Ván bài lật ngửa - Phần II - Chương 06 - 07

P 2 - Chương 6

- Bần
đạo muốn biết đang hân hạnh tiếp
ai?

- Thưa
Giáo chủ, Ngài cứ xem tôi như là một người quan tâm đến việc chung, nếu mối
quan hệ giữa cá nhân tôi và Thủ tướng Ngô Đình Diệm không làm Ngài vui.

- Không
phải, không phải! – Phạm Công Tắc rối rít – Trái lại, bần đạo rất vui nếu buổi
gặp mặt nầy là giữa chủ tịch Mặt trận Toàn lực với đại diện chính thức của Thủ
tướng.

- Thú
thật, thưa giáo chủ, tôi không được một ủy quyền như vậy...

- Nếu
ông thấy bất tiện khi bần đạo dùng danh nghĩa Chủ tịch Mặt trận, bần đạo sẵn
sàng trao đổi với đại diện của Thủ tướng trong tư cách người đứng đầu Giáo hội
Đại đạo Tam kì phổ độ...

- Về
phần tôi không thấy chi trở ngại dù Giáo chủ đứng trên danh nghĩa nào. Tôi lên
Tây Ninh lần này là lần thứ hai và chỉ với tư cách hoàn toàn cá nhân...

- Hề
chi! Lần trước, bần đạo thất lễ không gặp ông. Thật ra, bần đạo không hay trong
đoàn của Cụ Ngô có ông... Bây giờ, bần đạo hỏi riêng ông một câu: Cụ Ngô nhận
định về bần đạo thế nào?

Trên
đây là mẩu đối thoại giữa Hộ pháp Phạm Công Tắc và Kĩ sư Nguyễn Thành Luân, sau
buổi họp báo, trong gian phòng rộng gọi là Trí Huệ Cung với những trần thiết
phần nào giống sân khấu hát bội. Nhiều người xin gặp riêng ông Tắc, nhưng ông
mời Luân trước tiên, mặc dù Luân chỉ đưa cho văn phòng ông một danh thiếp ghi
vỏn vẹn: Kĩ sư Nguyễn Thành Luân, 5 đường Miche Sài Gòn, điện thoại: 20.461.

Trước
khi bước vào văn phòng riêng của Hộ pháp, Luân chạm mặt Ly Kai. Gã toan lẩn tránh song không kịp, đành phải cúi chào Luân, rất
khúm núm:

- Ông kĩ
sư mạnh giỏi?

- Cám
ơn! Ông cũng mạnh?

Luân
chưa nắm đủ các tài liệu về gã Hoa kiều láu cá nầy, tuy anh biết chắc gã là
người của Nhu – Tuyến cấy vào Bình Xuyên.

- Tôi
định lên vùng chợ Long Hoa xem có thể gây dựng một kiểu giống giống Đại Thế
Giới, nhưng mà coi bộ khó... – Ly Kai đưa đẩy.

- Chúc
ông may mắn! – Luân chào gã.

Fanfani
đón Luân ngay cửa phòng của Tắc.

- Ông
trở thành vedette(1) của cái kịch bản nhiều góc cạnh nầy rồi! Ông gặp giáo chủ,
nói giúp, tôi muốn làm cuộc phỏng vấn riêng giáo chủ...

(1) Ngôi
sao màn bạc.

- Tôi
sẽ chuyển lời, còn ông ấy có chịu gặp cô hay không là do ông ấy.

- Cám
ơn ông kĩ sư... Khi nào về Sài Gòn, tôi mong được gặp ông. Địa chỉ của tôi đây,
– Fanfani đưa cho Luân danh thiếp – Khách sạn Majestic.

Rồi cô
ta phụng phịu:

- Mà
ông không đến hay gọi điện thoại cho tôi, tôi sẽ đến tận nhà ông đấy!

Luân
cười nhẹ, Helen hiểu cái cười của Luân:

- Vì
sao tôi biết địa chỉ của ông hả? Muốn tìm, đâu có khó!

Fanfani
nói láo. Song, mặt cô đỏ nhừ. Không phải cô không thạo nghề nói láo. Luân bỗng
vui vui khi cô kí giả quốc tịch Mỹ biết ngượng vì phải nói láo với anh. Dĩ
nhiên, Fanfani đỏ mặt, cô trở lên hồn nhiên và hết sức dễ thương. Do vậy, Luân
cầm tay cô hơi lâu hơn thường lệ một chút.

