Ván bài lật ngửa - Phần I - Chương 08

P1 - Chương 8

Trời
còn mờ mờ, trăng chưa lặn, Luân, Quyến và Sa rời nhà Hai Sặt vào chợ Phụng
Hiệp. Vợ chồng Hai Sặt, con Rô, sau bữa cơm mà họ ép bọn Luân ăn “bỏ bụng” tiễn
khách xuống ghe. Ghe rời bến, họ vẫn còn đứng trông theo…

Qua một
vạt đất hoang um tùm lau sậy – làn ranh phân chia vùng giải phóng và vùng tạm
chiếm – bắt đầu ngoại vi thị trấn.

So với
vùng giải phóng, nhà cửa ngoại vi thị trấn Phụng Hiệp xơ xác hơn nhiều. Hầu như
không nhà nào lập vườn và hầu như nhà nào cũng che tạm bợ bằng mấy tấm tôn, mấy
bẹ lá dừa. Tuy vậy, mỗi nhà đều có luống vạn thọ.

- Còn
nửa con trăng nầy với một con trăng nữa là Tết.

Quyến
nhìn luống vạn thọ rồi nói. Câu nói luyến tiếc của Quyến khuấy động tâm tư của
Luân. Đúng rồi, năm nay, Luân sẽ phải ăn cái Tết đầu tiên xa chiến khu, xa đồng đội. Từ gần chục năm qua, cái Tết kháng
chiến đã vào Luân như một thói quen dễ thương. Dù ở chiến trường nào – vùng tự
do hay địch hậu – Tết đến với bao nhiêu rộn ràng: đánh vài trận “Tất Niên”
cho ra đánh, hội nghị tổng kết, để còn sửa soạn đầu lân, tiết mục ca kịch vui
với bà con. Đêm ba mươi, thế
nào cũng có buổi đón Giao Thừa đọc thơ chúc Tết của Hồ Chủ tịch, ăn bánh tét,
thịt kho dưa giá của Hội phụ nữ và hội mẹ, thức cho đến sáng. Sáng, chia nhau
đi chúc Tết chòm xóm. Thế nào cũng nhậu “ba sợi” – “ba sợi” thôi, song không ít
cậu ngủ li bì, quên trời quên đất. Nơi làm việc của ban chỉ huy và từng nhà dân
mà bộ đội ở nhờ, thế nào cũng có cửa tam quan bằng lá dừa, có bình hoa vạn thọ,
có cờ và ảnh Cụ Hồ. Vui nhất là đêm kịch. Đơn vị ít phụ nữ - vài
cô y tá, chị nuôi rất ngại lên sân khấu – cho nên các cậu trai phải đóng hóa
trang: độn ngực, tập đi yểu điệu… trừ giọng ồm ồm đực rựa không sao sửa nổi,
báo hại người xem cười muốn đứt ruột, nhiều bà con vừa cười vừa lau nước mắt.

Ra Giêng, lại họp bàn kế hoạch tác chiến, luyện quân.

Nhịp độ
đó đã thành bình thường trong Luân. Bây giờ anh như hẫng. Thật khó mà nghĩ đến
một cái Tết không ló mặt ra ngoài, không chúc Tết và được chúc Tết – dẫu có
chúc Tết cũng sẽ không phải là: năm mới mừng tuổi bà con, mong bà con đoàn kết,
ủng hộ bộ đội, đẩy mạnh kháng chiến đến toàn thắng, theo lời dạy của Cụ Hồ và Chính phủ Trung ương.

Kháng
chiến đã thắng lợi, nhưng Luân mất đi cái câu chúc tốt đẹp đầu năm đó.

Trời
sáng dần. Trước trụ sở Ban liên hiệp đình chiến – ngôi nhà gạch nằm trên một
trong bảy ngã đổ ra Phụng Hiệp
– ngọn cờ đỏ sao vàng phẩy nhẹ trong gió sớm. Buổi tập thể dục sắp kết thúc.
Các đồng chí thân yêu của Luân đang thở. Họ quay mặt về chiến khu, cúi đầu, ép
hai cánh tay rồi mở rộng vòng tay, ưỡn ngực hít mạnh, theo hiệu lệnh điều khiển
mà Luân rất quen thuộc.

