Ván bài lật ngửa - Phần VII - Chương 05 phần 1

P7 - Chương 5

Cuộc họp tuyệt mật của số
sĩ quan cấp tướng mà Saroyan báo với Luân, về phía Mỹ không có James Casey. Lí
do là đại sứ Nolting không tán thành cuộc họp này, ông ta không muốn liên can
quá lộ liễu đến một âm mưu chống lại Tổng thống Ngô Đình Diệm. Thâm tâm Nolting
chưa tán thành quan điểm loại Diệm vào lúc này - mối quan hệ nhân ngãi với Lệ
Xuân giữ một tỉ lệ nào đó, tất nhiên, trong thái độ do dự này, đồng thời ông ta
lại làm mọi cái có thể làm để cho việc loại Diệm chín muồi hơn mà vẫn giữ được
tiếng là kẻ hết lòng ủng hộ Diệm. Fishell và Katterburg, với danh nghĩa những
người bạn của các tướng lĩnh Việt Nam đến góp ý kiến về thời cuộc, thật ra là
tác giả kiêm đạo diễn của vở kịch lớn được thai nghén rồi soạn thảo từ lâu, với
những phân đoạn kĩ thuật chi tiết, chia thành từng trường đoạn, thậm chí với một
bảng bố trí vai diễn - có vai chính và có vai phụ.

Về phía Việt Nam, có các tướng
Mai Hữu Xuân, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, và hai đại tá - Nguyễn Hữu Có và
Đỗ Mậu - có vẻ như Lê Văn Kim hoặc Trần Văn Đôn khởi xướng cuộc họp tạo phản
này, nhưng, trước khi khai mạc, Katterburg rầm rì rất lâu với Đỗ Mậu, còn
Fishell thì trao đổi riêng với tướng Xuân.

Nơi họp là nhà riêng của đại
tá Có - một bữa tiệc thịt rừng vào chiều thứ Bảy, gồm những người
bạn thân Việt và Mỹ.

Ngay những người dự họp đều
không biết một chi tiết khá thú vị: sau khi nhà sư Thích Quảng Đức tự thiêu,
Fishell đã bí mật gặp John Hing; còn John Hing, để chuẩn bị gặp Fishell, đã làm
việc mấy tiếng đồng hồ liền với Lâm Sử có thể tóm gọn như sau: Trung Cộng dùng ảnh
hưởng của mình để hạn chế tối đa mức hoạt động của Việt Cộng một khi xảy ra biến
động có tầm cỡ quốc gia ở Sài Gòn. Lâm Sử thừa biết cái “biến động tầm cỡ quốc
gia” ấy là gì, tuy nhiên anh ta đắn đo về lời cam kết. Lâm Sử tự đánh giá anh
ta không có khả năng làm việc đó một cách trực tiếp. Bề ngoài, Lâm Sử phải tỏ
rõ cho Việt Cộng thấy Bắc Kinh nhiệt liệt ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng ở miền
Nam Việt Nam. Anh ta có thể xin gặp Khu ủy Cộng sản khu Sài Gòn - Gia Định, thậm
chí có thể xin gặp Trung ương Cục miền Nam nhưng sẽ chẳng ăn thua nếu anh ta lại
đưa ra đề nghị Việt Cộng đừng lợi dụng thời cơ rối loạn ở Sài Gòn để đánh rã quốc
sách Ấp chiến lược và đánh rã quân đội Sài Gòn. Một đề nghị như thế chẳng khớp
chút nào với khẩu hiệu mà đài Bắc Kinh đang ra rả suốt ngày. Lâm Sử dễ dàng hẹn
với Nghị Lực, một cán bộ lãnh đạo các tổ chức lao động và học sinh người Hoa ở
thành phố thuộc Khu ủy Cộng sản Việt Nam. Cũng vậy thôi, Nghị Lực là một người
trọng nguyên tắc, rất có kinh nghiệm chính trị, đôi khi đề nghị của Lâm Sử lại
cung cấp cho Nghị Lực cơ sở để phản ánh về cơ quan lãnh đạo cấp cao của Việt Cộng
và kết quả sẽ ngược hẳn ý muốn của Lâm Sử. Hơn nữa, gần đây mối quan hệ giữa
nhóm Lâm Sử và nhóm Nghị Lực bắt đầu có những biểu hiện mâu thuẫn. Mâu thuẫn lớn
xoay quanh một loạt quan điểm. Từ lâu rồi, Lâm Sử bảo vệ phương châm mà anh ta
cho là “nguyên lí của chủ nghĩa Mác ở châu Á” - lực lượng cách mạng Nam Việt
Nam phải trường kì mai phục, xúc tích lực lượng, chờ đợi thời cơ, dùng nông
thôn bao vây thành thị, ở nông thôn thì cơ bản là tác chiến du kích và phòng ngự,
không cần thiết xây dựng lực lượng chủ lực quá cấp đại đội. Diễn tiến của tình
hình chung ở Nam Việt Nam từng ngày một chẳng những đính chính mà còn phủ định
cái nguyên lí kia - cái nguyên lí đã đưa phong trào cách mạng một loạt các nước
Đông Nam Á vào chỗ khó khăn nghiêm trọng. Mâu thuẫn cụ thể giữa hai nhóm xuất
phát từ đối tượng mà hai nhóm phụ trách.

