Nguyên soái bất đắc dĩ - Chương 01 - 02

Chương 1: Chết đi thời hiện đại, sống lại thời loạn thế

Tôi đang mơ màng ngủ, bị đánh thức bởi tiếng nước chảy. Tầng trên lại bị hỏng đường ống nước rồi? Không đúng, tôi đã mua nhà mới, chuyển khỏi cái chung cư cũ nát kia rồi mà? Đoán có lẽ bản thân nghe nhầm, quyết định nhắm mắt ngủ tiếp. Trời sáng còn phải đến công ty, nhất định phải ngủ cho đủ giấc.

Song dù cố gắng thế nào tôi cũng không ngủ lại được. Tôi bật dậy chửi thề:

“Con mẹ nó chứ, sao lại lạnh thế, điều hòa hỏng rồi chắc?”.


Định tìm chăn đắp, mới phát hiện đừng nói là chăn, đến giường cũng… không thấy đâu cả. Tôi không có tiền sử bị mộng du, chắc chắn không có chuyện tự mình bò ra khỏi nhà để ra đường nằm ngủ. Bị bắt cóc? Chắc không đâu, tôi còn chưa có giàu đến mức đấy. Cảm giác trên người có chút kì quái, sờ tay lên ngực liền điếng người. Ai quấn sắt lên người lúc tôi đang ngủ vậy? Sờ loạn một hồi hình như là một bộ áo giáp bằng kim loại, không phải chứ?!


A di đà phật, nhất định là đang nằm mơ. Tôi tự thôi miên chính mình, nhắm mắt, đếm đến ba, lại mở mắt ra. Đưa tay sờ lại, áo giáp vẫn còn, tay lại còn dính phải thứ gì ươn ướt, đưa lên mũi ngửi có vị tanh giống như… máu người. Tôi hít thở sâu để ổn định tinh thần. Hít một hơi vào, lồng ngực liền cảm thấy đau nhói. Tiêu rồi, không phải đang mơ. Đau bỏ mẹ thế này, chắc chắn là thật rồi.

Tôi tập trung thử phân tích tình huống một chút. Tối qua lúc đang ngủ cảm thấy xung quanh rung lắc dữ dội, lúc đó cứ cho là bản thân tưởng tượng. Nhớ lại thì hôm qua ở công ty một đồng nghiệp bảo tin tức nói sắp có động đất. Lúc ấy tôi còn cười ha hả, trêu đồng nghiệp hoa mắt nên đọc nhầm rồi. Sống ba mươi năm trên đời, chưa nghe nói thành phố này có động đất bao giờ.

Nếu đồng nghiệp kia không hoa mắt… vậy tối qua đúng là có động đất thật rồi.


Được rồi, cứ cho là có đi. Sau đó thì sao? Thế quái nào tôi lại mặc cả cân sắt trên người, trên ngực bị thương. Cũng không biết đây là nơi nào. Tôi căng mắt ra nhìn nhưng trời còn chưa sáng, chẳng nhìn thấy gì cả. Lại vểnh tai nghe ngóng, có tiếng nước chảy. Tôi cố gắng đứng dậy dò dẫm đi về hướng có âm thanh róc rách kia. Không nhìn thấy gì nên tôi không dám đi nhanh, phải mất một lúc, ước chừng mười phút đồng hồ, cuối cùng cũng biết được tiếng động mình nghe thấy là gì. Một con suối nhỏ.

Lúc nãy có vẻ tôi ở trong rừng, ánh trăng không chiếu tới được mặt đất nên mọi thứ đều chìm trong bóng tối. Hiện tại ánh sáng phản chiếu từ mặt nước, tôi nhìn xung quanh, hoàn toàn không biết mình ở đâu. Muốn kiểm tra vết thương trên người, tôi tiến đến gần dòng nước một chút. Nhìn thấy trong nước kia là một gương mặt hoàn toàn xa lạ.


WTF? Tôi nhìn lên trời. Lại nhìn xuống mặt nước một lần nữa. Cảm thấy đầu ong ong. Đầu? Trên đầu còn đang đội một cái mũ sắt. Hèn gì cứ thấy nằng nặng. Tôi đưa tay gỡ cái “nón bảo hiểm quê một cục” ở trên xuống, lại soi vào trong nước.


