Trở lại Thiên Đường - Chương 04 - Phần 2

John nhìn tấm kính trước xe nói: - Thị trấn đang đóng cửa với giới báo chí.

- Tôi không phải là người của giới báo chí. Tôi là bạn của Poppy.

John nhìn thẳng Griffin nói: - Như thế còn tệ hơn. Anh có biết Lake Henry bảo vệ che chở cho Poppy như thế nào không? Cô ấy là đặc biệt. Rất đặc biệt. Có thể cô ấy vui vẻ lạc quan nhưng cuộc sống của cô ấy không hoàn toàn như thế đâu.

- Tôi biết chuyện đó. - Griffin nói. Anh biết những chuyện về Poppy mà chưa chắc John biết được. Đó là công việc anh tự mình tìm hiểu chứ không nhờ Ralph Hasking hay ai khác.

John đề máy xe, rồ máy rồi cho nổ nhẹ lại, rồ máy một lần nữa rồi nhìn Griffin nói: - Anh có biết Charles Owens, chủ nhân của cửa hàng tổng hợp không? Người anh ông ấy đã rời đây cả chục năm rồi, nhưng còn để lại một ngôi nhà cần được kiểm tra hằng năm về mùa đông. Nếu anh muốn thu được cảm tình của Charlie - và cảm tình của Charlie có thể giúp anh tiến sâu vào thị trấn này - anh có thể đến đấy ở và làm công việc kiểm tra ngôi nhà ấy thay ông ta. - Nhưng rồi giọng John có vẻ dè dặt hơn: - Không, có lẽ anh không làm được đâu.

- Tại sao không được?

- Sẽ phải sửa sang lại nhiều. Ngôi nhà hầu như trống trơn chẳng có gì cả. sống ngay giữa mùa đông? Cực nhọc lắm!

- Tôi không ngại vất vả, - Griffin nói. Anh từng đi bộ phần lớn con đường mòn Appalachia, và những tiện nghi thiếu thốn của những vùng quê nghèo khó không xa lạ gì đối với anh. Anh chẳng từng mang những đôi giày cách nhiệt dùng để lội bộ đường trường rồi là gì? Hơn nữa, ngồi thảnh thơi trong một ngôi nhà vẫn tốt hơn nhiều so với ngồi trong một căn phòng thuê. Anh sẽ có thể bố trí một nơi để viết lách, viết tập tiểu sử nọ. - Nó có mái không?

- Có.

- Sưởi ấm?

- Có một lò sưởi đun củi.

- Thế vấn đề của nó là gì?

- Gió - Tuyết - Lối vào - Little Bear là một hòn đảo, độ một phần tư dặm cách bờ. - Griffin chưa bao giờ sống trên một hòn đảo - Làm thế nào đến đó trong mùa đông?

- Đi bộ hoặc lái xe. Nếu anh có một chiếc xe tải thì tiện hơn. Còn chiếc Porsche? - John từng thèm muốn khi nhìn thấy nó lần cuối Griffin lái nó đến thị trấn. - Chắc không tiện.

Anh ta muốn đóng cửa xe lại, nhưng Griffin vẫn giữ chặt lấy, nói: - Tôi sẽ thuê một chiếc xe tải vì cũng đã dự tính làm thế khi đến đây.

John chợt vui hẳn lên. - Tôi có ý kiến này. Người em họ của tôi là Buck đang tìm người bán chiếc xe của anh ta. Cô vợ anh ta mới sinh con. Anh có thể trả cho anh ta giá gấp đôi giá anh ta đòi, là anh đã chiếm được ngay cảm tình của phân nửa thị trấn rồi.

- Được rồi, - Griffin quyết định. - Tôi phải đi đâu để lấy nó?

Người anh em họ của John, Buck, sống ở khu Ridge. Để tránh sự tò mò của người dân ở đây khi nhìn thấy chiếc Porsche, John đã đề nghị Griffin đem cất nó trên một chiếc thuyền nằm trong khu neo các du thuyền địa phương trong suốt thời gian anh ta ở đây. Griffin sẽ đi với John đến khu Ridge trên chiếc Tahoe của anh ta.

