Ván bài lật ngửa - Phần III - Chương 09 - 10

P3 - Chương 9

Chuyến
máy bay riêng sáng mai sẽ cất cánh lên Buôn Mê Thuột. Luân và Dung, có Thạch theo, tháp tùng vợ chồng Nhu.

Tới giờ
này, gộp các sự kiện lại, Luân biết chắc là chính Diệm khai mạc hội chợ mặc dù
trên các thông tin khai thì, hoặc Phó Tổng
thống Nguyễn Ngọc Thơ hoặc bộ trưởng cải cách điền địa Đỗ
Văn Công làm việc đó.

Luân
không cách nào báo cáo cho anh Sáu Đăng. Liên lạc điện đứt từ hôm căn cứ núi
Cậu bị biệt kích, còn liên lạc với Sa phải tạm ngưng vì trong lần gặp Luân sau
cùng, Sa cho hay hộp thơ của anh Sáu Đăng có lẽ lộ, đã dời mà chưa nối lại
được.

Theo
Luân nghĩ, sau khi các giáo phái bị đánh dẹp, nhứt là sau cái chết của tướng Ba
Cụt, tình hình lần hồi bộc lộ bản chất của nó: chế độ Mỹ - Diệm đối đầu trực tiếp
với nhân dân. Vụ sát hại nữ Giáo sư
Nguyễn Thị Diệu - một người kháng chiến cũ, con gái của cụ Nguyễn Văn Hiền, cựu
thượng thơ triều đình Huế, ngay giữa lúc chị Diệu mang thai, vụ giết cò mi
Nguyễn Văn Ngọc, ném lựu đạn lên sân khấu Kim Thoa, chiến dịch “tố Cộng” v.v...
báo hiệu bắt đầu giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc xung đột miền Nam. Ngô Đình
Diệm cho thấy ông ta nóng lòng sớm rảnh tay ở miền Nam để bắt tay vào mơ ước
lớn nhất của đời ông: Bắc tiến. Tất nhiên, Diệm và Nhu không phải lúc nào cũng
có thể sai khiến âm binh một cách chặt chẽ, song bọn thuộc hạ vẫn làm theo ý đồ
của Diệm Nhu. Xét trên đại thể Diệm- Nhu muốn trấn áp quần chúng đồng thời dằn
mặt trí thức: Giáo sư
Nguyễn Thị Diệu là em của bác sĩ Vinh, chồng là Thạc sĩ Y khoa Trần Vĩ. Dám đụng giới đó, Diệm - Nhu tự đánh
giá chế độ của họ đã đủ mạnh.

Đúng
ra, thế lực của Diệm có vững hơn sau hai năm rưỡi cầm quyền. Hai công cụ quan
trọng, nhất là quân đội và công an đều được tổ chức hẳn lại, gồm một hệ thống
người thân tín của Diệm. Các tỉnh chia nhỏ và bộ máy hầu như thay đổi hoàn
toàn, từ tỉnh trưởng đến viên đại diện hội đồng hương chính xã. Dân di cư được
phân bố theo một loạt yêu cầu chiến lược: người có văn hóa thì giữ cương vị chỉ
đạo, chỉ huy hoặc đi học. Số đông thì chia thành các mảng hình thành các cụm
dân cư nơi xung yếu nhất: giữa trung tâm Sài Gòn, vùng ngoại ô, ven trục lộ dẫn
vào thành phố, vùng rừng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên. Thậm chí, có bộ phận được cấy
đến nơi rất hẻo lánh: Cái Sắn ở Rạch Giá và Bình Hưng, tận vịnh Thái Lan. Trong
hoạt động kinh tế xã hội, những nhân vật di cư bao giờ cũng được ưu đãi. Diệm,
theo lời khuyên của Lansdale thực hiện chính sách dựa vào dân di cư là lực
lượng an ninh chính trị chủ yếu, dù cho sự lợi dụng đó đôi lúc khiến cho sự lưu
manh trong dân di cư trở nên một loại “kiêu binh” ngang ngược, tạo nguy cơ cô
lập chế độ ở miền Nam trong nhân dân.