Xét về một nghĩa nào, mâu
thuẫn đó thật sự gay gắt. Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm người Hoa thuộc tầng lớp
tư sản mà số không nhỏ là tư sản mại bản. Do vấn đề được đổi quốc tịch, số tư sản
người Hoa đã tham gia chính quyền ở nhiều dạng và nhiều mức, giữ vị trí then chốt
trong một số ngành kinh tế như tài chính, ngân hàng, xuất nhập khẩu, thương
nghiệp. Nghị định cấm mười một nghề của Ngô Đình Diệm thực tế bị vô hiệu hóa bởi
vì tổng đại lí mua bán sắt thép không phải là Pô Xường Thài mà là Bá Thượng
Đài. Ở đây, nảy sinh một tranh chấp tất yếu giữa một bên là những ông chủ - tất cả đều vừa
giữ quan hệ tốt với sứ quán Đài Loan, vừa giữ quan hệ bí mật với nhóm Lâm Sử -
và một bên là những người Hoa lao động, mang quốc tịch Việt Nan hay theo quy chế
ngoại kiều. Với số lao động này, nghị định cấm mười một
nghề vẫn giữ nguyên hiệu lực. Trong vòng vài năm nay, nhiều cuộc đấu tranh nổ
ra giữa chủ người Hoa và lao động cũng người Hoa. Mỗi lần nhóm Lâm Sử gặp nhóm
Nghị Lực, cuộc tranh luận không còn dừng ở ngang các lời lẽ hữu hảo chung
chung, ủng hộ lẫn nhau chung chung, mà thật sự là cuộc đối đầu giữa hai thế lực
phản ánh vị trí xã hội đối lập mà hai nhóm đại diện. Lúc đầu, nhóm Nghị Lực đề
nghị nhóm Lâm Sử hướng dẫn các chủ nhân người Hoa giải quyết thỏa đáng yêu cầu
của những người làm thuê Hoa và Việt trong một số xí nghiệp, tiệm buôn nhất định.
Thường thường nhóm Lâm Sử né tránh bằng cách giảng giải tràng giang đại hải về
sách lược đối với Hoa kiều tư sản ở Đông Nam Á. Sau này, nhóm Nghị Lực đặt thẳng
các yêu cầu và nói rõ vấn đề mà họ quan tâm là lợi ích của người Hoa nghèo
trong cộng đồng Hoa - Việt ở miền Nam và ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Họ không có trách
nhiệm gì đối với chính sách Hoa kiều của Bắc Kinh. Có thể nói được rằng, quan hệ
của hai nhóm đang khá căng thẳng. Gần đây nhất, nhóm Nghị Lực đưa ra một loạt
yêu sách về cải thiện điều kiện làm việc và lương bổng của công nhân các hãng dệt
lớn nhất thành phố như hàng Vimytex và Vinatexco. Cả hai hãng gồm đến hơn một vạn
công nhân, phần lớn là thiếu nữ người Hoa và cả hai hãng đều tồn tại dưới dạng
tổ hợp Việt - Mỹ, nên hiểu Việt là những tư sản người Hoa đổi quốc tịch Việt
Nam.

