Ván bài lật ngửa - Phần VI - Chương 09

P6 - Chương 9

“L. Về căn cứ an toàn. Có triệu chứng đường dây bị theo
dõi, yêu cầu tạm đình mọi liên lạc. Khi cần, sẽ có người gặp. Chúc thành công.
Sáu Đ.”

Thư
trên đây của anh Sáu Đăng, câu đầu liên quan đến Lục:

… “Em
bình yên. Ông vẫn đi nhà thờ đều chứ?” Lục nói có bấy nhiêu, không xưng tên.
Gác máy nói, Luân cùng Dung phán đoán. Hai người tin Lục như tin chính họ.
Không thể nào có trò Lục làm con mồi nhử Luân. Nhưng, Lục không phải là người
già dặn trong nghề, nếu địch cao tay ấn hơn, thả lỏng Lục để theo dấu thì sao?
Tại sao cả James Casey và Mai Hữu Xuân đều báo rằng Lục đã chết?


ràng, Lục hẹn gặp Luân ở nhà thờ, nơi mà trước đây Lục vẫn chở Luân mỗi tuần
đến đọc kinh sáng chủ nhật, Luân tiếp tục như vậy mấy năm nay. Cứ đến nhà thờ
như thường lệ. Luân quyết định và Dung cũng đồng ý.

Hai vợ
chồng cùng đi – Dung lấy cớ đi chợ - khi xe ngừng, Luân thoáng thấy một tài xế
tắc xi ngồi sau tay lái, rất giống Lục, kết sụp tận chân mày, cằm tua tủa râu,
kính đen. Dung tinh mắt hơn, khẽ huých vào vai Luân. Luân xuống xe, bảo Thạch
đưa Dung đi chợ và đón anh sau. Nhà thờ đông bổn đạo, Luân trà trộn theo dòng
người ra vào và sau đó, đến chiếc xe tắc xi đã mở cửa sẵn. Đúng là Lục, Lục cho
xe về đường Hiền Vương và rẽ vào hướng Chợ Lớn.

Qua
kiếng chiếu hậu, Lục nhìn Luân với tất cả tình cảm, Luân mỉm cười đáp lại.

- Nói
đi! Vừa thoát chết hả? – Luân bảo, trìu mến.

- Vâng,
suýt chút nữa em không còn gặp ông kĩ sư với cô Dung… Hồi nãy, em có thấy cô
Dung… Ông với cô khỏe, em mừng.

- Ông,
cô! – Luân đùa – Đồng chí chớ!

- Vâng…
em quen miệng…

Lục làm
nhiệm vụ theo dõi các toán biệt kích đường không ở trường Nha Trang, báo cáo
với trung tâm mỗi khi có chuyến đổ bộ. Báo cáo của Lục, đã mã hóa và viết “bạch”
lên rìa báo, rìa trang sách hoặc toa thuốc, hằng tuần mang đến một hốc đá nằm
giữa Hải học viện và lầu ông Hoàng – biệt điện xưa kia của Bảo Đại - trên bờ
biển. Du khách đến ngắm cảnh ở đây rất đông, nhất là chiều thứ Bảy và ngày Chủ nhật. Lục chỉ cần đặt báo cáo vào hốc đá – giống một tờ giấy bị gió
thổi tạt vào chỗ sâu kín này – rồi ai đó, vào lúc nào đó, đến nhận. Mỗi báo cáo
mang số riêng, Lục biết báo cáo về đến trung tâm qua buổi nhắn tin vào Nam phát
gần giữa khuya của Đài tiếng nói Vệt Nam. “Ông Hà Hậu, gia đình đã nhận được
bưu thiếp đề ngày...” Hoặc “Ông Xuân Huy.” Hoặc “Chị Lục Văn” v.v… Báo cáo của
Lục gửi đều đều và anh cũng nhận được tin đều đều.

Chiều
ngày 2-7, Lục mang một báo cáo đặc biệt ra hốc đá. Đặc biệt vì báo cáo không phản
ánh tin tức của biệt kích đường không mà liên quan đến toán người nhái. Trường
huấn luyện người nhái thành lập vài năm nay, thuộc Bộ tư lệnh hải quân, do một
trung tá người Việt phụ trách với nhóm huấn luyện viên Mỹ. Trường người nhái và
trường biệt kích của Lục đóng không xa nhau mấy, song nội quy cấm ngặt quan hệ
giữa hai trường.