Tuy
nhiên, không phải là không có những dấu hiệu đầu tiên của sự rạn nứt. Tổng hội Phật giáo Việt Nam, mùa xuân năm ngoái
nhân lễ Phật đản, đã họp đại hội, quyết định lấy chùa Ấn Quang làm trụ sở và
yêu sách Chính phủ phải xem ngày Phật đản là ngày lễ chính thức của cả nước,
như ngày Noel. Diệm rất khó chịu trước đòi hỏi đó mà ông cho là “vô lí.” Ông
vẫn mơn trớn đạo Phật và đề cao đạo Khổng, nhưng ông tin rằng việc Chúa giao
ông chiếc ghế Tổng thống ở miền Nam đồng nghĩa với việc Chúa giao ông sứ mệnh
thành lập một quốc gia toàn tòng đạo Thiên Chúa. Nơi đây - một vùng chịu ảnh
hưởng đạo Phật sâu sắc và lâu đời. Điều phiền lòng ông Diệm hơn nữa là bản kiến
nghị tổng hội Phật giáo mang nhiều chữ kí của các thượng tọa vừa di cư vào miền
Nam, như Thích Tâm Châu, Thích Đức Nghiệp.

Trong
những lần gặp Luân, Diệm phàn nàn về các nhà sư Phật giáo, song ông nhìn sự vật
khác Luân. Với ông, chẳng thể nào có “vấn đề Phật giáo,” bởi lẽ Phật giáo chẳng
thể nào tự nổi lên vấn đề. Cho nên, ông chú ý hướng khác: thăng Lê Văn Tỵ làm
đại tướng, giải tán tiểu đoàn an ninh Phủ Tổng thống và thành lập cả một lữ
đoàn liên binh phòng vệ, do đại tá Nguyễn Thế Như chỉ huy, thành lập lữ đoàn dù
dưới quyền trung tá Cao Văn Viên, v.v... Diệm quyết định cai trị bằng tay sắt.

*

Chiều
nay, Luân dạo mát với Dung ở vườn ông Thượng. Thạch theo sau họ, giữ khoảng
cách khá xa: chẳng thể có gì nguy hiểm với Luân ngay trong khu vườn sau Dinh
Độc Lập. Vả lại, hai người nhất định sẽ nói những chuyện riêng tư mà người thứ
ba không nên nghe.

Khu vườn
vào giờ này còn vắng vẻ. Luân và Dung sóng đôi, bước chậm rãi.

“C'est
à Capri

Que je
l'ai rencontrée...”(1)

Luân
hát khe khẽ. Nói chung, giọng Luân rất tồi, nên anh hát sai bét. Dung cười,
cười rũ rượi.

- Lần
đầu em nghe anh hát... Mà là một bài hát nhớ nhung! Gặp ai ở Capri, hở anh?

Luân
cười theo:

- Tôi
sẽ đổi lại: “C'est à Kitchener que jel'ai rencontrée!(2)

(1) “Chính
ở tại Capri tôi đã gặp nàng” - lời một bài tình ca nổi tiếng. Capri: một thành
phố nước Ý.

(2)
Kitchener: đường Nguyễn Thái Học, nơi lần đầu Luân gặp Dung

Dung
chợt nghiêm mặt:

- Em
không thích đùa như thế!

Luân
ngừng hát thở dài.

- Chắc
có gì vui anh mới hát? - Dung ái ngại nhìn Luân, đấu dịu.

- Vui
à? Đại khái cũng vui. Ít nhất cô và tôi yên trí được nếu không lâu hơn thì cũng
từ nay đến cuối năm. Rheinardt cấp cho chúng ta lá bùa hộ mạng và người sẽ lấy
lại nếu cần lấy là Durbrow. Có thể CIA chưa biết gì về chúng ta, có thể chúng
muốn sử dụng hiểu biết của chúng ta như là một thứ lông ngỗng Mỵ Châu hoặc một
thứ bẫy rập.