Một việc khác cũng không
kém phức tạp. Nhóm Lâm Sử phát hành tờ tin lưu hành trong giới học sinh - là
khu vực theo thỏa thuận giữa hai đảng, thuộc phần quản lí của nhóm Nghị Lực. Tờ
tin mang tên “Diện hướng Tổ Quốc,” đăng tải các bài nói về công xã nhân dân, về
bước “đại nhảy vọt” và các câu của “người cầm lái vĩ đại” được thần chú hoá,
Nghị Lực đã trực tiếp phản đối việc làm này, coi như là sự can thiệp vào nội bộ
Việt Nam và trái ngược với những điều đôi bên đã giao ước. Thế của nhóm Nghị Lực
ngày một lớn do phong trào của người Hoa kết hợp với phong trào của người Việt
trong xí nghiệp và ở trường học phát triển mạnh, được cuộc chiến tranh giải
phóng ở nông thôn và các hoạt động vũ trang ở đô thị hậu thuẫn. Nhóm Lâm Sử hết
rơi vào chỗ lúng túng này đến chỗ lúng túng khác bởi thiếu nhất quán trong lập
luận của họ. Lâm Sử đã nhiều lần lên Nam Vang gặp đại sứ Trung Cộng xin chỉ thị.
Liêu Thừa Chí, người cầm đầu Vụ Hoa kiều của Bắc Kinh đã điện cho Lâm Sử, truyền
đạt chỉ thị của Trung ương Trung Cộng, nhưng đó cũng chỉ là những giáo huấn rất
chung.

Chính sách của Bắc Kinh đối
với Ngô Đình Diệm từ đầu năm 1962 đã thay đổi. Không phải Liêu Thừa Chí mà Hàn
Niệm Long, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao của Trung Cộng, đồng thời là nhân vật chủ
chốt của Ban đối ngoại trực thuộc Trung ương Trung Cộng đã điện cho Lâm Sử qua
đại sứ Trung Cộng tại Nam Vang: Thay đổi Ngô Đình Diệm bằng cách nào đó là cần
thiết đối với lợi ích của Trung Quốc bởi lẽ, trong tình hình hiện nay, sự tồn tại
của Ngô Đình Diệm đồng nghĩa với việc xúc tiến những điều kiện thuận lợi để cho
Việt Cộng kiểm soát toàn bộ Nam Việt Nam, hoặc trực tiếp do lực lượng Việt Cộng
của Nam và Bắc phối hợp thực hiện hoặc thông qua bước quá độ kiểu Chính phủ
liên hiệp ở Lào. Hết sức đề phòng khả năng đảo chính tại Sài Gòn do chịu ảnh hưởng
Việt Cộng hoặc vì sức ép của Việt Cộng ngoài chiến trường. Nếu có đảo chính thì
lợi nhất đối với Trung Quốc là người Mỹ tổ chức đảo chính liên hiệp với các thế
lực thân Pháp. Sự kiện đó xảy ra càng sớm càng tốt.

Phương hướng đã được vạch
rõ. Những gì John Hing trao đổi với Lâm Sử, chỉ minh họa thêm chỉ thị của Hàn
Niệm Long.

Trong một lần về Bắc Kinh,
Lâm Sử đã được nghe các nhận định khái quát về phân chia vùng thế lực ở Đông
Nam Á và Đông Dương của Trung ương Trung Cộng. Riêng Việt Nam, Nam vĩ tuyến 17
nằm trong vùng ảnh hưởng của Mỹ, có dung hòa lợi ích với Trung Cộng. Nước Việt
Nam sẽ chia cắt lâu dài. Điều gì đụng chạm đến chủ trương đó đều phải bị gạt bỏ.

Trung Cộng hi vọng xa hơn:
tạo ngay trong ruột của Việt Cộng ở miền Nam một phân hóa nào đó dẫn đến tư tưởng
“tự trị” đối với cả nước; muốn được như vậy cần phải kéo dài chiến tranh, Mỹ cần
phải tham gia sâu hơn vào chiến sự.

Trung Cộng theo dõi thật
chi li những diễn tiến của tình hình Nam Việt và lo lắng về khả năng chính Ngô
Đình Diệm, bị dồn vào thế bí, chìa bàn tay xin xỏ sự giúp đỡ của Việt Cộng. Cả
John Hing và Lâm Sử đều nhìn Nguyễn Thành Luân, nay là đại tá, như một thứ gạch
nối cực kì nguy hiểm một khi Diệm muốn thoát khỏi bế tắc. Tuy nhiên, cho đến giờ
phút này, ý kiến của John Hing chưa được Fishell chấp nhận. Hơn thế nữa, một số
nhân vật cao cấp của Mỹ còn đặt Nguyễn Thành Luân trong ngôi thứ trọng yếu khi
Mỹ thay đổi “đồng minh” ở Nam Việt.

Gì thì gì, Lâm Sử vẫn phải
trả lời cho John Hing. John Hing không bằng lòng câu trả lời nguyên tắc mà muốn
hiểu xem Lâm Sử tác động cụ thể như thế nào với Việt Cộng.