Trong nước là gương mặt một người đàn ông trẻ, đẹp trai hơn tôi, tóc trên đỉnh đầu búi thành một cục. Tôi nháy nháy mắt, gương mặt trong nước cũng nháy nháy mắt. Tôi nghiêng đầu, “tên kia” cũng nghiêng đầu.

“Chắc mình bị điên rồi”. Tôi lẩm bẩm.


Tôi ngồi phịch xuống đất, cố gắng bình tĩnh lại. Thử làm phép nhân hai chữ số. Nghe nói người điên thần trí không minh mẫn, hẳn không tính toán đúng được. Tôi nhân đi nhân lại mấy phép toán, hoàn toàn không có vấn đề. Lại vắt óc nhớ lại số điện thoại trong danh bạ. Nhớ được hơn mười dãy số điện thoại. Sau khi tự kiểm tra đầu óc mình một lượt, sau khoảng một giờ đồng hồ, tôi đi đến kết luận: tôi không bị điên!


Lúc này trời đã sáng hơn một chút. Tôi quyết định rời khỏi chỗ này trước rồi tính. Tôi quay lại chỗ lúc nãy “nằm ngủ”, lại mò mẫm đi tìm đường cái. Hình như đây là bìa rừng, vậy cứ đi theo hướng cây mọc thấp dần. Lại đi độ hơn một giờ, cuối cùng cũng nhìn thấy đường mòn. Nhìn trái nhìn phải, đây là nơi quỷ quái gì vậy? Không thấy nhà, không thấy bất kì công trình gì, một bóng người cũng không nốt. Ngực lại đau, hình như do vận động nên máu lại bắt đầu chảy. Lúc nãy quá hoảng hốt nên quên mất kiểm tra kĩ càng xem mình bị trúng đạn hay bị cái gì đâm vào. Cũng tại cái áo giáp trên người quá nặng, cơ thể lại đang mất sức, không thể cởi ra xem rút cục tôi bị cái quỷ gì.

Bỗng từ xa có âm thanh truyền đến. Lộc cộc lộc cộc. Nghe như tiếng vó ngựa chạm đất? Cũng phải thôi, nơi khỉ ho cò gáy này, bốn bánh muốn lết vào cũng không được. Tôi cười mỉa.


Chưa đến một phút, mấy con ngựa đã chạy tới. Đúng hơn là mấy con người cưỡi trên lưng mấy con ngựa. Một, hai, ba, bốn, năm, sáu… tôi liếc mắt đếm. Nếu bọn họ là người xấu, muốn cướp tiền cướp sắc gì đấy tôi muốn chạy cũng không thoát.


Không phải tôi tự kỷ, mà do gương mặt tôi đang tạm sở hữu hơi bị đẹp trai quá mức cho phép. Nếu cắt phăng mái tóc dài, khoác lên bộ cánh hợp mốt, hẳn là dư sức xuất hiện lên trang bìa tạp chí. Tôi còn chưa kịp tưởng tượng xa hơn, mấy người kia đã đồng loạt xuống ngựa. Chậc chậc, động tác đúng là như “mây bay nước chảy”. Tôi lùi lại, định bụng co giò chạy.

Còn chưa kịp trốn, mấy người đàn ông trước mặt đã đồng loạt… quỳ xuống. Chỉ có hai người dẫn đầu, sau khi xuống ngựa, lập tức chạy đến chỗ tôi.

Mấy người phía sau chắp tay, đồng thanh hô lớn:

“Thuộc hạ đến trễ, xin nguyên soái trách phạt”.

Nguyên soái? Tôi trợn mắt. Còn đang kinh ngạc thì một trong hai người trước mặt đã chộp hai tay lên vai tôi, gương mặt anh ta vừa vui mừng vừa lo lắng hỏi:

“Đại ca, cuối cùng cũng tìm được huynh rồi. Ngựa của huynh đâu, kiếm của huynh đâu?”. Anh ta nhìn xuống ngực tôi rồi thất kinh la lên: “Huynh trúng tên? Đã rút tên ra rồi? Đã băng bó chưa? Huynh không sao chứ? Có bị thương chỗ nào nữa không?”.