Tam bản
trôi chầm chậm. Luân không dám ngó ngay trụ sở - có thể có người quen Luân và
với Luân, từ nay giấu kín niềm đam mê cũ là một kỉ luật. Anh biết mình không dễ
dàng nhập thân vào lối sống mà mọi cái đều trái ngược với đạo lí anh hấp thu
trong chín năm. Chỉ còn biết cố công. Ôi chao! Cái không khí trong lành mà anh
đã hít, mỗi buổi sáng tập thể dục cùng đồng đội…

Anh
nhìn Quyến, Sa: hai cậu đang hết sức căng thẳng.

Ngọn
quốc kì in trên nước, Luân se sẽ đưa bàn tay xuống dòng kinh vuốt ve ngọn cờ.
Trụ sở Ban liên hiệp đình chiến, ngọn quốc kì, tiếng điều khiển buổi tập thể
dục và vùng tự do khu 9 cùng cái đêm chót ở nhà Hai Sặt lùi lại sau lưng anh…

*

Luân
lên bờ, chợ Phụng Hiệp ồn ào hơn tưởng tượng của anh.

Tiếng
xe rồ máy, tiếng lơ mời khách, tiếng rao hàng và tiếng chửi tục tằn dậy cả một
góc trời. Chỉ cách có một con kinh, Luân như bước sang một thế giới xa lạ hẳn.

Sau khi
kín đáo ngoảnh lại nhìn lần nữa trụ sở Ban liên hiệp và ngọn cờ Tổ quốc, Luân
lũi theo sóng người đi sâu vào chợ. Chiếc tam bản của Quyến, Sa lao lách giữa
đoàn xuồng ghe chen chúc xuôi luôn về hướng sông lớn. Mỗi cậu sẽ bằng cách
riêng, gặp Luân sau này…

Đã lâu
rồi, Luân mới đi lại một mình. Tựa như anh đang đột nhập đồn giặc. Ngay cả khi
trinh sát đồn giặc, Luân cũng không đơn độc như lần này.

Luân
chợt thấy lành lạnh nơi xương sống. Quanh anh, những cái nhìn chẳng giống cái
mà anh thường gặp mươi phút trước đây. Tất cả đều dữ dằn.

Sau
cùng, Luân đến bến xe:

- Thầy
đi Cần Thơ hả?

Cũng
rất lâu, Luân mới nghe lại tiếng “thầy” lãng xẹt nầy. Luân chợt nhớ rằng anh đã
lọt vào một xã hội mà người ta quen gọi với Ngài, cụ, ông chủ, thầy, cậu… Sẽ
chỉ còn có thể gọi nhau “đồng chí” khi thật vắng và phải gọi thật khẽ…

Luân
không mang xách gì theo mình. Người lơ xe lôi xển anh và tống anh lên chiếc xe
đò còn trống. Luân thấy các lơ xe, bất kể hành khách đồng ý hay không, vác túi,
thúng, bao… của họ ném bừa lên mui. Cái tiếp xúc khởi điểm báo với Luân sự lộn
ẩu của một xã hội mà Luân phải vùng vẫy trong đó.

Chưa
hết, Luân chưa yên chỗ thì hàng chục bàn tay chìa qua cửa: mía ghim, dưa hấu,
nem, thuốc lá, giấy số, báo…

Luân
mua bao thuốc lá Ruby Queen, diêm quẹt và tờ Tiếng Chuông.

Tờ báo
ra ngày thứ Sáu, 10-12-1954, chạy tít suốt tám cột: “Giáo sư Ngô Ngọc Đối
từ chức Tổng ủy tị nạn, Bác sĩ Thú y Phạm Văn Huyến thay… Hai tựa khác cũng to không
kém: Bộ trưởng Phạm Duy Khiêm được bổ Cao ủy Việt Nam tại Pháp – Thiếu tướng
Nguyễn Văn Vĩ được cử làm Tổng thanh tra quân đội thay thế tướng 4 sao Alessandri…”

Luân
thầm nghĩ: Cả ba Phạm Văn Huyến, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Văn Vĩ, thân Pháp nổi tiếng, chỉ là chiếc cầu tạm mà Diệm
dùng trong buổi giao thời.