Khi xe của Poppy chạy ngang qua chiếc Tahoe của John ở trung tâm thị trấn, nàng còn đang bận tâm nghĩ đến những chuyện khác nên không để ý nhìn kỹ, chỉ đưa tay vẫy khi nghe tiếng còi xe anh ta và không hề nghĩ là còn có một người khác nữa đang ngồi trong xe, và cũng không dừng xe lại. Micah đã gọi điện thoại yêu cầu nàng đi đón mấy đứa nhỏ từ trường về nhà, và nàng đã đi ngay sau khi được Annie Johnson đến tạm thay nghe điện thoại.

Giờ đây khi mặt trời đang lặn xuống đằng sau đám lá xanh, nàng đã nhấn ga cho chiếc Blazer chạy nhanh hơn trên con đường bắt đầu đóng băng, sự tập trung chú ý vào con đường cũng đã giảm nhẹ phần nào áp lực của sự bất mãn và nỗi kinh hoàng của nàng khi nghe tin Heather đã bị tống giam thật sự. Nàng không biết Heather từ đâu đến, chỉ biết cô ấy là người tốt. Poppy thích nghĩ mình cũng là một người tốt, nhưng nàng có một quá khứ. Vì thế có lẽ Heather cũng có một quá khứ.

Đến nơi, nàng mang găng tay vào, ra khỏi xe với chiếc xe lăn, rồi cố tìm một nơi trên lề đường mà mấy đứa nhỏ có thể thấy rõ mình. Poppy không phải là người duy nhất đến đón học sinh, nhưng lại là người duy nhất đã phơi người trong cái lạnh giá của thời tiết. Các bậc phụ huynh khác đều ngồi ấm cúng thoải mái trong xe, trong khi những chiếc xe buýt thì đậu sắp hàng trên lối vào trường.

Poppy biết rõ từng người trong đám phụ huynh ấy, nhưng nàng không nhìn về hướng họ, sợ làm thế nàng buộc phải trò chuyện với họ về Heather. Vì thế nàng chỉ thu mình trong chiếc áo dạ trùm đầu, quấn chặt chiếc khăn len quanh cổ, hai tay đeo găng thọc vào túi áo, cố giữ cho người khỏi run vì lạnh.

Một lát sau chuông nhà trường reo. Sau đó đám học sinh trong những chiếc áo dạ trùm đầu đủ màu sắc từ các cánh cửa tràn ra đi về dãy xe đang đậu.

Trước kia Heather vẫn lái xe đến đậu sắp hàng đón mấy đứa nhỏ! Dù chúng có thể dùng xe buýt để về nhà, lúc nào Heather cũng muốn tự mình lái xe đến đón con. Giờ thì Poppy phải làm công việc này. Nàng chợt nhận ra là vì Heather bị giam giữ trong ba mươi ngày, có lẽ đây không phải là lần duy nhất nàng đưa đón hai con bé. Chừng nào mà cơn ác mộng chưa chấm dứt, nàng còn phải làm công việc này. Heather là bạn nàng, nhưng nàng thấy trách nhiệm của mình còn vượt xa hơn thế nữa.

Còn đang băn khoăn với những ý nghĩ trên, nàng thấy Missy và Star xuất hiện và đang định chạy ngay đến những chiếc xe phụ huynh khác đang đậu; nhưng chợt nhìn thấy nàng, chúng đã dừng lại ngay, vẻ háo hức trên mặt hai đứa bé chợt biến mất. Poppy chứ không phải là Heather.

Missy bắt đầu đi lại phía nàng. Con bé Star thì chậm hơn. Trong lúc chúng tiến đến gần, Poppy nhận ra rằng không những mình không phải là Heather, mà cũng không phải là người quyến thuộc, không phải là bác sĩ trị liệu, không phải là luật sư. Nàng không biết phải giải thích thế nào sự việc đã xảy ra. Micah có thể biết, nhưng anh ấy không có ở đây. Vậy chỉ còn nàng, mà nàng thì lại hoàn toàn không biết phải nói sao. Câu hỏi bắt đầu ngay khi con bé Missy đến cạnh nàng.

- Mẹ Heather đâu hả cô?

Poppy dùng một tay khép chặt chiếc áo trùm đầu không gài của Missy lại, tay kia đưa về phía con Star và nói: - Mẹ con ở West Eames.