- Các ông đã để vuột ra khỏi
tay mình các ông bạn đồng minh Việt Cộng quý hóa của các ông... - John Hing
nhún vai sau khi nghe câu trả lời rất lúng túng của Lâm Sử.

- Chúng ta phải suy tính
cách của chúng ta. - John Hing bảo Fishell, sau khi lắc đầu về vai trò của nhóm
Lâm Sử trong kế hoạch hành động của họ.

- Tôi đánh cuộc với Tổng thống
Kennedy rằng, sẽ không có hậu quả gì đáng kể nếu ông Diệm bị thay thế. Dĩ
nhiên, tình hình sẽ tùy thuộc ở chỗ sự thay thế êm thấm hay ồn ào. Tôi chủ
trương cố gắng để thay thế êm thấm. Tất nhiên, ông Diệm và gia đình ông ta rất
cứng đầu, cần thiết phải có một sức ép. Sức ép đó, phải từ các quân nhân bởi vì
Nam Việt đang có chiến tranh, ông Diệm không thể giữ ghế Tổng thống nếu không
được các tướng ủng hộ.

Cuộc họp bắt đầu bằng những
lời phân tích của tướng Mai Hữu Xuân. Tướng Xuân nói trước hết về tình hình chiến
sự mà theo ông là bi đát. Với tư cách là Tư lệnh hành quân, ông phác qua đại
cương trạng thái các chiến trường, các binh quân chủng và quy kết
mọi trách nhiệm vào sự lãnh đạo của Tổng thống Diệm, đặc biệt nhấn mạnh đến sức
phá hoại chính trị của vợ chồng Ngô Đình Nhu. Nói chung, những người dự họp
không phản đối nhận định của tướng Xuân. Cái rắc rối bắt đầu ở chỗ phương pháp
giải quyết. Tướng Xuân hăm hở nói đến một cuộc đảo chánh quân sự.

- Hành động chớp nhoáng bảo
đảm chắc chắn thành công. Ở đây, tướng Đôn là tư lệnh lục quân. Với những điểm
phải thanh toán, chúng ta cần một sư đoàn bộ binh, được pháo và thiết giáp yểm
trợ... Đại tá Có đang là Phó tư lệnh vùng 3 chiến thuật, sẽ ngăn ngừa mọi hướng
tiếp ứng mà theo tôi, nếu có cũng không lấy gì làm quan trọng...

- Tôi nghĩ công việc sẽ
không đơn giản như tướng Xuân tính, - tướng Lê Văn Kim, người được các tướng
cho là “bộ não của một quân sư” phát biểu với sự dè dặt thường lệ của ông. -
Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống không phải là những “cây kiểng.” Sư đoàn 5 của
Đại tá Nguyễn Văn Thiệu đóng cách thủ đô có 30 cây số. Hải quân
chưa có dấu hiệu bất mãn. Không quân còn là ẩn số. Chúng ta có thể hi vọng ở
lính Dù, một bộ phận bảo an... Kế hoạch hành động khôn ngoan phải bao gồm một
loạt tính toán, trong đó yếu tố chính trị là hết sức quan trọng...

- Chính phủ Mỹ sẽ tuyên bố
ngay lập tức ủng hộ Chính phủ mới. - Mai Hữu Xuân cắt ngang lời của Kim, liếc về
phía Fishell. Fishell và Katterburg thì khoanh tay im lặng.

- Tôi cho là trở ngại chính
của chúng ta không phải thuộc vấn đề kĩ thuật – đại tá Có nói - Ai sẽ cầm đầu Chính
phủ mới? Người đó, phải đủ uy tín trong quân đội và lời kêu gọi đầu tiên của
người đó phải có hiệu lực làm bất động ít ra các đơn vị đóng quanh thủ đô và được
giới Phật giáo ủng hộ.

- Tôi muốn lưu ý các anh:
Tướng Tôn Thất Đính đang là Tư lệnh ở vùng 3 chiến thuật. Lực lượng ở trong tay
của anh ta không phải là nhỏ. Chỉ cần anh ta bác bỏ Chính phủ mới, chúng ta sẽ
phải lâm vào tình thế khó xử và do đó chính biến phải kéo dài.

Nhận xét của tướng Đôn đẩy
hội nghị vào điểm chết. Không ai hẹn ai, cả ba tướng đều giống như những tín đồ
chờ lời phán xét của Chúa Trời. Mai Hữu Xuân bực bội mở bản đồ Sài Gòn, bản đồ
bọc trong giấy kiếng, đã được vạch các mũi tên bằng bút chì mỡ. Ông toan thuyết
trình tiếp. Đỗ Mậu ngó lên trần nhà, như đeo đuổi một ý nghĩ nào đó.