Xe chờ
khách khá lâu, Luân đọc hết trang tin tức, bắt đầu đọc bài xã luận, kí tên Khải
Minh. Khải Minh là ai, Luân đã biết, đã gặp. Bài xã luận nhắc đến cuộc biểu
tình hoan hô hòa bình và bị trấn áp đẫm máu – việc xảy ra cách nay đã hơn năm tháng, liền sau khi hiệp định Genève kí kết. Nhắc
lại sự việc đó, bài xã luận khôn khéo giới thiệu bản tuyên bố của Ủy ban Bảo vệ Hòa bình, đứng đầu là các ông Kĩ sư Lưu Văn Lang, Giám đốc
Pháp Hoa ngân hàng Michel Nguyễn Văn Vĩ, Luật sư Trịnh Đình Thảo, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Bác sĩ Dược khoa Trần Kim Quan, Giáo sư
Dương Trung Tín và hơn ba trăm trí
thức, nhân sĩ khác.

Luân
lật trang trong, bây giờ anh không còn đọc được nữa. Tình hình qua vài mẩu tin
đã hiện rõ thực chất: Cuộc đấu tranh vì hòa bình, thống nhất đất nước của nhân
dân vừa chớm dậy, đã nhuốm máu ngay tức khắc.

Mải mê
suy nghĩ, anh không chú ý người ngồi bên cạnh đang ghé mắt cùng đọc báo với anh.
Khi Luân chợt nhìn ra – ông khách để bộ râu cá chốt, đeo kính đen to gọng,
người gầy gầy – anh trao luôn tờ báo cho ông ta. Ông ta cám ơn và cắm cúi đọc.

“Một
mật thám?” Luân tự hỏi. Rất có thể vì đôi kiếng – gọng to – màu đen giúp đắc
lực cho những cái nhìn rình rập.

Đằng
sau Luân, hình như cũng có một số tay không phải dân làm ăn. Ngay người tài xế
- ông ta lúc nào cũng láo liên. Và tay lơ xe, vẻ mặt thật đáng nghi ngờ.

Xe bắt
đầu chạy. Ông khách trả tờ báo cho Luân, nhồi thuốc vào ống tẩu. Khói lên bựng
bựng. Hình như mắt ông ta không rời Luân.

Đường
Phụng Hiệp – Cần Thơ xấu, chiếc xe đò hầm hừ vượt qua những đoạn bị phá hoại.
Luân thấy vui vui: Từ phía đối ngược lại, anh quan sát kĩ hơn tác dụng cả những
đêm bộ đội cùng dân hì hục đào, cuốc…

Xe qua
đồn Nhà Thờ. Cây thập ác gục xuống, cái đồn chỉ còn bờ tường đá cháy nham nhở.
Luân cố hình dung những đêm đánh hệ thống đồn bót dọc lộ nầy, anh long theo con
rạch nào.

Xe đỗ
lại trước cây chắn một trạm cảnh sát. Tất cả hành khách đều phải xuống xe. Cảnh
sát khám kĩ hành lí của từng người. Từng người được mời vào trạm.

- Ông
có giấy kiểm tra không?

Người
khách đeo kiếng to hỏi Luân. Luân có. Tất nhiên, đó là thẻ kiểm tra giả, do nhà
in Trần Phú ăn cắp kiểu, in lại. Nếu bằng mắt thường, cảnh sát không tài nào phát
hiện chỗ giả của thẻ kiểm tra. Còn dựa vào máy, vấn đề sẽ khác. Luân tin chắc
là trạm cảnh sát dọc đường không có máy. Nhưng cái lão đeo kiếng nầy, tại sao
lại hỏi anh?

Quả như
Luân đoán, viên trưởng trạm không xét nét thẻ kiểm tra của Luân. Song hắn nhìn
Luân từ đầu đến chân:

- Ông
đi đâu? - Viên trưởng trạm hỏi.

Luân
chưa nói gì thì người khách đeo kiếng gọng to chìa giấy của ông.

- Ông
Sáu khỏi đưa giấy mà!

Viên
trưởng trạm trả giấy cho ông ta, cười vui vẻ.

“Tụi nó
với nhau! Hẳn rồi đây!” Luân nghĩ.

- Vậy
thì tôi với anh bạn tôi đây đi nghe…

Ông ta
kéo tay Luân. Luân hơi lượng sượng một chút.

- Tụi
này dọ giá cá đồng ở Phụng Hiệp, còn lên dọ trên Long Xuyên…

Ông ta
bãi buôi như Luân cùng đi với ông.