Luân cơ
hồ quên phút trước, câu nói đùa của anh làm phật lòng Dung và tự nhiên cảm thấy
một nỗi buồn vô hạn ập đến, anh nói giọng trầm trầm.

- Khả
năng nào nhiều hơn? - Dung hỏi - Tức là khả năng biết chúng biết và chưa biết
về chúng ta.

- Cả
hai!

Bây giờ
tới phiên Dung thở dài.

-
Nhưng, nếu với khả năng đầu, chúng chỉ ngấp nghé ở mức cộng lại các hiện tượng lại thành nghi vấn...

Luân an
ủi Dung. Chân họ âm thầm bước trên con đuờng sỏi.

Đến một
ghế băng, Luân dừng lại lấy khăn tay phủi bụi và gọi Dung cùng ngồi với anh.

Dung
linh cảm là Luân sắp nói một cái gì quan trọng. Tim cô đập mạnh. Luân nhìn Dung
một thoáng rồi ngó lên ngọn cây đang từ từ sẫm màu theo bóng đêm.

- Một
chuyện khó... - Luân cân nhắc từng lời - Chuyện khó do tự nhiên trở thành cái
nút, Rheinardt hỏi, tôi chắc không chỉ là nhận xét của ông ta.

Luân
nói rời rạc. Dung cố phán đoán, qua nét mặt rầu rầu của Luân.

- Màn
kịch đòi hỏi các diễn viên chúng ta bám sát kịch bản, đó là quan hệ giữa tôi
với cô trước dư luận. Trước dư luận có nghĩa là trước bọn chúng. - Luân nói
thật khẽ, đăm đăm nhìn về Thạch, anh chàng cũng chọn một băng đá ở một góc và
đang quan sát cả khu vực.

- Thế
nào là khó? - Dung hỏi, giọng tinh nghịch.

- Như
cô biết và tôi vừa nói, chúng ta phải thể hiện một kịch bản cho đạt... - Luân
vẫn chưa tìm ra các diễn đạt rõ ràng hơn.

- Khó
là không đạt vai kịch trong cuộc sống thực? - Dung hỏi và cười.

Luân
lúng túng, càng lúng túng. Dung càng cười thích thú.

- A.07
bảo anh là một nhà hiền triết, lúc đầu em không tin, bây giờ thì thấy A.07 nói
đúng!

Luân
chẳng biết Dung ám chỉ cái gì. Anh đỏ mặt, chỉ dám khẽ liếc Dung. Cô gái, trong
khi cười thoải mái, hài hòa, cái hồn nhiên bên trong với nét tạo hình cân đối
bên ngoài - nhắc nhở Luân cuộc sống mà anh tự nguyện hiến dâng cả đời khi đội
chiếc nón rơm, cắp ngọn tầm vông từ một mùa thu chưa xa lắm...

- Ông
thộn ơi! Này nhé, với mọi người, anh và em yêu nhau, thậm chí, còn một bước
ngắn nữa là cưới nhau. Đúng không nào? - Giọng Dung vẫn nhí nhảnh.

-
Nhưng, chẳng lẽ không cưới nhau? - Luân hỏi, ngờ nghệch.

- Thì
cưới! Có sao đâu... Anh lựa một dịp nào đó, mời bạn hữu đến nhà. Chính cô chú
em còn thắc mắc, nói gì Rheinardt. - Dung nói, hơi nghiêm. Giọng cô nghe lạc đi
một chút.

- Tôi
thấy kịch bản này ác ác thế nào...

Giọng
Luân rười rượi. Dung không cười nữa.

- Xin
lỗi anh, em đùa không phải lúc... Hay là...

- Sao
cô lại ngập ngừng? - Luân hỏi, lo lắng.

- Nếu
anh thấy đóng vai gò bó, thì ta nên báo với anh Sáu Đăng hoặc A.07. - Dung hỏi,
câu nói chua chát và mắt cô thì rơm rớm.

Luân
thở dài. Dung bứt mấy chiếc lá xanh, mân mê.

