Lang Gia Bảng (Tập 1) - Chương 19 - Phần 02
Dự vương nhìn ả một cái, thở dài, nói: “Ta hiểu ý ngươi, có điều Hà Kính Trung là người được việc, thằng con trai này hình như quả thật là tử huyệt của ông ta, con trai độc nhất mà, nhà ai mà chẳng như vậy? Đương nhiên ngươi nói cũng đúng, bảo vệ không nổi thì không thể miễn cưỡng, bản vương sẽ nói với Tề Mẫn, bảo hắn tiếp xúc kín đáo với Kỷ vương gia trước đã, nếu thái độ của vương thúc cứng rắn quá thì không cần phải miễn cưỡng. Nếu thật sự không còn đường sống thì cũng chỉ còn cách lấy mạng đền mạng.”
“Vương gia thánh minh.” Tần Bát Nhã mỉm cười, gương mặt như gió xuân.
Dự vương đưa tay khoác tay giai nhân, dịu dàng nói: “Bản vương may mắn có ngươi, bao nhiêu chuyện đều nhờ có tuệ nhãn của ngươi phát hiện. Dạo trước vừa phát hiện bộ mặt thật của Tạ Ngọc, hôm nay lại kịp thời ngăn chặn sai lầm của bộ Hình. Ngươi lập được công lớn như vậy, bản vương biết phải thưởng ngươi thế nào?”
Tần Bát Nhã cúi đầu, nhẹ nhàng lui lại một bước, rút cánh tay ngọc ra khiến đầu ngón tay mềm mại thoáng chạm vào lòng bàn tay hắn, không biết vô tình hay cố ý, cười duyên một tiếng. “Bát Nhã tuy là nữ lưu nhưng xưa nay vẫn hướng tới các truyền kỳ vua sáng tôi hiền, chỉ hận sinh ra đã là thân nữ nhi, tài trí có hạn, cuộc đời này không thể phong hầu phong tướng. Giờ đây được điện hạ tin dùng, có cơ hội phục vụ thánh chủ tương lai là đã thỏa ý nguyện rồi, không dám trông chờ được thưởng.”
“Tương lai nếu ta có thể lên ngôi báu thì ngươi chính là nữ thừa tướng của ta, long sàng cũng có thể chia cho ngươi một nửa, còn có gì không thể thưởng cho ngươi chứ?” Dự vương nói, trong giọng nói đã mang ý bỡn cợt. “Chỉ sợ ngươi lại không muốn cũng chưa biết chừng.”
Tần Bát Nhã cười nhẹ, không tức giận, cũng không có ý định trả lời, chỉ khẽ thi lễ, nhỏ giọng nói: “Xin điện hạ sớm báo cho Tề thượng thư về chuyện của Kỷ vương gia. Bát Nhã còn có chút công việc cần giải quyết, xin cáo từ trước.”
Thái độ như gần như xa của ả lại làm cho Dự vương ngứa ngáy trong lòng, muốn vuốt ve an ủi thêm nhưng lại không tiện càn rỡ bởi hắn thật sự coi trọng nữ nhân này, vì vậy đành ho một tiếng, cố gắng kiềm chế dục vọng, trơ mắt nhìn ả đi mất.
***
Thượng thư bộ Hình Tề Mẫn nhanh chóng nhận được tin tức do người của phủ Dự vương đưa tới.
Vốn đã bàn bạc xong xuôi với thủ hạ về việc mua chuộc nhân chứng thế nào, lật lại lời khai ra sao, sửa lại kết quả khám nghiệm kiểu gì, tóm lại tất cả mọi việc đã làm xong tám, chín phần mười, không ngờ lại bị dội một chậu nước lạnh.
Vừa nghe nói còn có một nhân chứng nhìn thấy tận mắt là Kỷ vương gia, Tề Mẫn lập tức biết mọi chuyện đã hỏng bét.
Mặc dù ý của Dự vương là bảo hắn thăm dò ý tứ của Kỷ vương trước, nhưng Tề Mẫn biết có thăm dò hay không cũng không có gì khác nhau.