- Chúng tôi ủng hộ mọi sáng
kiến nhằm cải thiện tình hình Nam Việt. - Fishell nói - Tuy nhiên nếu điều kiện
khách quan đã tỏ ra bức xúc cho một sự thay đổi người cầm đầu nhà nước Nam Việt
- thì thế lực để thực hiện việc đó lại còn quá mỏng. Tất cả chúng ta, không ai
nuôi nấng ý muốn riêng tư nào đối với cá nhân Tổng thống Ngô Đình Diệm...

Fishell nói đến đây, ngó thẳng
vào mặt Mai Hữu Xuân.

- Vấn đề là đường lối của Chính
phủ. Muốn chiến thắng Việt Cộng, Chính phủ Nam Việt không thể để “lún sình”
trong vụ Phật giáo. Thái độ của quân đội rõ ràng liên quan đến thái độ của Chính
phủ đối với Phật giáo, bởi số đông binh sĩ là tín đồ của tôn giáo này. Chính phủ
Mỹ đã làm hết sức mình để hướng Tổng thống Diệm vào chính sách mềm mỏng. Những
cố gắng ấy, cho đến nay, đã không thành công. Tôi nghĩ rằng trong bối cảnh và với
những điều kiện như vậy, các tướng lĩnh Việt Nam cần có tiếng nói. Theo tôi,
yêu cầu của những người cầm quân đối với Tổng thống Diệm có thể chia làm hai bước.
Bước thứ nhất là công khai bày tỏ những lo lắng của các tướng lĩnh đối với tình
hình Chính phủ đàn áp đạo Phật và đề nghị Tổng thống Diệm ban hành ngay quyết định
chấm dứt sự đàn áp đó. Kiến nghị phải mang nhiều chữ kí, nhất là phải có chữ kí
của những tướng được quân đội tin cậy. Tôi muốn nêu một ví dụ: tướng Big Minh,
nếu tướng Big Minh thay mặt cho tướng lĩnh trình bày yêu sách thì tôi tin là Tổng
thống Diệm phải xét lại một cách căn bản chính sách của mình. Bước thứ hai,
nghĩa là nếu bước thứ nhất không mang đến kết quả, thì các tướng lĩnh phải bằng
một hình thức nào đó, biểu thị thái độ kiên quyết hơn như yêu cầu Tổng thống từ
chức và xuất ngoại giống Tổng thống Lý Thừa Vãn ở Đại Hàn. Bước thứ hai tiến
sát đến một hành động dứt khoát, nếu như tình thế bắt buộc và các ông, chỉ có
các ông mới đủ sức cho ông Diệm thấy là các ông không nói suông. Thời gian
không còn nhiều nữa. Nếu sự phản kháng của tín đồ Phật giáo lắng dịu thì coi
như các ông đã đánh mất con chủ bài. Đại sứ Mỹ hiện nay sẽ chẳng tán thành bất kì
một toan tính nào để thay đổi ông Diệm. Nhưng, đại sứ cũng sẽ không phải là trở
ngại đối với các ông. Tôi phải nói điều đó, bởi vì, trong nhiều bản tuyên bố,
các giới chính trị tại Sài Gòn hàm ý “cột” Chính phủ Mỹ với chính sách khủng bổ
Phật giáo của ông Diệm. Không phải như vậy. Và tôi cũng nói thẳng với ông Diệm:
Nhiệm kì của đại sứ Nolting sắp chấm dứt...

Tướng Xuân xếp bản đồ lại.
Những lời “phán” của Fishell có làm cho ông ta cụt hứng nhưng ông ta vẫn chưa
chịu rút lui.

Bức thư gần đây nhất của
Savani, người thầy và người bạn Pháp của ông, đã giúp ông nghị lực:

“Cái chúng ta chờ đợi, cái
đó đang đến gần. Sự có mặt của nước Pháp ở Đông Dương thuộc Pháp vốn bắt nguồn
từ những điều kiện lịch sử sâu xa, thái độ quay phắt của ông Diệm dù sao cũng
chỉ mang ý nghĩa nhất thời. Đối đầu với Cộng sản ở Đông Dương, là nhiệm vụ mà
thượng đế chỉ giao cho nước Pháp. Chúng ta phải thú nhận rằng chúng ta đã thua
một số trận, thậm chí một số chiến dịch, nhưng, nói theo đại đế Napoléon, chúng
ta chưa thất trận. Trái lại, người Mỹ đang cầu cứu chúng ta. Số sĩ quan được nước
Pháp đào luyện, kể cả sĩ quan cao cấp, vẫn chiếm tỉ lệ lớn trong quân đội Nam
Việt Nam. Đa số chính khách và trí thức Sài Gòn đều giữ cảm tình với nền văn
minh Pháp. Còn dân chúng, họ đã có điều kiện thực tế để so sánh hai lối cư xử,
nhất định sự hào hoa và tế nhị của Pháp bao giờ cũng được mến chuộng hơn tính
cách thông tục và thực dụng kiểu Mỹ. Bản thân thiếu tướng, những cái mà thiếu
tướng còn nắm được, không quá nhỏ bé - tôi muốn nói hệ thống điệp viên của Sở mật
thám và của Phòng Nhì. Dĩ nhiên, hơn lúc nào hết, thắng lợi tùy thuộc ở tài suy
đoán và chiến thuật của thiếu tướng. Sẽ không cần thiết làm như Nguyễn Chánh
Thi đã làm. Điều kiện chính trị hiện nay khác hẳn năm 1960. Chỉ cần khéo léo lợi
dụng các mâu thuẫn đang có thật trên cái nền phẫn nộ của dân chúng, biểu hiện
gay gắt qua thái độ mỗi lúc một quyết liệt của tín đồ đạo Phật. Thiếu tướng gần
đi đến đích mà chẳng nhọc công, vẫn bảo toàn được thế lực. Đó là tôi chưa nói một
yểm trợ khác, gián tiếp hơn, nhưng vẫn không quan trọng: chính sách của Thái tử
Sihanouk và xu thế của Chính phủ Phouma. Hoàn toàn không nên lầm lẫn chủ thuyết
trung lập của nhóm Băngđung - thực tế có lợi cho Cộng sản - với chủ thuyết
trung lập Đông Dương của tướng De Gaulle. Đông Dương phải trung lập, nghĩa là
phải thoát khỏi ảnh hưởng của Cộng sản lẫn của Mỹ. Giữa chúng ta, ông và tôi,
nên thẳng thắn nhìn lại bước đường cũ. Chúng ta đã vấp một số sai lầm kĩ thuật
mà Chính phủ Pháp đã khắc phục sau này đối với Algérie và các thuộc địa thuộc
châu Phi khác.

Sớm hơn như Nguyễn Chánh
Thi là phiêu lưu. Nhưng, bây giờ trễ hơn là mất mát. Trễ hơn sẽ có nghĩa trên
trận địa chỉ còn có Mỹ và Cộng sản. Vai trò “đệm” của chúng ta đòi hỏi “chớp” lấy
những cái gì mà cả Mỹ, ông Diệm và Cộng sản đang biếu không.

Ông bạn Xuân thân mến, hẳn
ông bạn đã đọc tiểu thuyết của Dumas: Truyện về Bá tước Monte Cristo.
Gần đây, các nhà điện ảnh Pháp dựng lên bộ phim “Vengeance de Monte Cristo.”
Tôi biết gần mười năm qua, ông bạn nuôi nấng một cách khôn khéo ý chí phục thù. Bây giờ, thiếu
tướng thân mến, hãy như Bá tước Monte Cristo, tuốt lưỡi gươm phục thù...”

- Tại sao chúng ta không bổ
sung những bước đi của Ngài Fishell bằng kiểu của Stofenberg đối với Hitler? -
Xuân đặt câu hỏi, đôi môi thâm mỉm cười.

- Bất kì ai trong chúng ta
cũng có thể đóng được vai trò của Stofenberg.

Xuân nói tiếp rất tự tin.

Từ nãy giờ Đại
tá Đỗ Mậu chỉ nghe và suy nghĩ. Lần đầu, ông nói:

- Tất nhiên, mang một khối
thuốc nổ cực mạnh chừng một kí lô, đựng trong chiếc cặp với chiếc đồng hồ điều
khiển giờ nổ và đặt nó trong phòng họp có mặt Tổng thống Diệm, bất kì ai trong
chúng ta đều có thể làm được. Stofenberg giả đò đi gọi dây nói để lấy tài liệu
báo cáo với Hitler và chuồn thẳng; chiếc bàn đã cứu sống Hitler. Tôi hiểu chuyện
ngày 20-7-1944 tại tổng hành dinh Maduri, Nhưng, vây quanh Hitler là Keitel,
Goering, Himler... Còn vây quanh Tổng thống Diệm là ai? Tôi tán thành sự bổ
sung của tướng Xuân với điều kiện là quả bom phải đặt dưới gường ngủ của Tổng
thống Diệm, điều mà chắc chắn không ai làm nổi.

