà tất nhiên không được thế đâu; cũng
là lẽ tự nhiên thôi. Ngay cái việc ấy cũng phải như thế; cái gì quý nhất bao
giờ cũng phải dành cho chiến sĩ chứ.”
Ông
ta kéo tôi vào quán cà phê, ngồi vào bàn khách quen. Tôi được tiếp đãi long trọng
quá. Một ông đeo cái chức giám đốc, chìa tay cho tôi và nói: “A! Anh ở mặt trận
về. Tinh thần ngoài ấy ra sao? Tót lắm, tốt lắm phải không?” Tôi tuyên bố là ai
cũng muốn về nhà cả. Ông ta cười ha hả: “Anh nói đúng thôi! Nhưng trước hết
phải giã cho tụi Pháp tặc một trận nên thân đã chứ. Anh hút nhé! Này, làm một
điếu. Bé con, đem một cốc bia cho người chiến sĩ trẻ tuổi của chúng ta nhé?”
Tôi
vô phúc đã nhận điếu xì gà; thế là phải ngồi nán lại. Ai cũng tràn ngập lòng tử
tế. Chả còn trách vào đâu được. Nhưng vì vẫn thấy bực bội nên hút thật nhanh.
Nhưng ít ra cũng phải làm một việc gì, tôi vội nốc một hơi hết cốc bia. Người
ta mang ngay đến cốc thứ hai. Mọi người đều hiểu mình phải chịu ơn một người
lính như thế nào. Họ cãi nhau về chuyện chúng ta phải sáp nhập những vùng nào.
Vị giám đốc đeo cái dây đồng hồ bằng sắt, tham ăn nhất, ông ta muốn nuốt cả
nước Bỉ, những vùng mỏ than của nước Pháp và những miếng rõ to của nước Nga.
Ông ta nêu những lí do xác đáng tại sao phải chiếm. Còn người nào không chịu, ông
ta còn cãi cho bằng được. Thế rồi ông ta bắt đầu trình bày cần phải chọc thủng
mặt trận Pháp ở chỗ nào, xong đâu đấy ông ta quay về phía tôi: “Này, ngoài ấy
các anh phải tiến lên một tí chứ, cứ mãi cái lối chiến tranh trận địa ấy ư. Cứ
giã cho cái lũ chó má ấy một trận nhừ tử là chúng mình sẽ có hòa bình.”
Tôi
trả lời là theo chúng tôi thì không thể chọc thủng mặt trận được, vì đối phương
có nhiều lực lượng dự trữ quá để chống đỡ. Ngoài ra, tôi còn nói là chiến tranh
không giống như người ta tưởng đâu. Ông ta cãi lại với một vẻ bề trên và chứng
minh là tôi chẳng hiểu gì về việc ấy cả. “Dĩ nhiên, về chi tiết thì anh nói
đúng”, ông ta nói - “Nhưng điều quan trọng là cái toàn cục, mà cái đó thì anh
chưa đủ sức phán đoán. Anh chỉ nhìn thấy khu vực nhỏ bé của anh, cho nên anh
không bao quát được tất cả. Các anh làm nghĩa vụ, hi sinh cả tính mạng mình,
điều đó xứng đáng được những vinh dự cao quý nhất. Các anh mỗi người phải được
huân chương chữ thập sắt mới đáng. Nhưng trước hết phải chọc thủng phòng tuyến
địch ở Flăngđrơ rồi sau đó quật cho nó ụp từ nên xuống dưới!” Ông ta thở hổn
hển và lau bộ râu.
“Phải
quật cho nó từ trên xuống dưới, rồi tiến thẳng đến Pa-ri.”
Tôi
muốn hiểu ông ta hình dung sự việc ra sao và nốc luôn cốc thứ ba ông ta lại gọi
ngay một cốc nữa. Nhưng tôi đứng dậy, ông ta còn nhét vào túi tôi mấy điếu xì
gà, và chia tay tôi bằng một cái vỗ vai thân mật:
-
Nhiệt liệt chúc mừng anh. Mong rằng chẳng bao lâu chúng tôi sẽ được nghe nói
đến anh một cách thật vẻ vang.
Trước
đây tôi đã nghĩ đến chuyện nghỉ phép một cách khác. Đúng một năm trước, nó khác
hẳn bây giờ. Có lẽ chính bản thân tôi đã thay đổi chăng. Từ năm ngoái đến nay,
có cả một hố sâu ngăn cách. Lúc ấy tôi chưa biết rõ chiến tranh lắm. Chúng tôi
chỉ mới đóng trong những khu vực yên tĩnh. Bây giờ tôi không ngờ rằng mình chán
chường đến thế. Ở đây, tôi không thoải mái nữa. Cảnh vật như xa lạ đối với tôi.