- Tại sao mẹ con lại ở đấy? - Missy hỏi.

Nói cho chúng biết bao nhiêu đây? - Mẹ con có mấy việc phải làm ở đấy - Poppy cười để tác động câu hỏi trên nhẹ bớt, và ra dấu cho con bé Star đến gần hơn - nên cô đến đây đón các con.

Nhưng Missy vẫn không hài lòng với câu trả lời trên - Mẹ đã bảo sẽ trở về mà!

- Mẹ con nói lúc nào?

- Khi mẹ rời nhà sáng nay. Nhưng trông mẹ có vẻ không vui. Trông như mẹ không muốn đi đâu hết.

- Đôi khi chúng ta phải làm những chuyện mà chúng ta không muốn làm. Như không nói thật với con trẻ, Poppy thầm nghĩ. Đúng là mình không thành thạo trong chuyện này. Nàng lại cố nở một nụ cười, và con bé Star đã bước lại gần hơn. - Cô đang tính là chúng ta về nhà làm kẹo táo ăn.

- Nhà ai? - Con bé Missy khôn ngoan hỏi.

- Nhà các con, - Poppy đáp. Nhà nàng có thể tiện lợi cho việc làm bếp hơn, vì mọi đồ đạc, dụng cụ cần thiết đều được sắp xếp vừa tầm tay khi nàng ngồi trong xe lăn, nhưng nàng không muốn đưa chúng về đấy với dãy nút điện thoại bật chớp và Annie nói về sự cố trong ngày với những người dân địa phương, hay đánh lạc sự tò mò của đám nhà báo.

- Bố cháu có ở nhà không? - Missy hỏi.

Poppy làm ra vẻ thản nhiên đáp: - Có lẽ chưa về.

- Bố phải về nhà rồi chứ! Bố lẽ ra phải đi xem xét rừng cây.

Poppy đưa tay kéo con bé Star lại phía xe lăn khi nó tiến đến gần: - Kiểm soát cây để làm gì? - Nàng hỏi.

Con bé thở dài đáp: - Chặt khúc mấy cây bị đổ gãy trong rừng cây làm đường. Liệu mẹ Heather có về kịp ăn tối không?

- Cô nghĩ có lẽ là không.

- Khi nào thì mẹ cháu về?

Mười ngày? Hai mươi ngày? Ba mươi ngày? Làm sao cắt nghĩa cho một đứa bé biết chuyện này? Bất lực trước ý nghĩ đó, Poppy bắt đầu run sợ. - Sớm thôi, cô hy vọng thế. Nhưng này Missy, cô thấy lạnh lắm rồi. Độ một phút nữa là các ngón chân cô lạnh tê cóng, và mấy bánh xe lăn sẽ đóng băng. Chúng ta vào trong xe đi. Star, con muốn lên ngồi xe lăn với cô không?

Hai mắt buồn rầu, con bé lắc đầu.

- Vậy con ra sau đẩy giúp chị một tay. - Nói xong nàng cầm bánh xe bắt đầu quay. Khi cả ba vào bên trong chiếc Blazer, nàng cho máy sưởi chạy tối đa mà vẫn chưa đủ ấm. Như thế đủ biết cái lạnh bên ngoài lúc ấy như thế nào.

Nhưng lạnh không phải là thứ Poppy lo nhất khi cho xe chuyển bánh. Các câu hỏi của Missy mới là cái khó cho nàng.

- Nếu sáng mai mẹ vẫn không về thì sao?

- Thì bố cháu sẽ giúp các cháu sửa soạn đi học như sáng nay vậy.

- Nếu bố không thể làm được thì sao? Đôi khi bố rời nhà trước mẹ. Nếu bọn con không có điểm tâm như sáng nay thì sao?

Poppy cho xe dừng lại, bật đèn tín hiệu rẽ trái, rồi chờ cho chiếc xe tải phía trước từ con đường dẫn đến trường rẽ sang con đường chạy qua trung tâm thị trấn.

- Các con sẽ ăn điểm tâm ở nhà cô.

- Cô sẽ làm điểm tâm cho bọn con ngày mai chứ?