Mọi người đều biết tính tình Kỷ vương rất thẳng thắn, hơn nữa dù ông ta không thẳng thắn cũng sẽ không tội gì phải khai man vì một tên tiểu tử quần là áo lượt. Kể cả trong trường hợp Văn Viễn bá không đưa ra bất cứ yêu cầu nào với ông ta thì khi Hoàng đế hỏi, chắc chắn ông ta cũng sẽ nói thật.
Có điều Dự vương đã dặn phải thăm dò thì cũng không thể không thăm dò gì cả, cho nên Tề Mẫn xin nghỉ hai ngày, chuẩn bị đích thân đến sơn trang gần suối nước nóng của Kỷ vương một chuyến.
Cho dù trước khi xuất phát, Tề Mẫn đã chuẩn bị tâm lý cho một chuyến đi vô ích, nhưng hắn tuyệt đối không nghĩ tới kết quả này sẽ đến sớm như vậy, nhanh như vậy.
Nguyên nhân thượng thư bộ Hình trở về mà không được việc gì lại không phải vì thái độ cứng rắn của Kỷ vương, nói thật, khi Tề Mẫn biết mình đi chuyến này là hoàn toàn công toi thì hắn còn chưa nhìn thấy Kỷ vương.
Thực ra chuyện không hề phức tạp, chỉ là có chút trùng hợp.
Hổ Khâu là một thánh địa, sơn trang san sát, biệt viện của Kỷ vương là khu vực quy mô lớn nhất trong đó. Tất cả những người có giao tình với Kỷ vương đều sẽ chọn cách ở nhờ trong biệt viện này mỗi khi đến Hổ Khâu. Chẳng hạn như Ngôn Dự Tân, người được Kỷ vương coi là bạn vong niên vì tính phong lưu hào hiệp.
Nhóm ba người, gồm đại thiếu gia lúc nào cũng vui vẻ của phủ quốc cữu, đại công tử phủ Ninh Quốc hầu hơi sầu muộn và nhị công tử phủ Ninh Quốc hầu hơi ủ rũ vừa đưa thiếp cầu kiến ngoài cổng biệt viện, Kỷ vương gia đã lập tức vui mừng đi ra đón.
Mặc dù vai vế khác nhau, tuổi tác chênh lệch rất nhiều nhưng Kỷ vương cả đời chỉ thích phong hoa tuyết nguyệt vẫn giữ được tính phóng khoáng của thời thanh niên, qua lại với đám vãn bối này rất thoải mái, không hề có khoảng cách thế hệ.
Có khách đến nhà, là ba người trẻ trung tràn đầy sức sống, trong đó lại có người ông ta thích nhất là Dự Tân, Kỷ vương vui vẻ bày tiệc rượu đãi khách, ăn uống thỏa thuê. Mọi người càng uống càng hào hứng, đương nhiên là không có chuyện gì không nhắc đến.
Chủ đề ban đầu đương nhiên là phấn hồng son đỏ.
Bình phẩm về người đẹp ở kinh thành, kiến thức của Kỷ vương tuyệt đối không kém các chủ Lang Gia các, vừa nói đến chuyện này đã mặt mày hớn hở.
Ngôn Dự Tân cũng là người thương hương tiếc ngọc, ngưỡng mộ nhất chính là Cung Vũ ở Diệu Âm phường. Hai người vừa trò chuyện đã tâm đầu ý hợp, nói từ Diệu Âm phường đến Dương Liễu Tâm, sau đó nhân tiện nói đến luôn vụ án mạng ở Dương Liễu Tâm.
Kỷ vương rượu vào líu lưỡi. “Ta bết, khi... khi đó ta cúng có mặt...”
Ngôn Dự Tân mở to mắt. “Ngài... ngài cũng ở đó? Thế… thế làm sao mà chết?”
Mặc dù Kỷ vương đã hơi líu lưỡi nhưng thần trí vẫn còn rất tỉnh táo, không những tỉnh táo mà ông ta còn rất hưng phấn. Nghe Ngôn Dự Tân hỏi, ông ta lập tức kể lại một lượt từ đầu đến cuối cực kỳ sinh động.
Hai người còn lại nghe vào tai cũng để đó, nhưng Ngôn Dự Tân là một người giao du rất rộng, lại thích buôn chuyện, hôm sau hắn đến trang viện của các quý tộc khác ở Hổ Khâu đã ba hoa chích chòe về vụ huyết án mà Kỷ vương chứng kiến tận mắt này.