Chỉ có
huấn luyện viên thỉnh thoảng vẫn gặp nhau ở quán rượu. Qua điều tra, Lục biết
nhân kết thúc khóa học đầu tiên, sẽ có cuộc ra quân.

Nhiều
toán người nhái, mỗi toán ba đến năm tên, sẽ thực tập đổ bộ thăm dò dọc bờ biển
bắc vĩ tuyến 17, mục đích đánh giá tình hình phòng vệ bờ biển của miền Bắc, móc
nối với bọn gián điệp tại chỗ, mở đầu cho hoạt động biệt kích bằng hình thức
người nhái. Năm điểm được dự kiến đổ bộ trong đợt này – những nơi địa hình cho
phép người nhái che giấu hành
tung và có bọn gián điệp tại chỗ đón. Năm điểm đó mang mật danh Sea từ một đến năm. Ngoài ra, một điểm đặc biệt mang mật danh Explorer, mà toán người nhái
không đổ bộ nhưng phải thu thập tất cả tình hình của tàu hải quân và lực lượng
trú phòng miền Bắc: thu thập bằng quan sát, thậm chí, bằng bắt cóc, khai thác
nhân chứng sống và thủ tiêu sau đó. Phối hợp các nguồn tin lại, Lục đoán các “Sea”
trải từ cửa sông Gianh trở vào. Còn Explorer chính là đảo Cồn Cỏ.

Mặt
trời khuất sau núi. Bờ biển vắng dần. Lục bước trên từng hòn cuội, như người
dạo chơi, đến hốc đá. Quanh hốc đá không có người. Ngoài sóng biển, tất cả yên
lặng. Quan sát chung quanh, không có gì khả nghi, Lục nhìn vào hốc đá. Hốc đá
trống trơn. Lục toan đặt báo cáo vào hốc – viết trên nhãn hộp sữa – thì đột
nhiên nghe tiếng quát:

- Giơ
tay lên!

Từ các
gộp đá, ba người chĩa súng ngắn vào Lục, cả ba nấp ở các gộp đá cách Lục mươi
thước. “Mình bị phục kích” Lục than thầm.

- Đừng
giỡn các bạn! Các bạn là ai?

Lục trì
hoãn thời gian. Chắc chắn hộp thơ đã lộ, có thể giao liên đã bị bắt. Có nên để
lọt vào tay chúng không?

- Ai mà
giỡn với mày? Đưa tay lên!

Một tên
hùng hổ. Nó bảo luôn đồng bọn:

- Coi
chừng nó hủy tài liệu…

Thế là
rõ. Thế là không thể để lọt vào tay chúng. Nó có ba tên… Lục chọn phương án
hành động.

- Đưa
tay lên!

Tên –
dáng chừng chỉ huy – nhắc lại.

Lục từ
từ đưa tay lên.

- Tước
súng nó!

Tên chỉ
huy ra lệnh. Một tên, theo các hòn cuội, tiến đến, tay lăm lăm súng. Hắn cách
Lục chừng vài bước, lợi dụng hắn đang bước rất khó khăn trên các hòn đá lông
chông, đồng thời hắn lại là tấm lá chắn che Lục khỏi bị hai tên kia bắn. Lục
rút súng, nổ liền mấy phát, vừa nhảy núp sau gộp đá. Tên đi tước súng của Lục
ngã gục, rơi luôn xuống biển. Hai tên kia, bàng hoàng một lúc, bắt đầu bắn.
Song, bây giờ thì chúng không thể nào dám xáp gần Lục. Lục dè sẻn đạn, chỉ bấm
cò khi phát hiện chúng di động. Nếu tiếp tục chọi nhau như thế này, chắc chắn
sẽ “hòa,” trời tối, mạnh ai nấy rút. Nhưng, trên đường, đã vang tiếng tiểu liên
cùng tiếng xe. Bọn chúng có tiếp viện; Lục đột ngột bắn thật căn về phía hai
tên – anh bắn hết băng đạn vừa thay, rồi lặng lẽ tụt xuống nước, men theo bờ
đá, vòng qua mõm đất nhỏ, bò sát mặt cát, lẫn vào các thuyền đánh cá kéo lên
cạn, vượt qua con đường mòn, vượt tường một ngôi biệt thự không rõ của ai, chạy
về hướng núi. Anh vẫn nghe súng nổ ở vùng gộp đá.