Qua vai
Fanfani, Luân thấy Ly Kai đứng cạnh xe của anh, đang bắt chuyện với cả Lục lẫn
Thạch.

*

Phạm
Công Tắc mời Luân điếu thuốc Camel. Không rõ giáo chủ có hút không, song cái
gạt tàn đầy ắp đuôi thuốc.

- Tôi
không được biết nhận xét của Thủ tướng đối với giáo chủ - Luân nói, nhìn Tắc
đầy ý nhị, - Vả lại, theo tôi, Giáo chủ cần gì đến nhận xét của ông Diệm khi
Giáo chủ, trong yêu sách thứ mười, long
trọng tuyên bố đòi ông ấy từ chức nếu không thỏa mãn nguyện vọng của Mặt trận
mà Giáo chủ đã đoán trước
không thể nào có một nhượng bộ tới mức đó.

Giọng
Phạm Công Tắc bỗng trở nên xuôi xị:

- Tuyên
bố thì tuyên bố vậy thôi!

Phạm
Công Tắc khó nghe kịp tiếng thở dài nhè nhẹ của Luân:

- Ngài
định làm gì nếu ông Diệm bác bỏ các yêu sách?

Phạm
Công Tắc ngơ ngác:

- Làm
gì à? Bần đạo đâu có định làm gì!

Đến
lượt Nguyễn Thành Luân ngơ ngác:

- Vậy
tại sao giáo chủ họp báo?

- Ậy!
Anh em họ đốc mình, mình phải làm, không làm thì họ cười chết! Tôi ghét thằng
Thế quá...

Luân
phát hiện một Phạm Công Tắc thịt xương, rất thành thật, dù ông vận bộ áo đạo.

- Theo
ông, Cụ Ngô có tính gấp các giáo phái không?

Vị trí
giữa Luân và giáo chủ thay đổi, người đặt câu hỏi lại là Giáo chủ.

- Thưa
Giáo chủ, Ngài cứ giả định là ông Diệm tính gấp đi...

Mặt của
Tắc tái dần, tái dần:

- Việc
gì phải gấp? – Ông ta hỏi mà lời giống như từ chốn xa xôi nào vọng về.

Luân
thấy không cần thiết phải trả lời. Trong thâm tâm, Luân thương hại ông ta, một
con người leo lên ghế tuyệt đối của một tôn giáo hoàn toàn nhờ thời cuộc đẩy
đưa. Có lẽ suốt ngày nghe mãi cái trật tự trên thiên đường mà ông bị ám ảnh. Và
cuối cùng, ông mường tượng cuộc sống diễn ra như ông phác thảo trong các câu
kinh – dù gọi là của Quan Âm, của Quan Vân Trường, của Thượng Đế, đều là của
viên thư kí riêng có khiếu thơ lục bát và tứ tuyệt. Ông trả lương khá cao cho
viên thư kí, cho “thập nhị thời quân” - những người mà không có họ, ông không
làm sao mang ý của thiên đình phổ biến giữa thế gian.

Tuy
nhiên, ông cũng đủ tỉnh táo để hiểu rằng không phải bao giờ lời phán của Đức
Chí Tôn đều có hiệu lực cả. Ngô Đình Diệm chẳng hạn, ông ta chỉ biết có Chúa
Trời. Còn Ngọc Hoàng theo khái niệm của đạo Cao Đài thì chẳng ăn nhằm gì với
ông ta.

Giáo
chủ Phạm Công Tắc ngó đăm đăm tấm bản đồ Đông Dương. Vạch đỏ đậm của quốc lộ 1
cho thấy từ Tây Ninh lên Nam Vang không lấy gì làm xa xôi.

- Vạn
bất đắc dĩ nếu Thủ tướng không nghĩ tình người quốc gia với nhau, bần đạo sẽ
lên Nam Vang. Ở đó, bần đạo có nhiều tín đồ. Một thánh thất lớn đang xây gần
cầu bắc qua sông Bassac... Ngài Sihanouk vốn kính trọng bần đạo.

- Thưa
giáo chủ, thiếu tá Kossem, trưởng phòng tình báo Chính phủ hoàng gia Cambốt có
khi nào thư từ cho Giáo chủ? – Luân hỏi hơi đường đột.