- Sao
anh thở dài? Em có nói gì xúc phạm anh đâu? Chúng ta nên làm lễ cưới sớm. Người
yêu hay đã cưới nhau, có gì khác đâu? Hơn ai hết, anh hiểu chúng ta đang sống
giữa cái gì? Không phải anh, không phải em có quyền vượt quá vai được giao.

Dung
trở lại cái sắc sảo thường ngày.

- Với
tôi, chẳng có gì phải thiệt thòi trong vở kịch này. Tôi là đàn ông. Trong cái
nhìn của xã hội đương thời nước ta, đàn ông hàm nghĩa được trừ đi ít ra 50%
trong loại sinh hoạt đơn thuần riêng tư. Còn cô, cô là gái. Tôi nói vở kịch ác
ác theo tinh thần đó.

Luân
thu hết can đảm, nói một mạch.

- Cám
ơn anh! - Dung gay gắt hẳn - Chẳng lẽ anh không nghĩ rằng chúng ta sẽ thắng?
Khi ấy, chỉ cần một lời, cát bụi sạch ngay thân hòn ngọc!

Luân
nhìn sững Dung. Dung bóp nát mấy chiếc lá trên tay, mắt sụp tối giữa khu vưởn
đã tắt chút nắng chiều còn sót.

- Còn
nếu tôi cho vở kịch ác ác ở hướng khác, thì sao? - Bỗng nhiên Luân cảm thấy bạo
dạn hơn - Đóng kịch với kẻ thù, tôi tin là mình không đến nỗi tồi. Còn...

Luân bỏ
lửng câu nói. Anh kéo bàn tay Dung, nhẹ nhàng lau vết xanh lá cây. Dung để yên
tay trong tay Luân.

- Ta về
thôi! - Dung âu yếm kéo Luân đứng lên.

Hai
người đi được vài bước.

- Ô
kìa! Ông chồng sắp cưới, không biết quàng vai vợ mà đi dạo, hay sao?

Dung
trêu Luân. Luân vụng về choàng vai Dung:

- Ngày
mai, tôi đi Buôn Mê Thuột!

- Thế
à? - Dung nói lại, rồi cô ấp úng - Liệu...

Luân
biết cô nghĩ đến anh chàng công dân vụ mà họ gặp ở Gò Đen.

- Chưa
chắc... Nhưng, nếu có, không có gì đáng ngại đâu.

- Em
cũng nghĩ như vậy... Chà, em thích Tây Nguyên lắm. Đọc trong sách đâu bằng đến
tận nơi.

Rồi
Dung bỗng cười giòn:

- Mấy
giờ ta cất cánh?

Luân
sượng bộ.

- Nói
cho anh biết: bà Nhu rủ em cùng đi đó! - Dung nhí nhảnh, nép sát vào Luân.

- Vậy
sao? - Luân không kềm được niềm vui.

Cả hai
đều bước thật chậm. Dung chợt hát khẽ một bài hát.

- Hay!
Bài hát và người hát đều hay! - Luân khen.

- Anh
đừng nịnh đầm! Bài hát thì hay! Đúng rồi! Bài “Dấu chân trên rừng” của Vĩnh An
đó.

- Em
hát lần nữa đi! - Luân giục.

“Chiều
nay ra đứng bên bờ suối vắng

Chợt
nghe tiếng chim nó kêu lạc đàn...”

Đèn
vườn ông Thượng bật sáng.

P3 - Chương 10

Họ ngồi
trên những cành khô, dưới vòm cây rừng Bời Lời kín mít. Nắng trưa theo gió,
xuyên lá rải trên mình họ vài chấm lung linh.

Người
gầy nhất, áo xá xẩu đen, gác chiếc vòng mây bên cạnh, hệt như một Hoa kiều
thiến heo dạo, giọng miền Bắc pha:

- Tin
tức Diệm có chắc không?

- Cô Ba
Nọt Tông vừa ở trên đó về, cho biết tụi nó bài binh bố trận dữ dằn lắm. Như
vậy, vợ chồng tay gì đó nói với thằng Phúc là thiệt.