Khi
trời tối, Lục đã cách thành phố vài cây số. Bây giờ thì không còn sợ bọn chúng
truy đuổi nhưng lại rất dễ lọt vào bọn tuần tiễu. Lục quyết định chọn một bụi rậm để ẩn mình. Không thể trở lại trường
biệt kích nữa. Còn đi làm du kích thì quá phiêu lưu. Cho nên, trời hừng sáng.
Lục chôn súng, băng đồng ra lộ, đón xe xuôi Ba Ngòi. Từ Ba Ngòi, Lục chuyển
sang xe lửa. Cứ thế, anh vô Sài Gòn. Đôi lần, anh bị hỏi giấy. Cảnh sát nghi
anh đào ngũ từ các lực lượng tiền đồn Quảng Trị hoặc Tây Nguyên. Anh trình giấy
– kí hiệu của trường huấn luyện biệt kích làm các tay cảnh sát phải xin lỗi
anh…

- Chỉ
vậy thôi sao? – Nghe Lục thuật xong, Luân vụt hỏi, Lục không hiểu ý nghĩa câu
hỏi, liếc Luân mãi.

“Chỉ
vậy thôi sao?” – tức là Luân không ngờ sự việc từ một nguyên nhân khác, giản
đơn hơn nhiều: hộp thư bị lộ, hoặc giao liên mang tài liệu bị lộ rồi khai báo,
địch phục kích… Trong trường hợp đó, nếu Lục thủ tiêu kịp báo cáo thì vẫn cứ để
chúng bắt, không đủ yếu tố buộc tội Lục. Chắc là một nhóm công an đã hành động
như nghiệp vụ của chúng. Thật tiếc cho Lục!

Luân
thở dài. Lục, lần này hiểu:

- Em có
lỗi.

- Thôi
đã lỡ rồi… Chú nên về khu, tùy trung tâm quyết định…

Luân
thuật cho Lục nghe các tin tức về cái chết của anh.

– Có lẽ
họ phát hiện xác cái thằng bị em… Em thưa với ông, em muốn tiếp tục làm việc
với ông kĩ sư!

Luân
phì cười:

- Bậy!
Cứ về khu. Không thiếu cơ hội làm việc đâu. Vả lại, đồng chí, hiểu chưa, không có ông kĩ sư nào ở đây!

Lục
cười theo.

- Tôi
sẽ bố trí cho anh về khu… Đến nơi, anh báo cáo ngay kế hoạch Sea và Explorer,
chắc chưa muộn… Nhớ, đừng nói gì về tôi với bất cứ kì ai…

Luân
xuống xe trước Chợ Lớn mới. Hai người từ giã nhau bằng mắt. Luân đi loanh quanh
một lúc, lên một tắc xi khác quay lại nhà thờ Tân Định.

Luân
chưa kịp lên xe của Thạch và Dung – họ đến nhà thờ sau Luân vài phút – thì một
cô gái gọi anh:

- Ông kĩ
sư!

Luân
nhớ ra ngay cô gái – cô Mai, nhân viên tòa đô chính, người đã đưa Luân vào chào
Trần Văn Hương khi anh về thành năm 1955 và sau đó, gặp anh ở trường Vương Gia
Cần. So với bảy năm trước, Mai già hơn nhiều. Càng lớn tuổi, Mai
càng giống một người nào đó quen quen với Luân mà khi gặp Mai lần đầu Luân cố
đoán song đoán không ra.

- Ông kĩ
sư nhớ tôi không? – Mai đến cạnh Luân.

Luân chìa tay bắt.

- Nhớ!
Cô Mai khỏe không?

- Cám
ơn… Tôi bình thường.

- Ai
đây, xin hỏi, phải bà kĩ sư không?