- Ông
cũng quen thiếu tá Kossem?

- Thưa,
đúng là tôi biết ông ta, chớ chưa quen… – Luân trả lời, hồ hởi.

- Tôi
cũng vậy, - Tắc nói liền và quên phát hai tiếng bần đạo rất quen miệng - Tôi
biết ông ta qua một đại úy, tên Thạch Chanh, phụ trách tình báo biên giới... Thiếu
tá muốn quy y theo đạo Cao Đài!

- Phải,
ông Kassem kiêm chỉ huy phó biên phòng, đồng thời là Tư lệnh quân nhảy dù và
chỉ huy phó lực lượng phòng thủ thủ đô Nam Vang. Thiếu tá Kossem là người Chàm
sao lại vô đạo Cao Đài? – Luân nói câu sau với cái cười nhẹ.

- Chà!
Ông kĩ sư rành hơn tôi nhiều... Thiếu tá Kossem tán thành đạo Cao Đài. Đạo Cao
Đài có nhiều tín đồ người Pháp, người Ấn Độ, Nhựt Bổn... – Tắc khoe khoang một
hồi – Tôi trở lại chuyện giữa tôi và Cụ Ngô. Tôi chỉ xin Cụ Ngô một điều – có
điều nầy thì mười điều trong tuyên cáo xử như thế nào tùy Chính phủ.
Tôi xin kí một thỏa hiệp công nhận chu vi Tòa Thánh Tây Ninh rộng 40 cây số vuông và công nhận quyền tự trị của chúng
tôi trong chu vi đó. Cả giang sơn đã thuộc về Cụ Ngô thì ke re cắc rắc làm chi 40 cây số vuông nhỏ mọn, ông kĩ sư nghĩ coi tôi nói có
đúng không?

- Đó là
đòi hỏi quan trọng nhất của Ngài?

- Phải!...

Cả lời,
cả cử chỉ của Giáo chủ đều toát lên niềm thèm muốn thiết tha, Luân có cảm giác
đang ngồi trước một tay trọc phú vỡ nợ, tình nguyện bỏ hết tài sản, chỉ xin
ngôi nhà và ngôi mả xây, cam lây lất sống hết đời.

- Ông
có thể đạo đạt lên Cụ Ngô thỉnh cầu của tôi không? Tôi sẽ chẳng bao giờ quên ơn
ông kĩ sư!

Ông Tắc
gần như phều phào

- Nói
lại với ông Ngô Đình Diệm yêu cầu của Ngài, không có gì khó. Tôi xin hứa, nội
ngày nay hoặc sáng mai, yêu cầu của Ngài sẽ đến Thủ tướng. Song, tôi nghĩ là
ông Diệm sẽ từ chối!

- Tại
sao vậy? Chuyện nhỏ mọn mà!

- Đúng,
chuyện nhỏ mọn. Song ông Diệm từ chối vì ông ấy sợ mất cái lớn hơn và khi biết
chắc sẽ không thể mất cái lớn hơn thì ông ấy nhất quyết không để mất cái nhỏ
nhất!

- Vậy,
ông kĩ sư thấy bần đạo phải làm gì?

- Hình
như giáo chủ chưa sẵn sàng đương đầu với ông Diệm?

- Bần
đạo là kẻ tu hành!

Giáo
chủ Phạm Công Tắc trả lời xụi lơ và bây giờ thì Luân không kềm nổi tiếng thở
dài.

- Có
bao giờ Giáo chủ tính đến khả năng liên minh với những người kháng chiến cũ
không? Họ rất đông, ở Tây Ninh...

Luân cố
vớt vát. Nghe có bấy nhiêu, Tắc xua tay lia lịa:

- Đâu
được, đâu được!... Ông kĩ sư đừng nói chơi... Nếu Cụ Ngô thể tất cho bần đạo
thì bần đạo sẽ cùng đạo hữu đi tiên phong trong cuộc Bắc phạt.

Luân
đứng lên:

- Cám
ơn Ngài... Tôi xin kiếu.

Phạm
Công Tắc cũng đứng lên, tiễn Luân
ra phòng ngoài:

- Nhờ
ông kĩ sư đạo đạt lên Cụ Ngô về chu vi Tòa Thánh.