Giọng của Đỗ Mậu pha chút
châm biếm khiến tướng Xuân tái mặt.

- Vả lại, - Đỗ Mậu nói tiếp
- Vấn đề không phải là một âm mưu, một cuộc ám sát. Tôi nghiêng về khuyến cáo của
các bạn Mỹ.

Thế là đại tá Có được giao
việc tiếp xúc với tướng Big Minh và cuộc họp chấm dứt. Buổi thịt rừng gần như
không ai nâng li cầm đũa...

*

Nhu gọi Luân vào Dinh Gia
Long.

- Sau khi xin ý kiến Tổng
thống, tôi muốn nhờ anh một việc. Như anh biết, sau cái chết của Thích Quảng Đức,
tình hình tiếp tục xấu. Có thể, vấn đề Phật giáo ở Việt Nam Cộng hòa sẽ bị lợi
dụng để “quốc tế hóa.” Nước láng giềng của chúng ta là Cambốt, một nước theo đạo
Phật. Ở Việt Nam Cộng hòa, có gần ba trăm nghìn
người Cambốt, tất cả đều là tín đồ Phật giáo phái Thereveađa, chịu hệ thống
lãnh đạo của các vua sãi ở Nam Vang. Hiện nay, chống lại sự phá hoại của các
nhà sư phải bằng chính những người theo đạo Phật. Chúng ta có được một số sư
sãi và tín đồ di cư thuộc phái Tăng già Bắc Việt, một số thuộc phái Cổ Sơn Môn ở
Nam Việt, cần tranh thủ thêm phái Therevađa. Anh nên đi Nam Vang một chuyến.
Nhiệm vụ của anh là gặp Sihanouk. Sở dĩ Tổng thống và tôi nghĩ đến anh trong sứ
mạng này là vì chúng tôi biết anh và Sihanouk từng học chung ở Trường
Chasseloup Laubat, cùng lớp thậm chí cùng phòng interne(1). Anh nghĩ sao?

(1) Nội trú (nói tắt).

Luân hơi sửng sốt trước đề
nghị của Nhu. Làm thế nào mà Luân có thể thuyết phục nổi các vua sãi ở Nam
Vang, còn với Sihanouk, đúng anh và ông ta là bạn học khá thân, nhưng tình đồng
môn chắc chắn chẳng nghĩa lí gì trước sự chia rẽ chính trị không còn thể cứu
vãn giữa Nam Việt và Cambốt. Hay là Nhu một lần nữa muốn anh làm con thoi nối với
đại sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đại sứ Nguyễn Thương cùng học Đại học Hà
Nội với anh. Phòng thông tin của Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở Nam Vang hình
như do bạn của anh, Nguyễn Văn Hiếu phụ trách.

- Tôi sẵn sàng chấp hành mọi
chỉ thị của Tổng thống và của anh. Song, tôi chưa hiểu tôi sẽ đến Nam Vang với
tư cách nào và bằng cách nào trong khi ngoại giao của hai nước đã gián đoạn sau
vụ nổ bom ở Hoàng cung. Ý kiến của anh quá đột ngột đối với tôi, liệu rằng tôi
có thể tác động được gì các vị lãnh đạo tối cao của Phật giáo ở Cambốt và với
thái tử Sihanouk.

- Gần đây bằng con đường
không chính thức, Chính phủ hoàng gia Cambốt muốn có một cuộc tiếp xúc giữa họ
và chúng ta. Tôi chưa rõ họ định tiếp xúc vì vấn đề gì, có thể là vấn đề biên
giới. Cũng có thể là một cớ để họ đánh lạc hướng chú ý của chúng ta. Có lẽ anh
biết Cộng sản bắt đầu sử dụng một phần biên giới Cambốt làm bàn đạp luyện quân,
đặt cơ sở hậu cần nhất là rút lương thực từ nội địa Cambốt. Tôi cử
một đoàn đại biểu Quốc hội lên Nam Vang, đi bán chính thức do ông Hà Như Chi cầm
đầu. Anh sẽ tháp tùng phái đoàn đó, không mang danh nghĩa gì cả vì anh không có
chân trong Quốc hội. Đại khái, anh giữ chân cố vấn của phái đoàn. Đến Nam Vang,
anh cứ tùy cơ ứng biến. Ông Ngô Trọng Hiếu sẽ giới thiệu với anh một số địa chỉ
Việt kiều có thể làm “đầu cầu” giúp anh. Hoặc tự anh nảy
ra sáng kiến tại chỗ. Trong phái đoàn Quốc hội có một vài tín đồ của đạo Phật,
họ sẽ gặp các vị lãnh đạo tinh thần của đạo Phật ở Nam Vang và dĩ nhiên anh chỉ
đạo họ, có thể cùng đi với họ, nếu tiện, có thể không cần... Cách thức tiến
hành cụ thể, văn phòng Quốc hội sẽ bố trí hoặc phái đoàn đi đường bộ, hoặc đáp
máy bay.