Thế là khi Tề Mẫn tới Hổ Khâu, gần như tất cả mọi quý nhân đang nghỉ ngơi ở đây đều đã biết Hà Văn Tân quả thật tự tay đánh chết người ta, Kỷ vương gia đã chứng kiến tận mắt...
Trong tình hình này, việc thăm dò ý tứ của Kỷ vương đã hoàn toàn vô nghĩa, thượng thư bộ Hình đành phải thầm than một tiếng: “Hà đại nhân ơi Hà đại nhân, không phải ta không hết lòng giúp ngươi, mà là con trai của ngươi... đúng là quá... đen đủi.”
***
Theo vương pháp của Đại Lương, các tử tù chỉ bị xử tử vào hai thời điểm cố định hằng năm, một vào mùa xuân, một vào mùa thu, được gọi là xuân quyết và thu quyết.
Sau khi Hà Kính Trung biết con trai mình không còn hy vọng thoát tội, chắc chắn sẽ bị xử tử, hắn đành thỉnh cầu Tề Mẫn kéo dài thời gian đến sau xuân quyết mới kết án, như vậy con trai hắn sẽ có thể sống thêm nửa năm, trông chờ một cơ hội xoay chuyển tình thế nào đó lại xuất hiện.
Nhưng Văn Viễn bá chẳng lẽ lại không biết tính toán này của Hà Kính Trung? Hiện trong tay ông ta có một nhân chứng quan trọng, quan điểm và thái độ của mọi người ở kinh thành cũng đều nghiêng về phía ông ta, cho nên ông ta càng tỏ ra cứng rắn, suốt ngày đến bộ Hình ép phải nhanh chóng xét xử.
Mấy ngày trước, Thái tử vừa mất một thượng thư bộ Hộ là Lâu Chi Kính, giờ đây có cơ hội trả thù này, há có thể dễ dàng buông tha? Hắn sai khiến đám ngự sử phe mình liên tục dâng sớ vạch tội Tề Mẫn lạm dụng chức quyền không chịu xử án.
Tình hình này mới diễn ra vài ngày, bộ Hình đã bắt đầu không chống đỡ được. Dự vương thấy đằng nào cũng phải xử tử rồi, sống thêm nửa năm cũng không có ý nghĩa gì, vì vậy ngầm cho phép Tề Mẫn mấy ngày sau thăng đường, nhân chứng vật chứng đầy đủ, nhanh chóng kết tội Hà Văn Tân giết người vì hận thù cá nhân, tuyên án chém đầu.
Một ngày sau khi vụ án được phán quyết, Hà Kính Trung đã ốm liệt giường, thái y chẩn đoán là tinh thần suy sụp, khí mạch không thông, cần phải nghỉ ngơi.
Lúc này chính là cuối năm, bộ Lại phải tiến hành bình xét đánh giá quan chức, đề xuất thưởng phạt, thăng giáng. Quan lại đương chức đương quyền các nơi nhân cơ hội chúc Tết lũ lượt sai người đưa lễ đến kinh thành, quan lại đang đợi bổ nhiệm cũng có thể ngang nhiên thăm viếng khắp nơi, lấy lý do chúc Tết để khơi thông quan hệ.
Bất kể là từ phương diện nào, đây đều là thời gian bận rộn nhất của bộ Lại. Hà Kính Trung vừa ốm liệt giường, cục diện trong bộ lập tức hỗn loạn.
Cũng như rất nhiều thu nhập bí mật của Thái tử đến từ bộ Hộ, đại bộ phận thu nhập của Dự vương cũng đến từ quyền miễn nhiệm nhân sự của bộ Lại, cơ hội thu vào một lượng bạc trắng khổng lồ dịp cuối năm này không thể bị ảnh hưởng vì bệnh tình của thượng thư bộ Lại.
Nhưng sốt ruột cũng chỉ để sốt ruột, Hà Kính Trung quả thật đã bị chuyện của con trai làm cho suy sụp chứ không phải là giả ốm, quát tháo trách mắng đều vô dụng, ông ta vẫn không thể nào bò dậy được. Dự vương thấy tình hình ngày càng xấu đi, không thể không triệu tập đám mưu sĩ cùng thương thảo cách giải quyết hậu quả của việc này.