Dung ra
khỏi xe, bắt tay Mai. Luân giới thiệu:

- Cô
Mai, nhân viên tòa đô chính, tôi nói cách đây bảy năm, còn bây giờ làm gì, tôi chưa biết.

- Tôi
sang Hàng không dân dụng đã năm năm
nay!

- Thế
à…? Còn đây, Dung, nhà tôi.

Mai
nhìn Dung hơi lâu.

- Ông
bà đi chơi sáng Chủ
nhật?

Dung
gật đầu.

- Tôi
có một việc muốn thưa với ông kĩ sư để nhờ giúp ý kiến. Tôi có thể gặp ông kĩ
sư ở nhà riêng không?

- Được!
Xin mời cô Mai. Cô biết nhà tôi chưa?

Mai lắc
đầu. Luân đưa Mai tấm danh thiếp.

- Tôi
sẽ gọi điện cho ông trước.

Luân về
đến nhà, vừa kịp thuật cho Dung nghe trường hợp của Lục, dặn Dung bố trí cho
Lục lên Củ Chi thì điện thoại reo: Mai xin gặp Luân ngay.

- Cô ấy
đến vì việc gì? – Dung hỏi. Luân không đoán nổi. Anh nhắc những nhận xét của
anh về Mai trước đây – một người có thể có mối quan hệ nào đó với kháng chiến.

Mai vào
nhà. Một mình Luân đón tiếp cô.

- Tôi
muốn hỏi ông một việc. Tôi mạo hiểm và tin rằng không linh cảm sai. Tùy ông,
hoặc giúp tôi ý kiến, hoặc gọi công an bắt tôi.

*

Ngọn
đèn điện soi lù mù gian nhà xây đá tảng. Chiếc cửa sắt nặng nề ngăn gian hầm
với bậc thang, cũng xây đá, hẳn là lối lên mặt đất. Một con đường hẹp hun hút
không rõ chạy về đâu ở đầu hầm bên kia.

Một
người trần truồng đang co quắp trên nền xi măng lạnh, thân thể bê bết máu. Người
đó – tuổi có lẽ trên dưới sáu mươi – vụt
nhỏm dậy. Cùng với tiếng động nặng nề, hai chấm xanh lè theo con đường hẹp mỗi
lúc một tiến sát gian hầm. Bây giờ
thì thấy rõ rồi: con cọp to gần bằng con bê. Người đó lao đến cửa sắt, lay
mạnh: “Cứu tôi! Cọp!…”

Con cọp
dừng lại vài giây, nhe hàm răng chơm chởm. Nó rống còn to hơn cả tiếng kêu cứu.
Chỉ một cái nhún, cọp vồ gọn người đó. Ngọn đèn khẽ lắc lư. Nửa giờ sau, con
cọp ung dung theo con đường hẹp, vừa bước vừa liếm mép thỏa mãn. Gian hầm còn
lại chiếc đầu lâu, các bộ phận bầy nhầy và bộ xương. Nền xi măng lầy máu.

- Tại
sao cô biết việc đó?

Luân ôm
đầu hỏi.

- Chú
ruột tôi là lao công vệ sinh chuồng cọp ở sở thú. Ông chứng kiến không phải một lần… Gian hầm đó nằm trong hệ thống
mấy gian hầm, gọi là P.42. Sợ quá, ông ngỏ ý xin thôi, ông Thái Đen – ông kĩ sư
nghe tiếng Thái Trắng, Thái Đen không? Vâng, hai ông đều tên Thái, mật vụ - ông
Thái Đen cười lạt: Được, tôi cho ông nghỉ, nhưng không về nhà mà vô hầm đá… Chú
tôi đành tiếp tục công việc thu dọn xương thịt, lau chùi máu mỗi ngày. “Ở
ngoài, ai biết được chuyện này, ông phải chết!” Thái Đen bảo như vậy, chú tôi
biết ông ta không nói đùa.

- Những
ai bị hại theo kiểu đó? – Luân hỏi, thái dương anh giật giật.