... Luân suy nghĩ rất nhiều
về chuyến “công du” khá đặc biệt này. Có thể nào nhân đây mà liên hệ với A.07?
Tình hình Nam Việt Nam chuyển động vùn vụt, anh cần được chỉ đạo cụ thể. Không
rõ vì sao cấp trên không liên lạc với anh? Nhưng, nguyên tắc bí mật lại dằn vặt
anh. Riêng chuyến đi theo ủy thác của Nhu, cũng cần đánh tiếng với Mỹ như thế
nào cho hợp lí. Anh mà đóng vai cố vấn của một phái đoàn Quốc hội Nam Việt, thì
chỉ có những tên ngốc mới không đặt dấu hỏi và không theo dõi. Số lượng CIA ở
Nam Vang cũng không kém ở Sài Gòn. Phòng nhì Pháp thì nhất định nhung
nhúc rồi.

Như vô tình, trong mộc cuộc
điện đàm với James Casey, Luân cho biết anh phải vắng mặt ở Sài Gòn vài ngày.

- Tôi đã thấy danh sách của
đại tá trong phái đoàn Quốc hội Việt Nam Cộng hòa bán chính thức “đi thăm thiện
chí” Vương quốc Cambốt! - James Casey kêu lên - Hẳn là một thứ “mission
impossible”(2). Chắc ông Nhu muốn nhờ đại tá đi “giải độc” vụ Phật giáo.

(2) Nhiệm vụ bất khả
thi.

- Đúng vậy! - Luân cũng cười
trong máy nói - Chỉ có điều không biết tôi có thể giải độc nổi hay không.

- Chúc đại tá may mắn.

Phái đoàn đáp máy bay. Một
chuyến bay dân dụng đặc biệt được thỏa thuận giữa hai nước và hai nước cũng thỏa
thuận không đưa tin này lên các phương tiện truyền thông đại chúng. Do đó, tại
Tân Sơn Nhất không có lễ tiễn và tại Pochentong cũng không có lễ đón.

Tại Tân Sơn Nhất, Luân gặp
một rắc rối nhỏ - đúng hơn, bị vây vào một rắc rối mà anh không lường. Khi xe
đưa Luân vào sân bay - Dung không tiễn anh theo quy định chung - thì anh thấy một
đám cảnh sát dã chiến bao quanh một phụ nữ người Âu, như sắp ra tay đàn áp.
Chính là Helen Fanfani, săn tin từ đâu, chực sẵn ngay cửa phòng khách quốc tế
sân bay, chờ chụp một số pô ảnh và phỏng vấn trưởng đoàn Hà Như Chi. Cảnh sát
dã chiến cấm cô ta và cô ta phản đối.

- Đại tá Luân! Ông xem này...
Họ định hành hung với tôi, toan đập vỡ máy ảnh và máy ghi âm của tôi... -
Fanfani kêu to.

- Thế nhưng tại sao cô đến
đây? Đến đây rất không hợp thời và không cần thiết... - Luân vẹt đám cảnh sát,
bảo Fanfani.

- Xin lỗi đại tá... Nghề
nghiệp của tôi... - Fanfani vừa nói, vừa mở máy ghi âm đeo trên vai...

Luân nhanh nhẹn thò tay tắt
máy:

- Tôi cũng xin lỗi cô... Không
có điều gì cần thu thanh cả và xin cô chớ gương máy ảnh lên... Trong trường hợp
đó, cảnh sát dã chiến sẽ tịch thu máy của cô...

- Thế, tôi không cần cầu cứu
ông nữa! - Fanfani giẫy nẩy - Tôi nhờ ông Hà Như Chi vậy...

Hà Như Chi còn nhanh hơn
Luân, hấp tấp lọt vào phòng khách.

- Tôi thất bại! - Fanfani
thểu não... - Lẽ nào ông không thấy cái lợi khi báo Mỹ đưa tin ông đi Phnôm
Pênh?