Giáo
chủ cố van vỉ, mặt đầy đau khổ trước khi trở lại cái vẻ đường bệ để gặp một
nhân vật nào đó, theo thứ tự mà văn phòng đã xếp đặt.

Tiếng
đồng nhi đọc một đoạn kinh bay theo Luân. Anh bước gần như thất thểu. Không
phải vì anh xúc động trước một giáo chủ lẩm cẩm – mọi toan tính của ông ta sắc
lại chỉ còn là sự tiếc của đời rất trần tục và có thể, rất thô tục nữa – anh
xót xa cay đắng vì một con người như thế vẫn ngự trị linh hồn hàng trăm nghìn
người và tùy ý dẫn dắt họ phiêu lưu vào các ngõ cụt.

Fanfani
chạy vội khi xe Luân đã lăn bánh. Anh vẫy tay chào cô mặc dù quên giới thiệu cô
với giáo chủ.

Có thể
Fanfani yên trí là Luân giúp cô xong xuôi, nên đặt tay lên môi gửi theo cái
hôn...

P 2 - Chương 7

Chiếc
máy bay vận tải bốn cánh quạt nặng nề đáp xuống đường băng Tân Sơn Nhất. Hàng
trăm người rời máy bay.

Đây là
một trong những chuyến bay đặc biệt chở dân di cư miền Bắc vào Nam. So với
những người đi đường thủy, họ tươi tỉnh hơn, ăn mặc sạch sẽ hơn. Họ vởi vội áo
choàng trước ánh nắng chói chang của Sài Gòn – Khi họ lên máy bay, hàn thử biểu
chỉ 15 độ và sau năm giờ
bay, con số đó là 36 độ trong mát.

Thân
nhân đón họ đứng chật phòng đợi.

Một cô
gái, sách chiếc vali con, áo len vắt tay, nổi bật trong đám hành khách: cô rất
đẹp, tuổi chắc không thể hơn hai mươi lăm, là
người phụ nữ duy nhất mặc quần tây, áo sơ mi, đi xăng đan.

- Cô! –
Cô gái gọi to và ôm ghì một bà áo lụa, vấn khăn, dáng đài các, đang tìm kiếm ai
đó.

- Dung
đây sao con? – Bà ngắm nghía cô gái rồi vụt khóc òa, - Nó lớn nhanh quá... Năm
kia, nó vào thăm tôi, còn bé lắm... Sao bố không vào? Cô sẵn chỗ cho bố con, hễ
vào là nhận chức chủ sự Bộ Tài
chính ngay... Còn con nữa, con phải học tiếp để lấy bằng cử nhân chứ?

Bà bô
lô ba la, vẫn giữ cô gái – tên Dung – trong vòng tay.

- Ối
chà! Cháu tôi đẹp như tiên... Con gái Hà Nội có khác... Nào, cái vết sẹo ở cánh
tay to không?

Dung đỏ
mặt, rúc đầu vào vai bà:

- Cô...
cô...

Bà phân
trần với số người đứng gần – họ chú ý cô gái có nước da trắng, vẻ mặt thanh tú,
thân hình cân đối:

- Nó
tồng ngồng nhưng nghịch ngợm lắm... Đâu như là lúc nó bắt đầu năm thứ nhất
trường Luật, nó vào thăm tôi... Tôi là cô ruột nó... Nó lên đồn điền chè của
tôi, chạy nhảy thế nào mà ngã kềnh ra, bị cây nhọn đâm vào tay...

- Chú
đâu không ra đón con? – Dung đánh trống lảng.

- Chú
con hôm nay hẹn ăn cơm với Trung tá
Trần Vĩnh Đắt, có gửi lời xin lỗi con

- Ta về
thôi, cô!

Một
người lễ phép chào Dung:

- Xin
cô đưa vali cho em...

- Ừ,
anh xách hộ... Con không nhớ anh Khai, lái xe của cô chú sao?

- Ồ... chào
anh Khai! – Dung reo lên – chị Khai sinh thêm cháu nào nữa không? Cháu Tiến đi
học chưa?

Ba
người ra sân, chiếc Peugeot 203 nước sơn còn ánh.

- Con
nhà giàu, sướng thế! Bà cô chắc không có con, cô ta tha hồ được nuông chiều...

Một
người nhận xét về Dung với bạn – nhóm ba người mặc thường phục nhưng lưng cồm
cộm súng ngắn.