Poppy nhẹ nhàng đáp: - Cô sẽ làm cho các con bất cứ ngày nào. - Xe Poppy đã lên đến đầu hàng, nhưng còn phải chờ chiếc xe tải cọc cạch của Buck Kipling đi ngang qua. Poppy vừa cho xe rẽ trái thì một bàn tay nhỏ đã sờ nhẹ lên vai nàng, và giọng nói thật nhỏ của con bé Star: - Mẹ con đi xa hả cô?

- Không đâu bé con, chỉ đi đến West Eames thôi.

- Mẹ đi luôn hả cô?

Đeo dây nịt an toàn vào! Poppy định lên tiếng bảo thế, nhưng thấy con bé Star có vẻ quá sợ hãi, nàng đã kịp dừng lại, chỉ cho xe chạy thật chậm, nghiêng đầu chạm bàn tay con bé nói: - Mẹ con không đi luôn đâu.

- Nếu mẹ không bao giờ trở lại nữa thì sao?

- Mẹ con sẽ trở lại. Mẹ yêu con.

Một phút sau con bé mới lên tiếng lại, và giọng nó nghe như một tiếng thở dài đầy đau khổ: - Con muốn mẹ về.

Trong đời nàng, chưa bao giờ Poppy thấy mình bất lực như thế. - Cô biết con muốn có mẹ mà. Cô biết.

Xe của Griffin chạy vụt qua chiếc Blazer màu đỏ mới nhận ra người ngồi sau tay lái. Như vậy cũng tốt vì anh chưa sẵn sàng đối diện với Poppy. Anh còn phải ghé lại cửa hàng của Charlie, nhận các chỉ dẫn và mua nhu yếu phẩm, sau đó còn phải lái quanh đến tận cuối vùng hồ. Tính ra anh còn không đầy hai tiếng đồng hồ nữa để đến Little Bear, mở cửa ngôi nhà, đốt lò sưởi, bật điện trước khi đêm xuống. Không có thì giờ để làm chuyện gì khác.

Cửa hàng bách hóa chật cứng người từ West Eames trở về và những người muốn nghe kể lại những gì họ nhìn thấy ở đấy. Một số đứng trò chuyện bên hông cửa hàng trong khi một số khác đi qua tiệm cà phê. Số người đông nhất tập hợp quanh lò sưởi đốt bằng củi.

Nhờ đông người nên không ai để ý đến Griffin. Anh đã đến gặp Charlie ở quầy thu tiền và giải thích ý muốn của mình. - Charlie đồng ý.

- Ngôi nhà có chìa khóa không? - Griffin hỏi.

Charlie lắc đầu: - Không. Cửa không bao giờ khóa.

- Có điều gì tôi cần biết không?

Suy nghĩ một lúc, Charlie mới lên tiếng đáp: - Củi chất đống ở cổng vào. Nếu anh cần lấy nước từ đá đóng băng ở các ống nước, thì hãy dùng cây dao cắt nước đá bên trong cửa. Điện thì chỉ cần bật công tắc.

Tất cả nghe có vẻ không có gì rắc rối. Griffin dành số thì giờ còn lại mua cà phê, bánh mì, trứng, pho mát, thịt và xúp đóng hộp. Sau cùng anh lấy thêm sáu thùng bia và nhiều ga-lông nước đóng chai. Thấy mình cũng cần thứ gì để nhóm lửa, anh bỏ thêm vào ba xắc đầy nhiều tờ báo vừa mua ở đấy. Sau đó anh trở ra đến chiếc xe tải của Buck, chất cả lên băng trước, sợ bỏ ở thùng sau xe thực phẩm sẽ bị đông lại trong khi nhiệt độ bên ngoài cứ hạ dần xuống mãi. Phải mất ba lần đề máy xe mới chịu nổ. Và rồi anh lên đường.

Theo chỉ dẫn của John, Griffin cho xe chạy ra khỏi thị trấn theo con đường chạy vòng quanh hồ, qua những con đường có những cái tên rất lạ dẫn đến những vịnh nhỏ nằm dọc theo bờ hồ. Lối đi gần nhất từ thị trấn đến Little Bear nằm ở phía cuối hồ qua những lối ngoằn ngoèo, lúc thì tách xa hồ rồi quanh lại bờ khiến cho đoạn đường lẽ ra chỉ mất năm phút lái xe, trở thành ba mươi phút. Điều làm anh yên tâm là chiếc xe tải của Buck vẫn chạy tốt và lời hứa của Charlie bảo anh có thể dùng ngôi nhà bao lâu cũng được, chưa kể đến cảm tình mà Charlie có thể dành cho anh một khi ông ta suy nghĩ về chuyện này.