Anh ta, đúng hơn là cậu ta, tôi đoán chừng khoảng chưa đến hai mươi tuổi. Tôi nhìn người trước mắt cứ đóng rồi lại mở miệng, hỏi loạn lên, hết đại ca rồi lại gọi huynh, lại còn lắc vai tôi liên hồi. Tôi chóng cả mặt. Được, cậu ta tưởng mình cậu ta biết đặt câu hỏi chắc. Tôi tức giận cũng xổ lại một tràng:


“Mấy người là ai? Diễn viên à? Đang quay phim chắc? Bọn họ quỳ đủ chưa? Không mệt hả? Đây là chỗ chết tiệt nào? Tôi… là ai?”.

Xung quanh yên lặng như tờ. Bọn họ há hốc mồm nhìn tôi, tôi nhướn mày ngó lại bọn họ.

Một trong hai người đàn ông đang đứng, người nãy giờ chưa lên tiếng, mở miệng hỏi:

“Đại ca, huynh… mất trí nhớ?”.


Tôi còn đang phân vân không biết nên gật đầu bừa hay phủ nhận. Đột nhiên bóng người trước mặt chao đảo, sau đó hai mắt tối sầm. Trước khi ngất, tôi còn lẩm bẩm thêm một câu: “Mẹ nó, lo nói chuyện, chảy hết máu rồi”.


Lúc tỉnh dậy, phát hiện mình đang nằm trên giường. Nhìn xung quanh, vẫn là một nơi xa lạ chết tiệt. Kéo chăn ra, trước ngực đã được băng bó, áo giáp cũng được cởi bỏ rồi. Tôi còn đang định làm phép nhân thêm lần nữa, chưa kịp nhẩm tính, cửa đã bị mở ra. Hai người đàn ông lúc trước gặp tiến vào.


Người lớn tuổi hơn lên tiếng hỏi:

“Đại ca, huynh tỉnh rồi?”.


Tôi nhăn mặt. Lại gọi đại ca? Mấy người không phải xã hội đen đấy chứ? Thấy tôi chỉ nhăn mặt không đáp, người trẻ tuổi còn lại chảy nước mắt, khóc nói:

“Đại ca, huynh thật sự không nhớ gì ư? Đều trách đệ, nếu đệ kiên quyết đi theo đã không để đại ca bị thương đến mức mất đi trí nhớ”.


Tôi nhìn cậu ta ngẩn người. Rõ ràng là một người đàn ông cao lớn lại còn khóc. Tôi hít sâu một hơi, quyết định giải đáp thắc mắc trong lòng trước rồi phân tích mọi chuyện sau. Tôi hỏi:

“Tôi là ai? Tên gọi là gì? Hai anh là ai? Chúng ta có quan hệ gì? Còn nữa, đây là nơi nào?”.

Anh chàng khoảng hai ba, hai bốn tuổi trả lời:

“Huynh là đại ca của bọn đệ, chúng ta là huynh đệ ruột thịt. Huynh là đại nguyên soái Chu quốc, Trần Ngạn. Đệ là nhị đệ của huynh, Trần Đường. Còn đệ ấy là tam đệ của chúng ta, Trần Ninh. Huynh có nhớ ra gì không?”.

Tôi lắc đầu. Trần Đường thở dài, tiếp tục nói:

“Đây là thành Bắc Bình. Quân ta sau khi thắng trận ở núi Mang Cốc, đại quân đã rút về đại doanh. Nghe tin thành này có biến, nguồn nước trong thành bị gian tế Bắc Tề đầu độc. Toàn bộ dân chúng trong thành đều đã nhiễm độc. Đại ca dẫn theo bọn đệ cùng một vạn binh đến đây. Nhưng đại phu nói độc này là bí truyền, không cách nào giải được. Ngô Phi cho người mang thư đến, nói muốn có được thuốc giải phải giao đại ca cho chúng”.


Tôi còn đang định uống nước, nghe vậy nuốt nước bọt, miệng run rẩy hỏi:

“Ngô Phi là ai?”.