Mai
không trả lời câu hỏi của Luân, nói tiếp:

- Cách
đây vài hôm, tôi đưa một người bạn trai về nhà. Anh là phi công lái máy bay ném
bom AD6, vừa tốt nghiệp ở Mỹ. Vì sao tôi quen với anh phi công này, xin phép
khỏi kể với ông kĩ sư, nhưng cũng cần nói thẳng: anh ta nhỏ tuổi hơn tôi và
không phải chuyện tình cảm. Chúng tôi đang ăn cơm thì chú tôi ghé thăm. Ông mệt
mỏi lắm. Chúng tôi mời ông dùng cơm, ông cầm đũa, vừa ăn một miếng, bỗng nôn ọe. Tôi hiểu lí do, người bạn của tôi thì trố mắt
nhìn. Tôi đỡ ông nằm tạm trên đi văng.

Trong
khi ăn, người bạn phi công kể lể về việc nhà: anh ở Thừa Thiên, cha và hai
người chú đều bị bắt vì dính líu với Đảng Đại Việt – Hà Thúc Ký, Phan Quang
Đông giam giữ họ cùng một số người khác, sau đó giải tất cả vào Sài Gòn, nghe
nhốt ở khám tên P.42. Anh phi công sợ liên lụy, nhờ người khác hỏi tin tức
giúp, chẳng đâu có tin tức.

Chú tôi
nghe hết, lồm cồm ngồi dậy, rút trong túi ra một chiếc nhẫn bằng ngà voi, đặt
lên bàn. Vừa trông thấy chiếc nhẫn, anh phi công chụp lấy, run rẩy:

- Nhẫn
của cha tôi!

… Người
chú của Mai, trong cơn xúc động, kể những điều trông thấy ở P.42. Viên phi
công, sau khi khóc ngất, đã đứng lên, từ giã Mai. Anh quyết định hành động và
anh ta sẽ hành động như thế nào, không khó khăn gì mà không đoán ra.

- Cô
muốn tôi có ý kiến, ý kiến về việc gì? – Luân ngó thẳng vào mắt Mai.

- Một
là, theo ông, anh bạn phi công của tôi trả thù như vậy là nên hay không nên…

- Cô
nói tiếp đi…

- Hai
là, nếu không nên, thì anh ta phải làm gì. Còn nếu nên, thì lúc nào tiện nhất,
tức là có kết quả nhất…

- Trước
khi trả lời cô – trả lời là tôi sẽ góp ý với cô hay gọi công an bắt cô – tôi
muốn cô cho biết vì sao cô lại đem một việc tày trời như vậy hỏi tôi, một người
mà cô thừa biết có mối liên hệ như thế nào với chế độ.

Mai
bình thản, điều đó cho thấy cô đã suy tính rất kĩ trước khi gặp Luân.

- Không
chỉ tôi mà cả Nam Việt, không ai không biết ông là người của ông Diệm. Song,
người nhà của ông Diệm vẫn không ngăn trở ông nói lên điều của riêng ông. Ông
từng thực hiện nhiều vệc không giống, hơn nữa, trái ngược với ông Diệm…

- Cô
theo dõi tôi kĩ quá! – Luân cười.

- Không
chỉ riêng tôi theo dõi ông…

- Tại
sao cô theo dõi tôi, cô có thể cho biết không?

- Xin
lỗi ông, tôi không thể làm vừa lòng ông… Tôi bịa ra một cớ, chắc được, song
không nên nói dối tại đây, lúc này… Ông cứ cho tôi giải thích theo dõi ông vì
tò mò chẳng hạn…

- Bảy
năm trước, cô bảo tôi cái gì, tôi còn nhớ: ông tiếp tục sự nghiệp kháng chiến
bằng cách vứt súng…

- Ông
có một trí nhớ tốt đặc biệt. Đúng, tôi đã nói như vậy. Sau đó, tôi thất vọng
hơn một mức nữa khi ông cộng tác với Ngô Đình Nhu. Nếu tôi tiếp tục khư khư với
định kiến thì, ông đừng phiền, tôi đã gợi ý cho anh bạn phi công của tôi, trong
một dịp nào thuận tiện, xả vào ông một băng tiểu liên!

Mai nói
rạch ròi. Cơ thể mong manh của cô gái chứa một nghị lực lớn; Luân thấy vui vui:
Bảy năm Mai không còn non nớt.