Người này hỏi, người khác không hỏi, và tỏ vẻ kiêu hãnh về thái độ của họ;
nhiều khi chính họ bảo rằng không thể nói những chuyện như thế được, cái giọng
ra điều ta đây biết đủ mọi thứ, lại còn làm ra bộ trịch thượng nữa.
Tôi
chỉ thích ngồi một mình, không muốn ai quấy rầy. Vì lúc nào ai cũng chỉ xoay
quanh những chuyện: “Gay lắm phải không? Thế nào, khá chứ?”
Người
này thấy thế này, người kia thấy thế khác và bao giờ họ cũng chú ý đến những gì
có liên quan đến bản thân họ. Trước kia, chắc tôi cũng làm như họ, nhưng bây
giờ, khác xa rồi. Tôi thấy người ta nói nhiều quá. Họ có những lo lắng, những
mục đích, những ham muốn không giống với tôi. Có lần tôi ngồi với một người
trong khu vườn nhỏ của quán cà phê và nói cho ông ta hiểu là tôi chỉ muốn được
ngồi yên thân một chỗ. Dĩ nhiên, họ cũng hiểu điều đó; họ cũng nhận ra và cũng
tán thành nữa, nhưng với họ chỉ toàn là những lời nói, những lời nói suông
thôi, cái khác là ở đó. Họ cũng cảm thấy điều đó, nhưng chỉ một nửa. Còn nửa
kia của con người thì bận vào chỗ khác. Chẳng khác gì họ bị chia sẻ. Chẳng ai
cảm thấy điều đó với tất cả con người mình. Tôi không thể tự mình diễn tả ra rõ
ràng điều tôi suy nghĩ được.
Khi
nhìn thấy họ trong phòng riêng, trong bàn giấy, bận công kia việc nọ, thì tôi
bị cái cảnh ấy lôi cuốn không cưỡng lại được; tôi muốn được như họ, sống cùng
với họ và quên hẳn chiến tranh đi.
Nhưng
đồng thời điều ấy cũng làm tôi ghê tởm. Sao mà nó chật hẹp thế. Cứ như thế thì
làm sao đầy một kiếp người được. Phải phá vỡ những cái khung ấy đi chứ. “Làm
sao lại có thể thế được trong khi ngoài kia mảnh trái phá rít lên miệng hố và
hỏa pháo vọt lên trời? Trong khi những kẻ bị thương bị lôi lên những tấm vải
bạt, và bạn bè của tôi núp trong chiến hào?” Ở đây họ là những sinh vật khác
hẳn, những sinh vật mà tôi không hiểu lắm, tôi vừa thèm muốn lại vừa khinh bỉ.
Tự nhiên tôi cứ phải nghĩ đến Cát và An be đến Muynlơ và Jađơn: lúc này chúng nó
đang làm gì? Chúng nó đang ngồi ở căng tin hay đang bơi lội... Chẳng bao lâu,
chúng nó lại phải ra tuyến thứ nhất.
Trong
căn phòng của tôi, sau cái bàn, có một chiếc trường kỉ bọc da nâu. Tôi ngồi
xuống đó. Trên tường có ghim nhiều tranh ảnh dạo trước tôi cắt ở báo ra. Rải
rác có những bưu ảnh và những trang mà tôi rất thích.Trong một góc nhà, có một
bếp lò nhỏ bằng sắt. Trước mặt, áp vào tường, một cái giá sách.
Tôi
đã sống trong căn phòng này trước khi trở thành anh lính. Những cuốn sách này
tôi đã mua dần bằng tiền dạy học thêm. Phần nhiều là sách cũ.
Tất
cả tác phẩm cổ điển chẳng hạn: “Một cuốn giá một đồng hai, đóng bằng vải dày
màu xanh. Tôi đã mua toàn tập vì tôi rất khó tính, tôi không tin được mấy ông
xuất bản văn tuyển, sợ họ không chọn được những đoạn hay nhất. Vì vậy tôi chỉ
mua những loại toàn tập.” Tôi đã đọc rất say sưa, nhưng đa số không làm tôi
thích thú. Tôi lại càng tha thiết hơn nữa đối với những loại sách khác, những
sách mới, dĩ nhiên đạt hơn nhiều. Có những quyển tôi xoáy được bằng cách không
chính đáng lắm, tôi mượn rồi không trả nữa, vì tôi không muốn rời chúng
ra.