Trần Ninh ngực phập phồng, trợn mắt nói:

“Chính là tên khốn muốn hại đại ca. Hắn là phó tướng quân Bắc Tề, kẻ tiểu nhân bỉ ổi. Trên chiến trường đánh không lại chúng ta, mới dùng quỷ kế hạ độc. Hắn nói trong vòng ba ngày, nếu bên ta không đồng ý trao đổi, toàn bộ dân chúng trong thành này sẽ phát độc mà chết. Đại ca đồng ý giao dịch, rồi một mình một ngựa theo bọn chúng. Sau khi cho những người trúng độc dùng thuốc giải, bọn đệ liền dẫn binh đi cứu đại ca. Bọn đệ đột kích doanh trại địch, đánh nhau với quân Bắc Tề mấy canh giờ, lại cho người tìm nơi chúng giam giữ đại ca nhưng không thấy. Sau mới biết đại ca đã đột phá vòng vây mà rời đi trước đó. Bọn đệ lui binh tìm kiếm đại ca một ngày một đêm, đến rạng sáng hôm nay mới tìm được đại ca”.


Tôi nghe hiểu được một chút, lại giống như chẳng hiểu gì cả. Những chuyện xảy ra với Trần Ngạn, tôi đại khái nắm được sơ sơ. Nhưng tôi khi không đang yên đang lành tại sao lại biến thành Trần Ngạn? Mà theo lời bọn họ nói, cái gì mà Chu quốc với Bắc Tề, đại nguyên soái với tướng quân, lại còn trang phục trên người đều giống như đây là thời cổ đại? Quá nhiều điều không thể lý giải, quá nhiều thông tin cần phân tích, nên cơ thể tôi sinh ra phản ứng rất bình thường… đói bụng! Tôi gãi gãi lông mày, mở miệng hỏi:

“Những chuyện khác chúng ta từ từ thương lượng, trước tiên có thể dọn cơm cho tôi được không?”.


Trần Đường giật giật lông mày. Trần Ninh há hốc mồm nhìn tôi. Cuối cùng vẫn là Trần Đường hiểu đạo đãi khách, gọi người mang cơm cho tôi.

Có thực mới vực được đạo, có no bụng mới nghĩ được thấu đáo. Tôi vui vẻ ăn hết bốn chén cơm, quét sạch sẽ một bàn thức ăn, lại uống hết một bình rượu nhỏ.


Đợi tôi hoàn tất việc ăn uống xong, Trần Đường mới ngập ngừng hỏi:

“Đại ca vẫn chưa nhớ ra gì à?”.


Tôi suy nghĩ một chút, nếu tôi nói tôi thật ra không phải đại ca, huynh đệ gì của bọn họ, chỉ là người qua đường thôi; chắc chẳng ai tin. Tạm thời tìm hiểu tình hình ở đây một chút, sau đó tìm cách trốn đi mới được. Tôi không có hứng thú với “công việc” mới này tẹo nào. Đại nguyên soái, nghe thì oai phong đấy, nhưng ra trận lúc nào cũng phải dẫn đầu cả đoàn người lượn qua lượn lại trước quỷ môn quan. Tôi chỉ là một người bình thường, không biết cầm quân đánh giặc, vẫn là “ba mươi sáu kế, tẩu vi thượng sách” là tốt nhất!

Tôi nhìn Trần Đường, lắc lắc đầu, tỏ ý mình chẳng nhớ ra gì cả.

Hai người đối diện nhìn tôi rồi lại nhìn nhau thở dài. Đúng lúc này thì bên ngoài có tiếng người, có vẻ là binh lính. Người ngoài cửa nói:


“Bẩm nguyên soái, một trăm dặm về phía đông có khoảng hai vạn nạn dân đang chạy về hướng này”.


Tôi trợn mắt. Đang yên đang lành nạn dân ở đâu ra? Tôi ngửi thấy mùi nguy hiểm. Còn ở lại đây làm nguyên soái, thể nào cũng lại bị thằng cha Ngô Phi kia đòi tôi hiến thân đổi lấy mạng sống cho người khác. Hết dân chúng trong cái thành này, giờ đến lượt hai vạn dân đang “chạy bộ” ngoài kia?

Từ hướng đông tới? Vậy tốt nhất ông đây theo mông lão thiên* để cầu yên ổn.

Chú thích *: ý nói chạy theo hướng mặt trời lặn. Dân chạy nạn từ hướng đông tới, nên nhân vật chính quyết định trốn theo hướng tây.

Chương 2: Lần đầu bỏ trốn

Trần Đường quay sang tôi, nói:

“Đại ca, huynh còn đang trọng thương cứ nghỉ ngơi cho bình phục. Bọn đệ ra ngoài xem thế nào”.