Còn
Dung ngồi sát vào cô trên xe và biết là cô muốn hỏi một người nhưng không tiện
– Cả cái khóc của cô nữa: cô khóc không vì lâu ngày gặp lại cháu gái mình.

*

Tháng 8-1945,
Dung nghỉ hè để sửa soạn vào
năm thứ hai trung học thì Cách mạng bùng nổ. Với tuổi mười tám, Dung say sưa dự các sinh hoạt văn hóa, thiếu niên
như mọi bạn bè của Dung. Cũng từ sau ngày Cách mạng, Dung mới có dịp gần gũi
người chú ruột – ông là chính trị phạm bị đày lên Sơn La, vượt ngục năm 1943,
chỉ huy một đội du kích vùng Bắc Sơn. Cha Dung, công chức hạng trung Sở Tài
chính Hà Nội, ở vậy nuôi con – mẹ Dung mất khi Dung lên sáu tuổi – tính hiền lành, ít nói. Chính người chú đã
dạy cho cô bé hiểu nhiều điều mới lạ. Chú Dung sống độc thân – thực ra, ông
chẳng có thời giờ đâu mà nghĩ đến vợ con, bởi ông hoạt động cách mạng lúc còn
đi học và thoát li luôn, rồi bị tù – chiều nào rỗi thì về nhà Dung. Người cùng
phố chỉ biết chú Dung là Vệ quốc đoàn, còn Dung mãi sau này, do tình cờ, biết
chú làm việc ở Nha Công an. Điều đó không có gì quan trọng đối với Dung mặc dù
chú dặn Dung giữ kín và Dung đã giữ kín, ngay với cha.

Năm học
1945–1946 không bình thường – học sinh bận rộn với nhiều thứ bên ngoài trường
lớp. Chú Dung không bằng lòng. Ông buộc Dung phải học và chính ông kèm Dung
thêm những môn học mà Dung không thích mấy, như Toán, tiếng Pháp. Không thích
thì không thích, Dung vẫn cố học - cô rất thương chú.

Bấy
giờ, Hà Nội vừa đói vừa lộn xộn. Tàu Tưởng kéo sang, đóng chật các công viên.
Thỉnh thoảng, Dung nghe vài vụ giết người, chú Dung bảo là do bọn Vũ Hồng
Khanh, Nguyễn Hải Thần gây rối. Chú Dung gầy rạc.

Rồi
Dung cũng bước vào năm học thứ ba sau kì nghỉ hè. Tàu Tưởng rút hết lên biên
giới, nhưng quân Pháp đã có mặt ở Hà Nội. Những trận xung đột giữa quân Pháp và
tự vệ ta, tuy lẻ tẻ, song không ngày nào là không xảy ra. Bạn trai của Dung bỏ
học, theo các lớp quân chính. Bạn gái cũng có đứa vào các lớp cứu thương. Dung
ngỏ ý xin đi học y tá. Cha cô, từ khi chú cô về nhà, ít quyết định những vấn đề
như thế. Chú cô lắc đầu. Thực tế, trường gần như đóng cửa. Tin tức trong Nam
kích động dữ dội lớp trẻ, cộng với tình thế đánh nhau ngay tại Hà Nội chắc chắn
là khó tránh khỏi.

Đêm
19-12, súng nổ rộ. Cha Dung chẳng biết phải xoay xở làm sao. Chú Dung về nhà và
hối thúc cả nhà tản cư. Một ô tô bộ đội chở cha con Dung ra Hà Đông. Sở Tài
chính của cha Dung cũng di chuyển về đó. Truờng của Dung nghe đâu vượt sông
Hồng, lên vùng Bắc Ninh.