- Cô có
thể cho tôi biết cô là ai không? Cô biết tôi nhiều hơn tôi biết cô, thật không
công bằng!

Mắt Mai
chớp, nụ cười ranh mãnh:

- Tôi
không thuộc về một phía nào có thể làm hại ông.

Luân
bỗng hạ giọng:

- Mai
đứt liên lạc từ bao giờ? Công tác binh vận thương đơn tuyến, dễ đứt liên lạc.

Mai lại
chớp mắt, nụ cười vẫn ranh mãnh:

- Ông
dẫn tôi đi quá xa rồi! Tôi trở lại câu hỏi chính.

- Tôi
không thể trả lời cho cô. – Luân nghiêm giọng – Như cô cho biết, anh chàng phi
công bạn của cô thuộc một gia đình Đại Việt. Với một phi công Đại Việt, anh ta
đã định làm, muốn ngăn cũng không ngăn nổi, anh ta đã định không làm, muốn xúi
cũng không xúi nổi. Chính họ hiểu hơn ai hết phải làm như thế nào và làm lúc
nào, nếu họ quyết tâm. Cô nên nhớ, tai mắt của Đại Việt đâu đâu cũng có. Vả
lại, tôi không thích những vụ trả thù tư riêng…

- Ông
vừa nói một câu không thật. Ông không thích những vụ trả thù tư riêng, nhưng
chẳng lẽ ông không tìm thấy trong những vụ trả thù đến mức nào đó sẽ mang đến
hậu quả không còn tư riêng nữa…

Mai nói
đều đều. Luân biết mình đang tiếp một tay có bản lĩnh. Anh chợt nhớ Mạch Điền.
Không! Mai không thể nào là Mạch Điền được.

- Tôi
xin hỏi một câu bè bạn: Anh ở nhà khỏe không?

Mắt Mai
vụt tối sầm.

- Nếu
câu hỏi vô duyên của tôi phiền cô…

-
Không! Cám ơn ông… Ông quan tâm đến chúng tôi càng chứng tỏ tôi đã không lầm
khi trao đổi với ông về chuyện vừa rồi… Nhà tôi bị bắt và biệt tích hai năm
nay. Chắc ông muốn biết nhà tôi làm gì mà bị bắt. Bây giờ, tôi không cần giấu,
nhà tôi là một cán bộ hoạt động nội thành, anh ấy dạy học và phụ trách tổ chức
các nhà giáo…

- Anh
bị bắt lúc nào?

- Giữa
năm 1959, lúc anh đang dạy…

- Ai
bắt?

- Lúc
đầu, công an bót Hàng Keo, sau đó chuyển lên Nha cảnh sát Đô thành và mất tích…

- Có
vào P.42 không?

- Chú
tôi không gặp anh ấy, nhưng tôi nghĩ anh ấy chết tại P.42… Không phải lúc nào
chú tôi cũng có mặt ở đó.

- Tôi
có thể hỏi thăm tin của anh, nếu chị cho biết tên. – Luân đổi cách xưng hô –
Anh còn sống thì tôi cũng có thể xoay xở cho anh được tự do…

- Cám
ơn ông nhiều… Tuy nhiên, tôi không còn một chút hi vọng. Các bạn tù của anh ấy
đều cho biết từ Nha cảnh sát Đô thành, anh ấy bị lôi đến một nơi giam giữ nào
đó rất bí mật và không còn ai gặp anh ấy nữa. Trong giấy căn cước của nhà tôi
là Lê Văn Hòa, giáo sư…

- Anh
chị được mấy cháu? – Luân hỏi, sau khi ghi chú tên của chồng Mai.

- Một
cháu, lên bốn… Cháu gái.

- Tôi
xin hỏi ông thêm một vài chi tiết kĩ thuật, - Mai chuyển nội dung nói chuyện
sang hướng khác – tôi muốn biết mỗi chiếc Skyraider chở được bao nhiêu bom?

Luân
ngó Mai một lúc. Người ta đã nói với cô những gì về loại máy bay sản phẩm của
Thế chiến thứ hai này?