Hai ngày sau, Dự vương đích thân đến phủ thượng thư của Hà Kính Trung, đuổi tất cả mọi người ra ngoài, thân thiết an ủi vị thần tử này một phen.
Không ai biết hắn an ủi thế nào, chỉ biết vài ngày sau Hà Kính Trung đã dưỡng bệnh xong, lại bắt đầu xử lý công vụ, hơn nữa còn nhanh chóng giải quyết những lộn xộn của mấy ngày trước, ngày nào cũng bận tối mắt tối mũi, đánh giá các quan lại, tiếp kiến quan lại địa phương, thường xuyên làm việc đến tận đêm khuya, có thể nói là biến đau thương thành sức mạnh, liều mạng làm việc cho Dự vương khiến phe phái Thái tử không hiểu ra sao.
Nhưng lúc này Thái tử còn tạm thời không có nhiều tâm tình để ý tới Hà Kính Trung, hắn đang phải quan tâm đến một việc khác, mà việc này cũng chính là vấn đề khó khăn của bộ Lễ hiện nay.
Một trong những chuyện quan trọng nhất của hoàng thất cuối năm chính là tế lễ.
Tế tổ, tế trời, tế đất, tế thần.
Đối với triều đình và hoàng tộc, quy chế tế lễ có chính xác hay không là việc lớn quan hệ đến mọi chuyện năm sau có được thuận lợi hay không, không được phép qua loa dù chỉ một chút.
Tạ Ngọc rất nhạy cảm, phát hiện cơ hội hết sức có lợi cho Thái tử đã đến.
Theo lễ chế Đại Lương, dưới phi vị không được dự lễ tế, phải quỳ hầu bên ngoài. Nhưng cũng theo lễ chế Đại Lương, sau khi Thái tử vẩy rượu tế lễ sẽ phải quỳ vuốt y phục của song thân phụ mẫu để tỏ lòng hiếu kính.
Mâu thuẫn xuất hiện ở đây.
Việt thị đã bị giáng xuống tần vị, nhưng bà ta lại là mẹ đẻ của Thái tử, một bên cấp bậc rất thấp, một bên thân phận cực cao, khiến bộ Lễ hết sức khó xử khi sắp xếp tập tục tế lễ.
Tạ Ngọc bí mật đề nghị Thái tử lợi dụng cơ hội này vào cung khóc lóc kể lể với Hoàng đế, thỉnh cầu phục lại phi vị cho mẫu thân, dù không thể lập tức phục vị thành quý phi thì ít nhất cũng phải thành cung chủ của một cung, có chỗ ở độc lập của mình, cũng có thể tiếp Hoàng đế ngủ lại qua đêm, từ đó dần dần lấy lại ân sủng của Hoàng đế.
Nghe chủ ý này, Thái tử cực kỳ mừng rỡ, sau khi chuẩn bị kĩ càng liền vào cung quỳ dưới gối Hoàng đế Đại Lương khóc lóc, than vãn nguyên một canh giờ, ra sức thể hiện tấm lòng hiếu thảo của mình.
Hoàng đế Đại Lương hơi khó xử.
Việt thị vốn là phi tần được ông ta yêu thương nhất, không phải ông ta không muốn nhân cơ hội này để xá tội, nhưng Việt thị vừa mới bị giáng vị có vài tháng, nếu xá tội sớm như vậy thì sợ rằng quận chúa Nghê Hoàng sẽ lạnh lòng.
“Phụ hoàng, bên chỗ quận chúa hài nhi sẽ đích thân đến tạ lỗi.” Thái tử đã được chỉ điểm, biết Lương đế đang do dự vấn đề gì, lập tức ôm chân ông ta, nói. “Quận chúa là người rất trọng đại nghĩa, nhất định sẽ hiểu việc này là vì lễ tế cuối năm. Hài nhi nguyện nhận hình phạt trước mặt quận chúa để chuộc tội thay mẫu thân.”
Hoàng đế Đại Lương nghe hắn khóc lóc mãi cũng động lòng, liền sai người triệu thượng thư bộ Lễ Trần Nguyên Thành đến.