Người
trả lời, tác dềnh dàng, trán cao, mặc áo bành tô xám, khẩu “Côn” thò báng ra
túi, là Năm Xếp – tỉnh ủy viên phụ trách an ninh, do công tác đó nên còn có tên
là Năm Ninh, người gầy là Hoàng Lệ Kha, ủy viên thường vụ tỉnh ủy Tây Ninh.

- Tôi
dò hỏi thằng cháu, theo nó, có triệu chứng Diệm lên Buôn Mê Thuột. - Người thứ ba, nhỏ nhắn, giống một học
sinh. Anh tên Nhì, tỉnh ủy viên.

- Nếu
con của ông Phương hé tin, chắc đúng trăm phần trăm rồi!

Ông
Phương mà Năm Ninh nhắc là Trần Hữu Phương, nguyên Bộ trưởng, anh ruột của Nhì.

Họ trầm
ngâm hồi lâu. Ngoài tiếng hồng hoàng vỗ cánh, khu rừng chìm trong lặng lẽ.

- Anh
Ba cho ý kiến để tôi còn sắp đặt! – Năm Ninh chừng sốt ruột, lên tiếng.

- Khó
đa! – Ba Kha đắn đo. Việc này lớn quá, tôi không dám quyết định. Đợi tôi gặp
anh Chín bí thư trao đổi trong thường vụ rồi xin ý kiến R...

- Trời
đất! Chạy vòng vo kiểu đó, thằng Diệm lên Buôn Mê Thuộc ăn ỉa đã đời, về Sài Gòn ngủ thẳng giấc, họa may người của tôi
mới lò mò tới nơi – Năm Ninh bực dọc.

- Theo
tôi, trao đổi thỉnh thị, anh Ba cứ làm còn bố trí anh Năm cứ bố trí. Để sẩy keo
này uổng lắm. - Nhì chen vào.

- Chà!
- Ba Kha do dự.

- Ít ra
trong cấp ủy cũng có tới ba đồng chí bàn việc này, tôi thấy, mình chịu trách
nhiệm với tập thể, bởi binh quý thần tốc, dễ gì có cơ hội. - Năm Ninh nhất
quyết đốc vô.

- Mình
ở một địa phương nhỏ, việc lại quá quan trọng, e quyết định có gì so thất
chăng? - Ba Kha còn băn khoăn.

- Sơ
thất gì mà sơ thất. Tội ác của thằng Diệm lút đầu lút cổ vậy mà anh còn sợ giết
nó là phạm nguyên tắc. – Năm Ninh chì chiết – Nguyên tắc lớn nhất là trừ gian
giệt ác, tôi nói vậy đó. Giết ẩu, giết càn là bậy, còn giết đúng để cứu dân là trúng nguyên tắc. Anh
ngán kỉ luật, tôi chịu hết cho!

- Đâu
phải vậy… - Ba Kha vẫn điềm đạm – Ta cân nhắc lợi hại về chính trị, giết Diệm
bây giờ có lợi chưa?

- Tôi
cho là có lợi – Nhì nói – Quần chúng tán thành. Nếu ta ra tay sớm, tỉ như năm ngoái, năm kia, thì có một số người chưa
hiểu, bất lợi về chính trị. Nay, đến đồng bào di cư cũng có số bắt đầu thấy bộ
mặt gian ác của Diệm. Nó đạp trên đạo họ để leo lên ngôi vua. Mà, là thứ bạo chúa.

- Cho ý
kiến của anh là đúng đi, làm cách nào để thi hành được? – Ba Kha rõ ràng đã
xiêu lòng.

- Tôi
lo cho! – Năm Ninh nhổm người, sôi nổi – Thằng Phúc được lệnh lên Buôn Mê Thuột với đoàn công dân vụ Tây Ninh, nó nằn nằn
đòi lãnh việc đó. Tôi tính kĩ rồi, nó làm là tiện hơn hết. Cô Ba Nọt Tông giúp
nó.

- Súng
lấy ở đâu? – Ba Kha hỏi.

- Có
thể mượn chỗ anh Bảy Môn.