Viên
trạm trưởng đẩy đưa:

- Ủa?
Ông Hai đây đi chung với ông Sáu hả…

Ông
khách rút gói thuốc mời viên trạm trưởng và làm như vô tình, ông bỏ quên gói
thuốc trên bàn.

Tự
nhiên, Luân thấy ông khách có một chút gì khả nghi. Mọi người trên xe đều đột
ngột trở nên hiền lành.

*

Luân
sắp đổi xe đi Sài Gòn thì một chiếc Citroën đến hối hả đỗ lại bên xe Cần Thơ.
Trên xe bước xuống một người nhỏ nhắn đeo kiếng đen, bận áo chùng đen, đeo
tượng Chúa – một linh mục. Ông ta nôn nả chạy hỏi chiếc xe từ Phụng Hiệp lên mà
Luân vừa đi – đó là chiếc xe thơ chạy sớm nhất.

Luân linh
cảm là ông ta tìm Luân.

Ông
khách đeo kiếng gọng to – viên trạm trưởng cảnh sát kêu bằng ông Sáu - cũng đổi
xe đi Sài Gòn. Ông đứng chung với Luân ở bàn bán vé. Ông linh mục đến bàn bán
vé hỏi, giọng Huế:

- Xin
lỗi, quý vị ở Phụng Hiệp lên đây, vị nào là Kĩ sư Robert Nguyễn Thành Luân.

Luân
chào ông linh mục, nhận tên mình. Linh mục mừng rỡ:

- May
quá… tôi đoán chừng ông kĩ sư đi chuyến xe thơ… Quả nhiên đúng. Đức giám mục
mời ông kĩ sư về tòa giám mục. Dạ, có xe riêng…

Ông Sáu
sững sờ. Luân bắt tay ông:

- Cám
ơn ông Sáu… Thôi, ông Sáu đi Sài Gòn, tôi có chút việc riêng ghé Vĩnh Long.

- Ông
cha nầy đón ông?

Ông Sáu
hỏi vặn, hất hàm về ông linh mục. Luân gật đầu.

- Vậy
mà…

Ông Sáu
bỏ lửng câu nói một lúc.

- Tôi
đâu có lên Sài Gòn làm chi… Tính đưa ông đi đó! Tôi đi Rạch Giá.

Luân đã
hiểu. Ông Sáu ngại Luân bị làm khó dễ ở dọc đường nên quyết giúp Luân. Chắc ông
đoán Luân là một người kháng chiến, có thể vì qua bộ quần áo lỗi thời của Luân.

Luân
bắt tay ông Sáu lần nữa, thật chặt. Nhưng ông Sáu bận quan sát chiếc Citroën và
ông linh mục, có thể bận luôn những xáo trộn trong đầu, bắt tay Luân lấy lệ.
Luân không thể giải thích cho ông Sáu hiểu nên đành cúi chào, gửi lại ông cái
nhìn từ giã biết ơn với nhiều ngụ ý.

*

Xe ùn ở
bến “bắc” Cần Thơ. Hàng đoàn GMC nối đuôi, mỗi xe đầy ắp lính. Chắc là số lính
rút từ các tỉnh miền Tây về Sài Gòn sửa soạn chiếm đóng các vùng ta vừa chuyển
quân xong. Hòa bình đã được hơn nửa năm, song chưa thấy dấu hiệu hòa bình trên
gương mặt những người lính nầy. Họ mệt mỏi, rã rời, cáu kỉnh. Vài sĩ quan Pháp
huýt gió trên xe Jeep mỗi khi có một phụ nữ Việt Nam đi gần. Vẫn mất dạy như
Luân từng biết, nhưng e dè hơn.

Từ
trung tâm thành phố Cần Thơ phóng ra một xe cảnh sát gắn còi mở đường, tiếp
liền một chiếc Chrysler bóng nhoáng cắm cờ nhiều sao và đoạn hậu là một xe bảo
vệ - cũng đến năm sáu tên quân cảnh Mỹ đội nón sơn chữ M.P, nét chữ chần vần
rất nhói mắt.

Ông
linh mục bảo người tài xế:

- Theo
liền xe quân cảnh!

Ra lịnh
xong, chính ông chồm hẳn người ra ngoài xe, phô chiếc áo chùng và tượng Chúa
lủng lẳng trên cổ. Xe được phép xuống “bắc” trước những cái nhìn giận giữ của
lính ngụy và những cái liếc khó chịu của các sĩ quan Pháp. Không nghe, nhưng
Luân chắc là họ chửi thề. Thực tế đó cho Luân thấy cái tôn ti đang hình thành
trong nấc thang đẳng cấp ở miền Nam: Mỹ rồi tới cha cố.