Vị Trần lão thượng thư này là nguyên lão hai triều, cả đời không nghe một lời, không dựa một người, tất cả chỉ biết một chữ “Lễ”. Thái tử và Dự vương ra sức lôi kéo mà ông ta đều không hề dao động.
Cũng vì có vị lão thượng thư này tọa trấn nên bộ Lễ mới may mắn trở thành bộ duy nhất trong số sáu bộ không nghiêng về phe phái nào, duy trì thế trung lập siêu nhiên.
Trần lão thượng thư không biết nguyên nhân thật sự khiến Việt quý phi bị truất, chỉ được xem chỉ dụ, còn tưởng rằng đại khái là tranh chấp vụn vặt trong cung đình.
Vốn ông ta vẫn đang đau đầu về việc sắp xếp tế lễ, lúc này thấy Hoàng đế gọi đến hỏi có nên phục phi vị cho Việt tần hay không, đương nhiên ông ta sẽ không tỏ ý phản đối.
Mặc dù bộ Lễ không có dị nghị, thậm chí còn rất tán thành, nhưng Hoàng đế Đại Lương vẫn còn hơi do dự.
Đúng lúc này, Tạ Ngọc vào cung xin gặp Hoàng đế, lấy cớ tấu bẩm việc quân nhu vùng Tây Bắc.
Lúc này Hoàng đế Đại Lương không biết quan hệ giữa Tạ Ngọc và Thái tử, nghĩ rằng ông ta cũng là người của phe võ thần, liền sai người triệu ông ta vào để thăm dò ý kiến đối với chuyện có nên phục vị cho Việt thị hay không.
Tạ Ngọc suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Thần cho rằng Thái tử hiền đức, Việt thị có nhiều công lao, lại ở hậu cung nhiều năm, xưa nay vẫn dốc lòng hầu hạ Bệ hạ, chưa hề nghe nói có khuyết điểm gì, chỉ vì lý do bất kính trong khi hầu hạ mà giáng từ quý phi nhất phẩm xuống bậc tần thì thật sự là hơi nặng. Khi đó vốn cũng đã có người phản đối, nhưng vì đây là việc nhà của Bệ hạ nên không ai dám xen vào. Nay Bệ hạ đã đổi ý muốn khai ân thì chỉ cần một đạo ý chỉ, có gì phải do dự?”
“Ôi, ngươi không biết.” Hoàng đế Đại Lương khó xử nói. “Tội của Việt thị có nguyên do khác... Vì Thái tử, Việt thị đã có việc làm khinh nhờn Nghê Hoàng, trẫm sợ nếu đặc xá quá sớm sẽ làm lạnh lòng các tướng sĩ nam cương...”
Tạ Ngọc làm bộ cúi đầu trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu rồi mới bước lên một bước, nhỏ giọng nói: “Nếu là vì điều này thì thần lại cho rằng càng nên xá tội...”
Lương đế ngẩn ra. “Ngươi nói thế là ý gì?”
“Bệ hạ nghĩ xem, Việt thị thân là hoàng quý phi, thân mẫu của Thái tử, là quân. Quận chúa Nghê Hoàng là con gái bề tôi, là võ quan triều đình, là thần. Nếu vì bề trên nhất thời sai sót mà lòng mang oán hận thì không phải là đạo làm thần. Mặc dù quận chúa công cao, nên được ân sủng nhưng Bệ hạ đã hạ chỉ giáng chức hoàng phi, xử phạt Thái tử vì quận chúa, thật sự đã là một ân sủng cực lớn rồi. Nếu quận chúa là một bề tôi trung thành thì khi đó nên xin Bệ hạ ân xá cho Việt thị. Đương nhiên... là thân nữ nhi thì ai cũng không khỏi có chút hẹp hòi, suy nghĩ không chu đáo, chuyện này cũng không cần nhắc tới. Nhưng tế lễ cuối năm là nghi lễ trọng yếu của đất nước, phục phi vị cho Việt thị là quốc thái dân an, trăm họ cùng vui, bên nào nặng bên nào nhẹ đã rất rõ ràng, Mục vương phủ bên kia thì chỉ cần phái một nội sứ qua giải thích vài câu là được, ân sủng quá hậu không khỏi sẽ dung túng ngang ngược.” Nói tới đây, trên mặt Tạ Ngọc lộ ra một nụ cười ý tứ sâu xa. “Thần là người xuất thân từ binh nghiệp, đương nhiên biết trong quân thường có những người cậy công cao mà coi thường quân chủ, Bệ hạ nên chèn ép một chút mới tốt.”