- Từ
đây qua chiến khu Đ lấy súng, trễ mất!

- Súng
ngắn thì sẵn. Lấy khẩu của tôi cũng được!

- Muốn
chắc ăn,dùng tiểu liên. Tôi có chỗ lấy tiện hơn. - Nhì hạ thấp giọng.

- Quận
trường Gò Dầu!

Sau đó,
ba người chụm đầu, rù rì tới xế chiều.

*

Ngô
Đình Diệm quyết định mở hội chợ Buôn Mê Thuột là việc có suy tính. Nhu đã nói
tiếng nói chung cuộc trong vụ này.

Tây
Nguyên – vùng đất chưa khai phá – giữ vị trí chiến lược cực kì quan trọng đối
với bán đảo Đông Dương. Đứng vững ở Tây Nguyên có nghĩa là giành thế chủ động
cao trong các tình huống khác nhau. Nhu lập luận: Với Tây Nguyên, chúng ta “tấn
khả dĩ công, thối khả dĩ thủ.” Đúng vậy, địa bàn cơ động tiếp giáp Nam, Bắc
Việt Nam, Lào và Miên cho phép người nào làm chủ Tây Nguyên có thể linh hoạt
xoay chuyển cục diện quân sự. Hơn nữa, Tây Nguyên gồm nhiều bộ tộc chưa phát
triển, đất đai lại màu mỡ, chỉ cần cấy vào một mức sức người có tổ chức và một
mức máy móc là chinh phục được nhân tâm.

Từ lâu,
Pháp đã thấy tầm vóc Tây Nguyên. Tư bản người Pháp theo sau các nhà truyền
giáo, lập ra các đồn điền cà phê. Tuy nhiên mức đầu tư của Pháp nói chung chưa
đáng kể. Có lẽ thành công lớn nhất của Pháp là kéo được một bộ phận người
Rhađê. Ưu đãi tầng lớp trên của bộ phận này và biến họ thành công cụ trấn áp
người Rhađê và các dân tộc Tây Nguyên nói chung. Sự chần chừ của Pháp cũng dễ
hiểu: Tây Nguyên xa xôi hiểm trở, đường xá đi lại cách bức, dễ nảy sinh tình
trạng cát cứ. Thực tế đã có một vụ cát cứ rồi.

Một gã
lưu manh nhưng rất tài hoa bắn cung nỏ, đánh kiếm giỏi, khỏe mạnh, đẹp trai tên
là Mayrena, từ Pháp phiêu bạt sang Attôpơ tìm vàng. Toàn quyền Đông Dương thấy
gã lanh lợi nên giao cho gã nhiệm vụ chinh phục người Thượng. Công sứ Quy Nhơn Lamire giới thiệu gã với các linh mục đạo
Thiên Chúa ở Komtum và gã được giúp đỡ khi vừa đặt chân lên vùng núi hẻo lánh
này, nhất là của linh mục Guerlach. Đó là vào tháng 5 năm 1888.

Mayrena
chọn Dakto làm chỗ đứng. Gã trổ tài bắn cung, đánh kiếm và bao giờ gã cũng vô
địch. Người Sêđăng - vốn hiếu chiến - khâm phục gã. Chẳng bao lâu Mayrena lên
ngôi vua, với tước hiệu Marie đệ nhất, vua nước Sêđăng, triệu tập đại hội bô
lão để cử tể tướng. Một người Thượng tên Krui giữ ngôi vị này. Các bộ lạc Bana,
Mơnông… lần lượt về với gã. Vương quốc Tây Nguyên có quốc kì, có giấy bạc, có
cấp chức v.v…

Trước
tình hình đó, Chính phủ Pháp lo ngại. Bấy giờ, người Xiêm chiếm Attôpơ. Nếu để
Mayrena liên minh với Xiêm coi như Pháp bị hất khỏi Tây Nguyên và địa vị ở Đông
Dương càng lung lay. Quyết định kéo quân lên dẹp Mayrena đang sửa soạn thực
hiện thì “quốc vương” về châu Âu nghỉ ngơi. Nhân cơ hội đó Chính phủ Pháp bít
đường trở qua của gã, đưa công sứ Quy Nhơn “đăng quang” thay Mayrena và vài năm
sau giải tán luôn vương quốc.