- Ông kĩ
sư xa thành thị đã lâu, thấy có gì thay đổi không?

Khi “bắc”
vượt sông Hậu, ông linh mục hỏi Luân. Trên “bắc” những người buôn bán chen lấn,
vừa van nài, vừa mắng chửi người mua, tiếng loa phát giọng ma quái một đoạn ghi
âm sấm giảng Hòa Hảo, tiếng đàn độc huyền, đàn ghi ta của từng tốp ăn xin…

- Thay
đổi nhiều… Tỉ như, lính đông hơn, người ăn xin cũng đông hơn. Và
thêm cái mới…

Luân
hất hàm về chiếc Chrysler.

- Ông
muốn nói đến người Mỹ?

- Phải,
những người khách mới…

- Hết
còn là khách rồi… Họ là bạn.

- Bạn
hay là chủ?

Hỏi vặn
xong, Luân cười. Ông linh mục vụt cười theo.

Luân
chưa muốn bắt chuyện với ông linh mục. Con sông Hậu cuồn cuộn gợi anh nhiều kí
ức.
“Bắc” vượt sông mươi phút – nơi khá rộng – còn trong
chiến đấu, Luân có khi phải tốn cả giờ để từ Cần Thơ sang Trà Ôn, quãng hẹp
nhất. Trên mặt sông nầy, anh đã từng đánh một trận tao ngộ: thuyền chở anh và
một tiểu đội, giữa đêm mưa, băng đến giữa sông thì chạm tàu tuần – tàu tuần tắt
máy, thả xuôi theo nước. Khi tàu tuần bật pha, Luân ra lịnh nổ súng. Chính anh
giành khẩu trung liên của một chiến sĩ, xả thẳng vào pha. Pha tắt ngấm. Đèn pin
không đủ sức phát hiện thuyền của bọn anh. Khi Cần Thơ bắn lên trời những chùm
pháo sáng thì bọn anh đã lọt vào con rạch ngoằn ngoèo.

Có thể
từ nay anh sẽ khó mà tao ngộ với lính tuần sông, nhưng ngay trên chuyến “bắc”
vượt dòng nước bạc, giữa một tình thế bề ngoài khác xưa, ít ra cũng có chiếc
Chrysler cắm cờ Mỹ được hộ tống thật sự và biết đâu, cả ông linh mục chưa hẳn
chịu làm linh mục này là những trở ngại đủ gọi bằng không nhỏ.

… Xe
qua Cái Vồn. Cứ vài trăm thước, một đồn lính Hòa Hảo, một trụ sở Dân xã đảng và
một nhà giảng – nhà giảng xây y hệt lô cốt, loa phóng thanh ra rả. Bên trong ụ
đất và rào kẽm gai, lính Hòa Hảo nón bo, đồng phục đen, mặt mũi lừ nhừ. Nhà tín
đồ - nhà nào cũng trồng cột phướn và sơn cửa màu trần điều – nép dưới quyền uy
của cả bộ máy quân sự chính trị và tôn giáo. Chưa chắc số đông tín đồ Hòa Hảo
hiểu ý nghĩa sự ra đời của ngần ấy thứ đè nặng lên vai họ, rúc rỉa họ, nhồi nắn
họ.

Cái di
sản chống Cộng của thực dân Pháp còn đó.

Ông
linh mục ngồi ở băng trước quay lại cười hóm hỉnh với Luân:

- Chúng
ta đang qua vùng cai quản của ông Năm Lửa.

Người
lái xe chợt lên tiếng:

-
General Cinq Feux(1) đấy!

(1) Tướng
Năm Lửa (tiếng Pháp)

Ông
linh mục và người lái xe cười nắc nẻ.

- Một
quốc gia thống nhất không thể dung thứ cho các tiểu vương cát cứ. Khắp tỉnh
Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ, Vĩnh Long, Sa Đéc, đâu đâu cũng nhan nhản đồn bót Hòa Hảo, họ làm ra luật
riêng, họ thu thuế. Dân khổ hết sức!