Con lộ dẫn đến Little Bear được chỉ dẫn bằng những bảng hiệu tương tự như những con đường khác của thị trấn. - Cứ lái xe thẳng xuống - John đã dặn anh như thế.

- Rồi lái quay xuống hồ.

- Ngay xuống hồ à? - Griffin đã hỏi lại với vẻ hoài nghi. - Được không? - Được chứ! - John đáp. - Hôm qua băng có tan đi một ít nhưng hôm nay đã đóng trở lại rồi. Lúc nào cũng có những chiếc xe tải chạy ra các nhà lưu động trên băng. Chưa có chiếc xe nào bị rơi trong năm nay.

Thấy cần tự thuyết phục là mình đang chuẩn bị sẵn sàng cho một thách thức, Griffin gạt mối lo này sang một bên, nhất là khi thấy con đường đến Little Bear đã được dọn sạch tuyết. Anh cho xe rẽ vào, bật đèn pha khi con đường chạy xuyên qua một rừng cây tối tăm.

Không có gì đáng lo, anh thầm bảo khi nhìn đồng hồ tay. Anh còn được hơn một tiếng đồng hồ nữa để ra đến đấy và ổn định chỗ ở. Dễ như trò chơi. Khi con đường sáng hẳn lên sau khi chạy ra khỏi rừng cây rậm, Griffin đã mỉm cười. Nhưng chỉ vài giây sau nụ cười trên đã biến mất khi khúc đường được dọn sạch tuyết đến đây là hết, và chiếc xe tải bị lún trong tuyết ngay. Griffin cho số lùi, rồi gài số một ấn mạnh chân ga cho nó chạy tới. Được một khúc nữa nó lại bị lún. Anh lại bỏ số lùi, nhưng lần này không hiệu quả. Dù bỏ số chạy tới hay cho lùi lại, chiếc xe vẫn bất động. Cả bốn bánh xe bị ngập dưới tuyết gần hai tấc. Nhìn phía trước, đoạn đường còn độ ba mét tuyết phủ nữa là đến hồ. Mặt hồ thấp hơn mặt đường độ năm phân và cũng phủ đầy tuyết như thế.

Không muốn phí thì giờ vì bóng của anh đã đổ dài lên mặt hồ, Griffin nhìn kỹ hòn đảo Little Bear. Một phần tư dặm cách bờ, John đã bảo thế. Có vẻ cũng không xa lắm. Với khoảng cách đó anh cho là mình có thể đi bộ được. Anh không mang găng tay, nhưng trước đây anh cũng từng trải qua kinh nghiệm tay bị lạnh cóng rồi, cũng chẳng nguy hiểm gì lắm.

Thế là Griffin chụp chiếc mũ Yankee cũ lên đầu rồi leo ra khỏi xe, choàng túi đựng đồ ngủ lên vai, vai kia mang chiếc máy vi tính để bàn và cặp tài liệu. Hai tay xách hai túi đồ mua ở cửa hàng tổng hợp, Griffin bắt đầu cất bước.

Lớp băng bên dưới, may thay rất vững, đúng như lời John nói. Không có dấu hiệu cho thấy nó bị nứt nẻ hay chuyển động. Nhưng hai tay anh đã tê cóng không còn cảm giác, quần jeans và giày bốt cũng bám đầy tuyết. Lội trong lớp tuyết với đống đồ đạc lỉnh kỉnh trên người chẳng mấy chốc anh thấy mồ hôi toát ra, nên vẫn không biết là nhiệt độ vẫn đang xuống thấp mãi. Khoảng cách mà thoạt đầu anh cho là không mấy xa, giờ đây như dài vô tận. Khi đôi chân với giày và chiếc quần jeans bám đầy tuyết phải nhấc từng bước lên thật cao, và hai tay càng lúc càng lạnh cóng.