Mãi đến
khi phong trào Việt Minh lên mạnh, Chính phủ Pháp mới thực hiện một loạt chính
sách nhằm lôi léo người Tây Nguyên. Một trong những chính sách đó là lập khu tự
trị Tây Kỳ. Tuy vậy, với cách nhìn thực dân cũ kĩ, người Pháp
chỉ mới dám trao quyền cấp xã, cấp quận, còn trong quân đội, đại úy là quân hàm
cao nhất dành cho người Thượng.

Chỗ dựa
của Pháp là các linh mục, giám mục đạo Thiên Chúa. Trong khi đó, hội thánh Tin
Lành, đến sau, lại mở rộng hoạt động và trở thành thế lực tôn giáo hàng đầu.

Vào giờ
phút hấp hối ở Đông Dương, Pháp lại xoay sở thành lập cái gọi là Hoàng triều
cương thổ - đặt Tây Nguyên dưới quyền trực tiếp của triều đình Huế, hi vọng tạo
cho thế lực thân Pháp chốn nương náu lâu dài, nếu yếu thì vạn đại dung thân,
nếu mạnh thì trong một hồi kèn, chế ngự từ biển Đông đến sông Mê Kông. Đứng đầu Hoàng triều cương thổ Khâm mạng Nguyễn Đệ, còn khu bắc do
Ecarlat, khu nam do Didelot, người Pháp phụ trách.

Khi
người ta hấp hối sự suy tính thường không chính xác. Bởi vậy, bằng một sắc lệnh
đơn giản, Ngô Đình Diệm cho Hoàng triều cương thổ ra mây khói. Hội thánh Tin
Lành đóng góp đắc lực trong việc Diệm thu hồi Tây Nguydên, sau đó, đến giám mục đạo Thiên Chúa Kon Tum.

Diệm
đưa lên Tây Nguyên một số lượng người Kinh và người Nùng đáng kể. Những dinh
điền “nhảy dù” giữa một vùng đất bazan màu mỡ, trên các trục lộ và cứ điểm xung
yếu. Buôn Mê Thuột nhanh chóng đổi bộ mặt: một kinh đô Tây
Nguyên.

Trong
lúc đó, vấn đề phát sinh: các phần tử thân Pháp không dễ dàng buông vũ khí,
cộng với ảnh hưởng Việt Minh người Thượng như Y Ngông, Y Blốc… đều tập kết ra
Bắc Việt, song dấu ấn của cuộc kháng chiến vẫn còn in đậm trong lòng Tây
Nguyên.

Điều mà
Diệm cho là phải lợi dụng ngay, ấy là các phần từ thân Pháp chưa bắt tay với
Việt Minh. Họ tính toán theo hướng khác: nước Miên độc lập, nuôi tham vọng bành
trướng sẽ hỗ trợ họ, Lào rối tinh nội bộ, gần như bỏ ngỏ vùng Attôpơ.

Trong
cách nhìn Tây Nguyên, Nhu có vài chỗ khác Diệm. Nhu không sợ những người Thượng
thân Pháp, mà lo số dính dáng với hội truyền giáo Tin Lành và những tin tức về
cái gọi là Fulro(1) – chắc chắn được Kossem, tham mưu phó Quân đội Hoàng gia
Cambốt ủng hộ.

(1) Fronnt
Unif de Libérotian des Races Opprimées: Mặt trận thống nhất giải phóng các sắc
tộc bị áp bức.

Gì thì
gì, phải phô trương sự ổn định miền cao nguyên. Diệm chỉ thị cho Bộ Cải cách
điền địa, Tổng ủy dinh điền, tướng tư lệnh quân khu II, các tỉnh trưởng Darlac,
Pleiku, Komtum, Phú Bổn, Lâm Đồng, Tuyên Đức, Phước Long tổ chức hội chợ, danh
xưng do Diệm đặt: “Hội chợ kinh tế đoàn kết Kinh - Thượng.”