Ông
linh mục thuyết một hồi. Ông nói câu chót kèm cái chép miệng. Luân biết ông
linh mục mới nhắc vùng Hòa Hảo. Còn vùng Cao Đài, Bình Xuyên, còn vùng UMDC(2)
của tên Tây lai Léon Leroy… Chính phủ Diệm chọn lọc trong hàng tá đối tượng đâu
là cái cần trừ khử trước hết.

(2) Unite Mobile de Défense Chrétienne (Đơn vị cơ
động bảo vệ đạo Thiên Chúa)

- Họ sẽ
biến mất trong một ngày không xa!

Ông
linh mục làm một cử động minh họa: hai bàn tay xòe, chập lại và dang ra. Có thể
vì thói quen ban phép lành nên dù nói đến một sự bôi xóa, ông vẫn hết sức dịu
dàng.

- Ông kĩ
sư biết chuyện ông Trần Văn Soái sang Hồng Kông không? - Linh mục hỏi.

Luân
biết, do một tờ báo Sài Gòn tiết lộ. Anh không hoàn toàn tin là chuyện đó chính
xác nhưng mẩu tin cho thấy cái thực chất của các lực lượng mà Pháp đang muốn
đưa vào để trả giá với Mỹ.

Năm
1947, Bảo Đại nằm ở Hồng Kông. Ông ta rời Hà Nội sang Trung Quốc rồi không chịu
về nước. Bấy giờ, ông ta là cố vấn Vĩnh Thụy – trong lúc buột mồm thốt được một
câu khá kêu: “Trẫm thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ.”

Cuộc
xung đột vũ trang giữa ta và Pháp đã lan khắp nước. Thực dân Pháp tìm kiếm con
bài chính trị. Bảo Đại lần nữa tự nguyện làm bù nhìn. Để tấn tuồng rôm rả một
chút, Pháp cho một số tay sai từ Sài Gòn sang Hồng Kông “yết kiến cựu hoàng,
bày tỏ tín nhiệm và thỉnh cựu hoàng hồi loan.” Thiếu tướng(3) Trần Văn Soái tức
Năm Lửa là thành viên của “phái đoàn nhân sĩ và đại biểu các giới” gồm hai mươi tư người. Đến Hồng Kông, Năm Lửa thắng bộ quân phục
cấp tướng, đi dạo phố. Ngoài phố, ông ta gặp Trịnh Hưng Ngẫu – một nhà chế tạo
cơ khí, từng mướn ông ta làm công. Chính chụm các lò “gadoden” xe hơi cho Trịnh
Hưng Ngẫu mà ông ta mang tên Năm Lửa.

(3) Tức cấp
hàm “Général de brigade” trong quân đội Liên hiệp Pháp, mang 2 sao. Quân hàm
này chỉ tương đương cấp Chuẩn tướng 1 sao của Quân lực VNCH sau sau năm 1963.

Trịnh
Hưng Ngẫu ngắm nghía bộ áo cấp tướng của Năm Lửa rồi bảo:

- Đây
là thuộc địa của Ăng lê. Quân đội Ăng lê không có tướng 2 sao, mầy mang sao ra đường, cảnh sát tưởng mầy là
tướng giả, nó còng đầu!

Hoảng
hồn, Năm Lửa tháo lon, đút vô túi quần.

Luân
không cười. Đâu có gì đáng cười. Anh không cười luôn với những chi tiết mà ông
linh mục thuật đầy khoái trá:

- Ông
Năm Lửa có ba người vợ chính, kêu bằng ba phu nhân. Một là Lưu Kim Đính, một là
Đoàn Hồng Ngọc, một là Phàn Lê Hoa…

- Phàn
Lê Huê chứ! – Người
lái xe sửa lại.

- Cũng
rứa. Toàn tên phường tuồng. Mỗi bà đều vận khôi giáp, đeo gươm. Không phải để
đùa mà sửa soạn đánh nhau thật!

Xe chạy
đến cổng vào thị xã Vĩnh Long. Dưới một tấm bảng quảng cáo to tướng – thuốc lá
Golden Club của hãng Pháp – một tu sĩ Hòa Hảo, tóc búi, áo dài, đang cầm loa
điện đọc một đoạn sấm giảng của Đức thầy Huỳnh Phú Sổ.

Lòng
Luân bỗng dâng lên một niềm xót xa thương hại. Còn ông linh mục – cái đầu câng
câng và cái mộ trề dài thượt… Giọng quái đản đọc sấm của tu sĩ đuổi theo xe.