Hoàng đế Đại Lương cau mày, trên mặt lại không có biểu hiện gì khác thường, chỉ “hừ” một tiếng. “Nghê Hoàng không phải là người như thế, ngươi suy nghĩ nhiều quá rồi.”
Tạ Ngọc vội sợ hãi tạ tội. “Thần đương nhiên không phải nói quận chúa Nghê Hoàng. Thần chỉ nhắc nhở Bệ hạ một câu mà thôi. Nhớ năm đó quân Xích Diễm lớn mạnh đến mức độ ấy, làm sao không phải vì không khống chế từ sớm...”
Hai má Lương đế khẽ giật, bàn tay bất giác nắm chặt tay vịn ngai rồng, yên lặng nửa khắc rồi lạnh lùng nói: “Tuyên thị chiếu Kim Môn!”
Tuyên thị chiếu vào tất nhiên là cần thảo thánh chỉ.
Thái tử nhất thời không khống chế được, ngoài mặt lộ rõ vẻ vui mừng khôn xiết, bị Tạ Ngọc trừng mắt nhìn mới vội vàng kiềm chế lại.
“Chuyện hôm nay thần định tấu bẩm không phải việc gấp.” Tạ Ngọc khom người nói. “Bệ hạ đã có chuyện cần xử lý thì thần xin cáo lui trước.”
“Được.” Hoàng đế Đại Lương phất tay cho phép hắn ra ngoài, mệt mỏi nghiêng người, đưa tay chống cằm.
Thái tử vội vàng sai người mang gối mềm chăn lụa đến, tự tay đắp cho Hoàng đế Đại Lương.
“Ngươi không cần ở đây hầu hạ trẫm nữa. Hôm nay trẫm sẽ tuyên... Đi trước báo cho mẫu thân ngươi yên tâm...” Hoàng đế Đại Lương thở dài, nhỏ giọng nói.
“Nhi thần cảm tạ long ân của phụ hoàng.” Thái tử khấu đầu chạm đất ba lần, lại nói: “Xin phụ hoàng yên tâm, tối nay hài nhi sẽ đến phủ Mục vương...”
“Không.” Hoàng đế Đại Lương giơ một tay lên ngăn cản hắn, sắc mặt âm trầm. “Tại sao ngươi vẫn không nhớ? Ngươi là Thái tử, là Đông cung Thái tử. Ngươi không cần phải đến Mục vương phủ, trẫm sẽ sai người đến.”
“Vâng.” Thái tử không dám phản bác, vội vàng cúi đầu, lại khấu đầu một lần nữa rồi mới đứng dậy, ra ngoài.
Bên ngoài đang có gió lạnh, Thái tử mặc áo khoác da cừu do thái giám đưa đến, đi bộ ra ngoại điện.
Kỳ thực hắn là chủ Đông cung, vốn có đặc quyền ngồi xe bốn bánh trong cung, nhưng để thể hiện sự kính trọng, xe của Đông cung bình thường đều dừng ngoài cửa ngoại điện. Đám người hầu đều đang chờ đợi trong gió tuyết, vừa thấy chủ của mình đi ra đều vội vàng bước lên đón.
“Đến nội cung!” Chỉ ra lệnh mấy chữ, Thái tử đã vén vạt áo nhảy lên chiếc xe bốn bánh phủ gấm vàng, hành động vội vã như thể sợ lạnh.
Tuy nhiên khi màn xe bằng gấm thêu màu vàng hạ xuống ngăn cản mọi thứ bên ngoài, Đông cung Thái tử vẻ mặt đang bình tĩnh đột nhiên lại cắn răng thật chặt, vẻ oán hận hiện lên trên mặt, dường như không thể tiếp tục kìm nén sự giận dữ, khó chịu trong lòng.
Thái tử à? Ta là Thái tử sao? Phụ hoàng, nếu ngươi thật sự coi ta là một Thái tử thì tại sao lại sủng ái Dự vương, nâng đỡ hắn đến mức có thể đối địch với ta như thế?