Tôi gật gật đầu. Đợi bọn họ đi rồi, tôi liền nhìn quanh phòng, xem có gì đáng giá để mang theo người không. Nhìn đi nhìn lại, chỉ thấy thanh kiếm là vật duy nhất có vẻ có giá trị. Thôi vậy, có còn hơn không. Đến thành trấn nào đấy tìm tiệm cầm đồ đổi lấy chút tiền rồi nghĩ biện pháp khác.

Tôi lục trong tủ tìm một bộ đồ sạch sẽ, loay hoay mặc lên người. Sau đó lén lút rời khỏi phòng, lén lút dắt con ngựa đang cột ở gốc cây gần cổng sau, lén lút mở cổng chuồn đi. Vốn không định mang theo ngựa, vì từ nhỏ đến lớn tôi đã cưỡi ngựa bao giờ. Nhưng không hiểu sao nhìn con ngựa này lại cảm thấy thân thiết như nhìn thấy bạn cũ. Sau đó lên ngựa, phóng đi… động tác thuần thục đến không ngờ. Có lẽ là bản năng của Trần Ngạn?


Chạy được non nửa canh giờ bỗng nghe thấy phía đằng sau có tiếng vó ngựa dồn dập đuổi theo. Tôi ngoái đầu nhìn lại thấy hai người Trần Đường và Trần Ninh thì hoảng hốt, liền thúc ngựa chạy nhanh hơn. Nhưng do trời tối, lại không quen đường, cuối cùng cũng bị bọn họ đuổi kịp. Đành phải ghìm cương đứng lại.


Trần Ninh xuống ngựa, chặn trước mặt tôi, hấp tấp nói:

“Đại ca! Huynh còn đang trọng thương lại một mình xông vào doanh trại địch là muốn đi tìm chết sao? Bọn đệ cũng căm hận Ngô Phi bỉ ổi, nhưng liều chết đi tìm hắn thì có tác dụng gì? Huynh mau cùng bọn đệ trở về, chúng ta từ từ nghĩ biện pháp”.


Đi tìm chết cái rắm. Tôi chửi thề trong bụng, lại ngớ ra, cậu ta vừa nói xông vào doanh trại địch? Không lẽ trước mặt là nơi đóng quân của Bắc Tề? Ông nội ơi, suýt chút thì toi cái mạng nhỏ. Vì trời tối không còn thấy mặt trời đâu nữa nên tôi cũng chả phân biệt được đâu là đông đâu là tây. Thấy mọi người tập trung một chỗ chỉ chỉ trỏ trỏ nên xác định đó là hướng dân chạy nạn đang tới, liền dứt khoát chạy về hướng ngược lại. Không ngờ lại chạy về hướng của quân Bắc Tề.

Trần Đường thấy tôi im lặng suy nghĩ thì mừng rỡ hỏi:



“Đại ca nhớ ra mọi chuyện rồi?”.


Tôi nhìn cậu ta lắc đầu.


Trần Ninh nghi hoặc nhìn tôi:

“Vậy đại ca một mình mang kiếm chạy đến chỗ Bắc Tề quân làm gì?”.


Tôi ngó xuống thanh kiếm trong tay mình. Chắc hai người bọn họ có vắt óc cũng không nghĩ ra được, tôi là định mang thanh kiếm này để đi cầm, lấy lộ phí bỏ trốn. Tôi nhìn bọn họ, lại ngước mắt nhìn về hướng vừa rồi còn định chạy đến. Có lẽ thấy tôi nhìn về hướng quân Bắc Tề ánh mắt tức giận, Trần Đường sợ tôi lại đi tìm Ngô Phi tính sổ, vội giục:


“Chúng ta quay về thành trước đã. Dân chạy nạn sáng mai mới đến, chúng ta còn một đêm để nghĩ đối sách”.


Tôi đúng là tức giận. Nhưng không phải tức quân Bắc Tề, mà giận bản thân số con rệp, chọn nhầm đường chạy trốn. Chỉ đành theo bọn họ trở về.

Trong phòng họp, à phòng nghị sự, có mấy người đàn ông đang đợi sẵn, nhìn thấy bọn tôi bước vào liền đứng dậy đón. Tôi có cảm giác như tổng giám đốc gặp cấp dưới vậy, thiếu chút nữa là đưa tay phải bắt tay bọn họ rồi.