Dung
dứt khoát ghi tên vào lớp đào tạo y tá cấp tốc mở ở xã Dương Hội. Học được hơn
tuần lễ - Dung rất phấn khởi theo học và nóng lòng chờ lớp kết thúc sớm để cô
còn trở lại phục vụ các chiến sĩ bảo vệ thủ đô mà sự đồn đãi về thành tích đánh Tây của họ giữa lòng Hà Nội đã làm
cô say mê – thì chú cô đến. Ông thầm thì với cha cô trong ngôi nhà ở tạm bên
ngoài thị xã Hà Đông... Sáng hôm sau, chính chú Dung đến trường y tá xin rút
tên cô và ông đưa Dung cùng đi với ông lên Ba Vì. Ban đầu, Dung ngơ ngác.
Nhưng, vài hôm, cô hiểu. Lưng chừng núi Ba Vì, Dung miệt mài học một lớp học
đặc biệt – rất ít học sinh và người giảng không ai khác hơn là chú cô. Ngoài
chính trị và nghề nghiệp, Dung còn được học bắn súng – cái mà cô khoái nhất.
Giữa năm 1947, cha cô và Dung hồi cư về Hà Nội. Thật là bẽ mặt với người cùng
phố. Cha Dung lầm lì đến Nha Tài chính trình diện. Cũng không có điều gì phiền
phức lắm: tên chủ Tây bảo ông làm tờ khai. Ông khai đúng sự thật: Ông tản cư
với Sở Tài chính, vẫn làm công việc chuyên môn của ông, nay quân Pháp kiểm soát
rộng, ông chịu cực không nổi nên thay vì rút lên căn cứ, ông về thành. Ông được
nhanh chóng thu nhận trở lại và ngày ngày vác ô đến chỗ làm. Năm 1948, Dung đỗ
bằng thành chung. Cha cô tậu ngôi nhà khác – tiền ở đâu thì cô không rõ. Ngôi
nhà mới nằm ở khu sang trọng phố Gambetta. Một hôm, khách đến nhà. Đó là chú
cô. Chú cô chỉ đến mỗi tuần ba lần và ngày giờ luôn thay đổi. Hễ đến, hai chú
cháu lại bàn bạc. Cứ thế, Dung tốt nghiệp tú tài toàn phần năm 1951 và học
ngành luật. Hè năm 1952, Dung vào Sài Gòn bằng máy bay. Theo bố trí của chú,
Dung đến nhà “bà cô ruột” - một người Bắc lập nghiệp trong Nam từ lâu, có đồn
điền trà nhỏ ở gần Blao. Dung làm quen với Sài Gòn và Nam Bộ trong dịp đó. Lần
hôi, Dung biết sự thật. “Bà cô ruột” ngày xưa là người yêu của chú, nhưng chú
thoát li sớm, vả lại gia đình bà giàu có - ở Hà Nội, ai mà không biết gia đình
Cự Doanh – duyên nợ bất thành. Bà lấy chồng, một bác sĩ. Hai vợ chồng dời nhà
vào Sài Gòn, chồng mở phòng mạch, vợ mua đất trồng trà... Hai vợ chồng không
con. Tại sao và bằng cách nào đó, Dung không rõ, mà chú Dung liên hệ được với
bà. Dung chỉ biết là chính chú Dung đã vào Sài Gòn – cũng đi máy bay – và đã ở
nhà hai vợ chồng ông bác sĩ. Bà nói tường tận với ông bác sĩ chuyện thời con
gái của bà, ông bác sĩ vốn khoáng đạt, lại có phần kính phục chú Dung, nên đã
tiếp chú Dung thật đầm ấm, thân tình.

Sau
Điện Biên Phủ, Dung đang học dở chứng chỉ ba khoa luật. Trường đại học Hà Nội dời vào Sài Gòn. Bấy giờ chú Dung không
có mặt ở Hà Nội, Dung tự quyết định không theo trường – điều mà sau đó Dung bị
chú “sạc” một trận dữ dội chưa từng có. Nhưng rồi chú thu xếp cho Dung đâu vào
đấy. Dung bí mật lên Thái nguyên dự một lớp bồi dưỡng chính trị và nghiệp vụ ba
tháng. Trở về Hà Nội, Dung sửa soạn vào Nam như một người di cư, trước khi quân
ta tiếp quản thủ đô. Lúc đầu, chú Dung định cả cha Dung cùng vào Nam, song cha
Dung không ưng, dù thương con, ông không thích sống mãi trong cái không khí
ngột ngạt. Vả lại, ông hiểu con ông – nó thông minh hơn ông nhiều, chưa chắc
ông đã có thể giúp nêu không nói là gây bận bịu cho nó. Theo hướng dẫn của chú
Dung, ông vẫn đăng kí vào Nam, đến thời hạn, ông lại khai là bệnh bất ngờ,
không đi được. Chuyện rất bình thường.