- Đó là
loại máy bay ném bom duy nhất chở nổi một trong lượng bằng chính trọng lượng
của nó, mà nó rất to, có thể mang ba tấn rưỡi bom các cỡ từ 350 đến 500 kí, bom
miểng hay bom cháy hay napalm. Nó có bốn khẩu tiểu pháo 20 li… Tốc độ bay tối
đa 500 km/g,
bay cao được 8 cây số, tầm hoạt động 400 cây số… Tất cả những gì thuộc số liệu cơ bản của
Skyraider, có bấy nhiêu.

- Cám
ơn ông nhiều… Ba tấn rưỡi bom! Không phải ít…

-
Nhưng, trọng tải thực tế thường thấp hơn… Nhất là nếu phải đi ném bom xa… Hiệu
quả của nó cũng không phải ghê gớm lắm đâu…

- Chỉ
cần ném trúng đích! – Mai nhấn mạnh. Luân thừa hiểu cái “đích” đó…

Câu
chuyện càng lúc càng buồn đồng thời càng lúc càng giống như hai đồng chí trao
đổi và chia sẻ với nhau.

- Chị
cẩn thận với tay phi công Đại Việt. Đại Việt hung dữ, gian giảo chẳng thua ai…
- Luân dặn dò trước khi Mai ra về.

*

Giữa
những gọng kềm.

(Bài
của Hellen Fanfani gửi báo Financial Affairs bằng telex)

Sài
Gòn, November. Trong khi cuộc hội đàm giữa đại diện của Tổng thống Mỹ với phái
đoàn Nam Việt đang đi vào những chi tiết của một chương trình hành động chung
và hiệu quả nhằm lật ngược tình thế ở Nam Việt – nay thì xấu đến tồi tệ - Quốc
hội Sài Gòn, dĩ nhiên dưới sức ép của Phủ Tổng thống, thông qua đạo luật số 13
trao cho ông Ngô Đình Diệm quyền hành đặc biệt được ban bố các sắt luật trong
tình trạng khẩn cấp, sau khi ông Diệm tự mình ra sắc lệnh ban bố tình trạng
khẩn cấp năm ngày trước đó. Diễn đạt cách khác, nhà cầm quyền
Nam Việt của ông Diệm xem Nam Việt ở vào thời điểm báo động có tính cách toàn
quốc. Một chính khách Nam Việt rất thông thạo các vấn đề chính trị - và yêu cầu
không tiết lộ tên – cười với vẻ hài hước: “Tổng thống Diệm và em trai, em dâu
của ông ta chưa bỏ lối thủ đoạn vặt. Chính khách ấy bảo: “Chế độ Sài Gòn lợi
dụng kẻ thù của mình – sau khi đã lợi dụng Đức Chúa Trời, người di cư, phe phái
Quốc gia và đồng minh. Bây giờ, nếu Việt Cộng giảm cường độ chiến tranh thì
chính anh em ông Diệm nổi đóa. “

Chế độ
Sài Gòn có đứng sát bờ vực sụp đổ
- do Việt Cộng – thì ông Diệm mới chuyển được cái thế từ đang bị người Mỹ hạch
sách lên cái thế hạch sách lại người Mỹ. Ông Diệm ngoan cố với lập luận: Nam
Việt suy yếu vì người Mỹ phân tán sức ủng hộ, chập chờn giữa ông Diệm – mà thành
công của những năm cuối thập kỉ 1950 là sáng chói – với các nhóm, đeo đuổi trò
chơi dân chủ nguy hiểm. Tướng Taylor chứng kiến, trong dịp này, thái độ kiên
quyết chống Cộng, kiên quyết chiến tranh của ông Diệm và sự đoàn kết quốc gia
vững chắc – quốc hội đứng sau lưng Tổng thống. Vậy thì, con đường duy nhất đi đến bãi bỏ tình
trạng khẩn cấp, tức giảm áp lực của Cộng sản, nếu không chiến thắng giòn giã,
ít ra cũng đẩy lùi Cộng sản về vị trí và thế lực trước 1960, là phải dồn sự ủng
hộ cho chế độ hợp hiến, hợp pháp do ông Diệm đứng đầu, bạn đồng minh duy nhất ở
Nam Việt mà Mỹ tin cậy được.