Trần Đường giới thiệu tên và chức vụ từng người trong phòng cho tôi. Người đàn ông tên Lý Đôn, khoảng trên dưới bốn mươi, là tướng thủ thành Bắc Bình, ngạc nhiên hỏi:

“Trần nguyên soái chẳng phải đã gặp qua thuộc hạ rồi mà?”.


Trần Đường thở dài giải thích:


“Nguyên soái bị trọng thương, tạm thời không nhớ được mọi chuyện”.


Các “đồng chí cấp dưới” tròn mắt nhìn sang. Tôi gật gật đầu.

Trần Ninh lên tiếng bất bình:


“Đều tại tên khốn Ngô Phi, đã hại đại ca trọng thương. Nay còn xua hai vạn dân từ các thành trấn nhỏ đến đây, muốn lợi dụng nạn dân để cho quân trà trộn công phá thành Bắc Bình”.


Lý Đôn hỏi:

“Không biết nguyên soái đã nghĩ ra biện pháp đối phó hay chưa?”.


Tôi suýt nữa đã buột miệng nói “tẩu vi thượng sách”, may mà kịp nuốt lời vào bụng. Chỉ đành nói vài câu đối phó:

“Các vị tướng quân cho rằng nên làm thế nào?”.


Cách tốt nhất để lảng tránh vấn đề là đặt ra câu hỏi để đối phương phân tâm. Muốn tôi nghĩ ra biện pháp? Đùa chắc, tôi cũng không phải nguyên soái “hàng thật giá thật”.


Người đàn ông được gọi là Tống phó tướng, xem tướng mạo có vẻ là một kẻ nóng tính, nói:

“Trong thành có hơn một vạn dân chúng, gần hai vạn binh lính. Nếu để quân Bắc Tề phá cổng xông vào, thành này e không thể giữ được. Thành Bắc Bình là nơi trọng yếu, nếu bị phá sẽ dẫn đến hậu họa vô cùng. Biện pháp tốt nhất là đóng chặt cổng thành”.


Trần Đường lắc đầu:


“Cách này không ổn. Nếu nhốt bọn họ ngoài thành, với tính cách Ngô Phi nhất định cho quân giết chết dân chúng vô tội. Hai vạn nạn dân kia đều là dân chúng Đại Chu ta, trơ mắt nhìn bọn họ bị quân giặc tàn sát, chỉ e quân ta sẽ đánh mất sĩ khí. Cách này cũng không giải quyết được vấn đề”.

Dục quân sư dưới trướng Lý Đôn, là người lắm mưu nhiều kế, vuốt chòm râu dài nói:


“Nếu vậy chỉ còn cách di tản dân chúng trong thành, lại bí mật đem hai vạn quân của chúng ta ra ngoài, trong thành bố trí bẫy, đợi quân Bắc Tề vào thành thì hai mặt tấn công, hốt trọn một mẻ”.


Mọi người trầm mặc suy nghĩ. Hồi lâu, vẫn là Lý Đôn lên tiếng, nhưng không phải đưa ra biện pháp mà lại quay sang hỏi quyết định của tôi. Mẹ kiếp, lại chĩa mũi nhọn sang ông đây. Tôi không thể tiếp tục giả điếc, chỉ đành nói:


“Muốn đập tan âm mưu của Ngô Phi, phải tách quân Bắc Tề trà trộn trong nạn dân ra để tiêu diệt. Cho dù dùng kế “vườn không nhà trống” theo ý Dục quân sư, mà không thể phân biệt đâu là địch đâu là dân chúng thì cũng không thể tấn công được. Ngược lại chỉ khiến thành Bắc Bình hoàn toàn thất thủ”.

Lý Đôn vội hỏi:


“Vậy theo ý nguyên soái, làm thế nào để tiêu diệt quân địch mà không làm liên lụy dân chúng vô tội?”.


Tôi nghĩ nghĩ, đáp:


“Lúc nạn dân đến bên ngoài thành, Lý tướng quân cứ ở trên tường thành thông báo, bảo bọn họ chia nhóm để vào thành. Những người nào đến từ cùng một nơi thì hợp lại với nhau thành một nhóm. Bọn họ đều từ các thành trấn nhỏ, dân số mỗi nơi sẽ không quá vài trăm người đúng không? Thông báo cho bọn họ, mỗi người phải được những người khác trong nhóm nhận ra là có quen biết thì mới được ở chung một nhóm. Kẻ nào không có quen biết, chính là gian tế”.