Báo
chí, đài phát thanh được lệnh tuyên truyền rùm beng cho hội chợ.

Hội chợ
được sửa soạn nhiều tháng. Sau Tết Đinh Dậu, nhịp độ sửa soạn càng khẩn trương.
Cả một khu vực quanh biệt điện rộn ràng: nhà triển lãm, nơi giải trí, quán ăn,
hộp đêm. Hội chợ lôi kéo hàng vạn người từ miền biển Trung Bộ, từ Sài Gòn lên,
chủ yếu là buôn bán. Buôn Mê
Thuột đột ngột được nhắc tới. Nguồn tin do Sở nghiên cứu chính trị tung ra: Phó
Tổng
thống Nguyễn Ngọc Thơ sẽ cắt băng khánh thành hội chợ. Nó
phù hợp với công việc của Thơ bấy lâu – chủ tọa các ban tổ chức hội chợ từ khi
nó ra đời.

*

Kể ra,
mùa xuân năm 1957 khá rực rõ nhìn theo lăng kính của gia đình họ Ngô, Tổng
thống tái đắc cử Eisenhower, một quân nhân chống Cộng, một người bảo thủ hạng
nặng của Đảng Cộng hòa bắt đầu nhiệm kì hai ngày 20-1-1967 - một bảo đảm có sức nặng cho chế độ Nam Việt
Nam. Phó Tổng
thống là Richard Nixon, một lính thủy giải ngũ, rất tán thành
cung cách cai trị của Diệm. Điện văn trao đổi giữa hai Tổng thống tràn đầy lời
lẽ ngọt ngào. Bằng áp lực của Mỹ, tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, mười ba nước kí tên đòi Nam Việt Nam được chấp nhận làm hội
viên của tổ chức quốc tế này. Tất nhiên, mười ba nước không thể giúp ông Diệm vào Liên Hiệp Quốc, nhưng ít nhất cũng khua trống cho dư luận biết Nam Việt
Nam có một nhà nước với quốc kì như thế, quốc ca như thế, vị Tổng thống như
thế.

Giáo
phái tan rã, xét về đại thể, Chính phủ ông Diệm kiểm soát tuyệt
đại bộ phận lãnh thổ, bộ máy cai trị được thiết lập tận ấp xóm. Thanh niên,
thanh nữ Cộng hòa xuất hiện, cái trước do Ngô Đình Nhu làm thủ lĩnh, cái sau
thì Trần Lệ Xuân. Công việc ở miền Trung do Ngô Đình Cẩn đảm đương, với chức vụ
cố vấn chỉ đạo.

Chiến
dịch tố Cộng rầm rộ. Đôi khi, báo chí nước ngoài “xì” ra một vài tin chẳng hay
ho gì lắm, tỉ như quân đội bắn giết bừa bãi, một số trường hợp mổ
bụng moi gan những người bị “tình nghi” Cộng sản, thậm chí, có cả bức ảnh chụp
toán dân vệ dùng đầu lâu một “Việt Cộng” làm quả banh trên sân cỏ. Trần Chánh
Thành nhất loạt phủ nhận – phủ nhận trên mặt trận thông tin và che giấu luôn Ngô Đình Diệm. Thành không dám lừa Nhu. Vả
lại, không cần lừa. Nhu cho rằng cai trị có cứng, có mềm. Giết chừng đó chứ
giết hơn vài chục lần cũng không có gì đáng bận tâm. Bởi vậy, Nhu giả tai ngơ
mắt điếc hoạt động của linh mục Nguyễn Lạc Hóa, một người Hoa, tại khu Bình
Hưng. Nguyễn Lạc Hóa khét tiếng hung thần, cho tay sai nướng thịt người, ăn gan người, lắt vú phụ nữ, tự do hãm hiếp cả
vùng căn cứ kháng chiến Cà Mau. Nhu biết hết, chỉ dặn Hóa: chớ cho bọn báo chí
léo hánh tới.

Năm
1957 mở đầu như vậy đó.