Người
ta nói với nhà báo nước ngoài: Còn phải xem quyền đặc biệt của ông Diệm tác
động đến Cộng sản như thế nào, trong khi cái quyền không giới hạn ấy lại như
lưỡi gươm lơ lửng trên đầu Damocles(1) đối với các đòi hỏi “dân chủ hóa” Nam
Việt, thực chất là đòi chia quyền với ông Diệm. Ngày 26-10, nhân Quốc khánh
Việt Nam Cộng hòa, Tổng thống Mỹ hồi đáp: Mỹ tăng viện vì tình hình Nam Việt
khẩn trương.

(1) Vua
Denys (gọi là Denys Già để phân biệt với Denys Trẻ) ở xứ Syracuse (đảo Sicile)
thế kỷ 4 trước công nguyên cho treo một thanh gươm thật nặng trên đầu Damocles,
một viên triều thần để thử thách.

Đến
đây, sự thể không còn đơn giản nữa. Tổng thống Mỹ vồ lấy cái cớ do chính ông
Diệm bù lu bù loa để mang cả vũ khí lẫn thực binh sang Viễn Đông, điều mà
Eisenhower không làm nổi. Có thể ông Diệm và người em trai khôn ranh của ông
đang hối hận. Kennedy thống nhất với ông Diệm về tình hình nguy kịch ở Nam Việt
nhưng lại chọn giải pháp xử lí khác – nếu không nói là ngược – với ông Diệm.

Ngày
4-11 tướng Taylor về Mỹ, hoàn tất kế hoạch bình định Nam Việt trong vòng mười tám tháng. Viên tướng thích bắt mọi thực tế phụ thuộc
vào các nét bút chì của ông ghi trên giấy trấn an Tổng thống Mỹ: “Người Mỹ chi
một số nhân lực tối thiểu không thể gây xôn xao trong dư luận và quốc hội Mỹ mà
đạt hai mục tiêu chiến lược: đánh bại Việt Cộng trong thời hạn lí tưởng nhất và
khống chế chính quyền Sài Gòn trong khuôn phép chặt chẽ nhất.

Trên
chiến trường – mà chiến trường bây giờ lan hầu như khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng
hòa: vùng bờ biển Trung phần yên tĩnh suốt năm 1960: nay theo gót Nam phần. Chỉ
kể thời gian từ lúc tướng Taylor có mặt ở Sài Gòn – hai mươi
lăm ngày – Việt Cộng mở ba mươi trận tấn công cấp tiểu đoàn hoặc nhiều tiểu đoàn nhắm vào các thị trấn
xung yếu, kể luôn tỉnh lị. Ngoại giao đoàn và các nhà báo được cảnh cáo chớ đi
quá xa nội ô Sài Gòn mà không có hộ tống. Một đại tá Việt Nam Cộng hòa bị bắt
cóc và người ta nhặt xác ông ở dưới dạ một chiếc cầu sát Sài Gòn.

Tướng
Taylor, người hùng Triều Tiên quên tiền lệ của tướng Leclerc, viên tổng chỉ huy
Pháp, người hùng thế chiến, cam kết bình định Nam Việt mấy tuần lễ - cuộc chiến
tranh của Pháp ở Việt Nam kéo dài chín năm và người Pháp đầu hàng ở Điện Biên Phủ và Genève.

Ông
Diệm, nhà độc tài kiên định, quên rằng nếu ông biết sử dụng kẻ thù như đồng
minh để trả giá với Mỹ thì Mỹ còn đủ điều kiện hơn ông làm việc tương tự. Mỹ
đang mô tả tình trạng khẩn cấp ở Nam Việt một trăm lần khẩn cấp hơn sự mô tả
của ông Diệm.

Những
gọng kềm đang siết… Ông Diệm có vẻ hiểu thân phận – ông kí lệnh bổ Đại tá Nguyễn Văn Y làm Tổng giám đốc Cảnh sát quốc
gia. Ông quyết đối phó, không phải với những gọng kềm, mà đối phó với những kẻ
cùng lọt giữa gọng kềm như ông.”

Bài báo
không được chuyển về Mỹ. Luân nhận bản sao bài báo dưới dấu để confidential(2)
của Tổng nha thông tin.

(2) Tuyệt
mật.