Một
ngăn chứa đầy sách học. Chúng không được giữ gìn cẩn thận và rất là rách nát.
Nhiều tờ bị xé, để làm gì chắc cũng dễ hiểu. Bên dưới là những quyển vở giấy
má, thư từ buộc thành gói, những bức vẽ và những bài tập sáng tác.
Tôi
cố trở lại thời ấy. Nó vẫn còn trong căn phòng, tôi cảm thấy nó ngay. Những bức
tường vẫn còn giữ gìn nó. Hai tay tôi đặt trên trường kỉ. Bây giờ tôi ngồi thật
đàng hoàng, co cả hai chân lên, tôi ngồi thoải mái như thế trong một góc, giữa
những tay vịn của chiếc trường kỉ. Qua chiếc cửa sổ nhỏ mở toang, hiện lên hình
ảnh quen thuộc của dãy phố và chiếc tháp chuông vươn lên ở đầu kia. Trên bàn có
vài bông hoa. Bút mực, bút chì vài cái vỏ sò chặn giấy, lọ mực, ở đây chẳng có
gì thay đổi cả. Quang cảnh sẽ vẫn thế nếu tôi được may mắn, khi chiến tranh kết
liễu và sẽ được trở về mãi mãi.
Tôi
sẽ cứ ngồi cái kiểu thế này, ngắm gian phòng của tôi và chờ đợi…
Tôi
cảm thấy bứt rứt, nhưng tôi không muốn bứt rứt như vậy, vả lại cũng không nên
bứt rứt làm gì. Tôi muốn như trước kia, khi ngồi trước sách vở, vẫn cảm thấy sự
hấp dẫn thầm lặng cái tình quyến luyến mạnh mẽ và khó tả. Tôi muốn cái niềm
khát vọng trước kia, từ những gáy sách nhiều màu kia lại dâng lên, lại quyện
lấy tôi, tôi muốn nó làm chảy tan cái khối chì nặng trĩu trong tôi để đánh thức
dậy trong con người lòng nôn nóng về tương lai, cái niềm vui mọc cánh mà thế
giới tư tưởng đem đến cho tôi. Tôi muốn nó đem lại cho tôi cái nhiệt tình đã
mất đi của thời niên thiếu.
Tôi
ngồi đấy và chờ đợi. Tôi nhớ ra là phải đến thăm mẹ Kemơrich và cũng có thể đến
thăm Mitenxtat nữa. Chắc nó ở trại lính. Tôi nhìn qua cửa sổ. Sau hình ảnh dãy
phố đầy ánh nắng, nổi lên ngọn đồi mờ nhạt, rồi cảnh đó biến thành một ngày thu
trong sáng, tôi đang ngồi trước bếp lửa cùng với Cát và An be ăn khoai
lùi.
Nhưng
tôi không muốn nghĩ đến chuyện ấy; tôi gạt cái kỉ niệm ấy ra.
Điều
tôi thèm muốn là căn phòng này phải nói lên với tôi, phải quấn quýt lấy tôi
phải giữ lấy tôi. Tôi muốn được rung cảm mối tình ruột thịt đối với chốn này.
Tôi muốn nghe giọng nói của nó, để khi trở lại tiền tuyến, tôi biết được điều
này: chiến tranh sẽ bị xóa nhòa và biến mất khi ta trở về nhà; chiến tranh sẽ
chấm dứt; nó không ray rứt ta nữa, nó chỉ có quyền lực đối với ta ở cái vỏ bên
ngoài thôi.
Những
gáy sách vẫn xếp cạnh nhau, tôi vẫn nhận ra chúng, tôi vẫn còn nhớ cách thức
tôi xếp đặt chúng. Tôi đưa mắt van nài chúng: “Hãy nói với ta đi, hãy chào đón
ta đi, hãy giữ lấy ta đi, ôi cuộc đời xưa cũ, cuộc đời vô tư và đẹp đẽ, hãy giữ
lấy ta...” Tôi chờ đợi, tôi chờ đợi...
Bao
nhiêu hình ảnh lướt qua trước mặt tôi, chúng không có chiều sâu, chỉ là những
bóng mờ kỉ niệm. Chẳng có gì, chẳng có gì cả.
Tôi
càng lo lắng.