Nhưng Griffin nhất quyết bắt hai mắt nhìn thẳng những cây thông phía trước mặt và ép đôi chân phải tiếp tục chuyển động. Anh chỉ nhìn thấy cái chòi nhỏ khi đến thật gần, và sau khi đi vòng hòn đảo, anh thấy vô cùng sung sướng khi đến gần nó. Đó là một ngôi nhà làm bằng gỗ trông cũng xinh xắn đáng yêu trong cái vẻ quê mùa mộc mạc của nó, nằm trên khoảng đất trống duy nhất của hòn đảo rộng không đầy một mẫu tây.

Griffin ì ạch lê bước đến cánh cửa trước. Một đống củi nằm ngay bên trái cửa, dưới một mái hiên không ngăn nổi những đợt tuyết từ bên ngoài tạt vào. Anh phải đặt cả hai gói đồ xuống, dùng cả hai tay và tất cả sức lực mới mở được cánh cửa mà băng giá đã bám chặt lấy khung. Nhấc hai xách đồ lên, Griffin đưa cả vào bên trong rồi đóng cửa lại.

Trước mặt anh bây giờ là bóng tối, cái lạnh và mùi ẩm mốc.

Điện, Charlie đã bảo chỉ cần bật công tắc là có, vấn đề là làm sao tìm được cái công tắc trong bóng tối như thế này.

Đặt tất cả đồ đạc xuống nền nhà, anh vẹt tấm màn cửa sổ để cho một luồng ánh sáng yếu ớt từ bên ngoài lọt vào. Nhìn thấy một núi công tắc trên tường, anh bật lên. Không thấy gì cả. Tìm thêm được một cái khác rồi một cái khác nữa, nhưng kết quả vẫn như trước. Như vậy chắc có một cầu dao chính cho dòng điện ở đây. Griffin định gọi cho Charlie hỏi, nhưng khi rút chiếc điện thoại di động trong túi áo ra, anh thấy đây là vùng không phủ sóng. Điều này khiến anh đâm ra lo lắng. Không điện thoại anh không thể chuyện trò với bạn bè, không vào được Email hay nối mạng Internet. Không điện thoại, anh không làm việc được trừ phi phải dựng lên một cây trụ ăng ten. Chuyện này anh có thể tự làm lấy, nhưng hiện giờ thì không, đêm nay thì không, trong khi bóng đêm đang ập xuống quá nhanh. Griffin đưa mắt nhìn quanh. Nơi anh đang đứng là một phòng khách và bếp. Lục các tủ đựng đồ trong bếp anh tìm được mấy cây nến, một cây đèn bão và một hộp diêm quẹt. Anh liền bật diêm thắp cây đèn, nhìn kỹ lò sưởi thấy nó trống không và lạnh lẽo. Griffin hà hơi vào lòng bàn tay rồi chà xát với nhau để chúng bớt tê cóng, trong khi bước ra bên ngoài phủi lớp tuyết đóng trên đống củi, cố tách từng cây ra khỏi lớp băng đang dán chặt chúng với nhau, đập mạnh từng cây một rồi khệ nệ ôm vào lò sưởi, dùng giấy báo cuộn lại làm mồi.

Ngọn lửa bùng lên cháy cuộn giấy, nhưng một giây sau lại tắt ngúm. Những thanh củi không bắt lửa được.

Vì không vận động nhiều như trước đó, Griffin cảm thấy càng lúc càng lạnh thêm. Anh lẩm bẩm chửi thề, quay người lại tìm được một cái rìu bên trong cửa, chẻ những thanh củi nhỏ vụn ra làm củi mồi. Lần này anh đã nín thở nhìn cuộn giấy bắt lửa cháy, rồi đến bó củi mồi. Khi thanh củi lớn đầu tiên tỏa khói rồi bật thành ngọn lửa, Griffin thở dài nhẹ nhõm. Anh bước ngay lại túi đồ ngủ lấy một chiếc áo len dài tay quấn quanh đầu để che đôi tai, rút ra một đôi bít tất đút cả hai tay vào, rồi bước ra bầu trời sâm sẫm tối lấy số đồ đạc còn lại trên xe.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3

Sách giảm giá tới 50%: Xem ngay