Trần Đường lại hỏi:


“Đại ca, nếu vậy những kẻ gian tế nhất định hợp lại thành một nhóm, tự nhận quen biết nhau. Lúc đó chúng ta làm sao có thể biết nhóm nào địch, nhóm nào không phải?”.


Tôi cười:


“Đệ nói xem, một con vịt lạc trong bầy hạc khó giết, hay một bầy vịt tụ lại một chỗ khó giết? Chỉ cần bọn chúng tập hợp lại thành một nhóm, muốn xác định thân phận không khó. Nạn dân có già trẻ, nam nữ đủ cả. Nhưng gian tế thì không. Hơn nữa, ngoại hình, giọng nói của người Bắc Tề và Đại Chu không giống nhau. Trên người bọn chúng cũng nhất định có giấu binh khí”.


Mọi người đều gật đầu, khen kế hay. Tôi lại lắc đầu nói:


“Nhưng phân biệt được rồi cũng không nhất định ngăn được quân địch tấn công?”.


Lý Đôn nghe vậy lập tức hỏi:


“Ý nguyên soái là…?”.


Tôi uống một ngụm trà, thong thả nói:


“Ngô Phi đã muốn dùng nạn dân để công thành, nhất định sẽ kéo quân đến phía sau. Mà phân chia nạn dân theo nhóm để tìm gian tế cũng mất không ít thời gian. Chỉ e vừa đón nạn dân vào thành, quân địch đã đuổi đến nơi rồi”.


Trần Ninh gấp gáp hỏi:


“Vậy phải làm thế nào?”.


Tôi lại cười:


“Chúng ta phải chuẩn bị quà cho bọn chúng”.


Mọi người vẻ mặt mờ mịt. Tôi giải thích:


“Quân Bắc Tề hiện tại chia làm hai cánh, một đến từ phía tây, một đuổi theo sau nạn dân. Phía tây tập hợp đại quân Bắc Tề, quà dành cho bọn chúng nhất định phải lớn! Nhưng phía đông cũng không thể không chuẩn bị. Bẫy Dục quân sư định bố trí trong thành chuyển sang đón đường quân Bắc Tề từ hai cánh là được. Nhưng bẫy nhất định phải lớn, nếu không để bọn chúng mang đại quân đến đây, chúng ta chỉ sợ không kịp đưa nạn dân vào thành”.

Còn về phần chuẩn bị bẫy gì, bố trí ở đâu thích hợp, tôi để bọn họ tự ứng phó. Dù sao tôi cũng không rành nơi này.


Lý Đôn nghe xong mặt mày tươi tỉnh:


“Nguyên soái quả nhiên đa mưu túc trí. Thuộc hạ bội phục”.


Chà, cái trò vuốt mông ngựa đây mà. Tôi chẳng qua chỉ nói bừa, định bụng nhân lúc bọn họ chuẩn bị “quà” cho quân Bắc Tề, thì tìm cơ hội bỏ trốn, liền giục:


“Các vị tướng quân mau gấp rút bố trí bẫy, chậm trễ chỉ e không kịp”.


Mọi người nhanh chóng đứng dậy, chắp tay rồi rời khỏi phòng. Chỉ còn lại Trần Đường và Trần Ninh ở lại. Tôi cũng muốn bỏ đi lắm, nhưng hai người này cứ nhìn tôi chằm chằm thế này thì đi thế nào được. Thấy Trần Ninh vừa định mở miệng hỏi, tôi thừa biết cậu ta định hỏi câu gì, liền nói luôn:


“Tôi chưa có nhớ ra gì đâu”.


Trần Ninh khép miệng, nhìn tôi với ánh mắt tủi thân. Trần Đường cười nói:


“Không việc gì, từ từ rồi đại ca sẽ nhớ lại thôi. Dù thế nào đại ca vẫn là đại ca của bọn đệ, là đại nguyên soái của Đại Chu”.


Tôi gật đầu. Trong bụng lại chửi thề, mẹ nó, ông đây không muốn làm nguyên soái. Ông chỉ muốn trốn thôi.