Bảo Đại, hay là những ngày cuối cùng của vương quốc An Nam- Chương 14 + Chương 15- P01

 

Ngày 3 tháng 9 một chiếc máy bay kiểu Liberator của không quân hoàng gia Anh bay thấp qua thành phố, sau vài vòng lượn thấp đã thả ra ba chiếc dù màu.
Không có người, chỉ là ba chiếc thùng gỗ dày, đóng đai chắc chắn. Một chiếc rơi xuống vạt ruộng trên cánh đồng An Cựu, lọt ngay vào tay lực lượng bộ đội giải phóng quân Huế đóng gần đó. Hai chiếc khác rơi xuống sân trường Thiên Hựu, nơi có khoảng 200 gia đình Pháp kiều và cha đạo ở các giáo xứ trong tỉnh tập trung về đây từ sau đảo chính Nhật mồng 9 tháng 3 năm 1945.
Đã nổ ra cuộc đụng độ nhỏ giữa Pháp kiều và dân quân, tự vệ Việt Minh để tranh nhau chiếm đoạt hai chiếc hòm gỗ được thả xuống sân trường. Cả hai bên đều có thương vong. Một người Pháp gục ngã vì trúng đạn tiểu liên của Việt Minh. Một thanh niên tự vệ có nhiệm vụ canh gác khu vực Pháp kiều tên là Lê Văn Mười bị trúng đạn tiểu liên, hôm sau được chính quyền địa phương tổ chức lễ tang trọng thể. Không ai biết số người bị thương ở cả hai phía Pháp và Việt là bao nhiêu.
Hai hòm gỗ được khui ra. Tuyệt nhiên không có vũ khí. Hết thảy đều chở thuốc men và lương thực. Có cả những chiếc gương có đục lỗ để làm tín hiệu cho máy bay.
Nạn nhân Pháp tên là Chenevier, được chôn trong vườn nhà thờ chứ không phải ở nghĩa địa vì nghĩa địa do Việt Minh kiểm soát. Quan tài làm bằng những mảnh gỗ phế loại, phủ cờ tam tài.
Sau đó một số người Pháp bị người Việt bắt đem đi đã được thả về. Một người khác tên là Meynier bị bắt giải đi đâu không ai rõ (1).
Hai trăm Pháp kiều chen chúc trong khu phố Tây, sau sự kiện ngày 3 tháng 9 sống nơm nớp lo sợ bị trả thù. Nghe đâu mỗi căn nhà đều được đánh dấu trong sơ đồ tấn công của tự vệ.
Mấy ngày sau, ngày 11 tháng 9 máy bay Đồng minh trở lại, hạ cánh đường hoàng xuống sân bay Phú Bài, mang theo một toán gồm 6 quân nhân Mỹ hoặc có thể có người Pháp trà trộn vào lấy danh nghĩa phái bộ Đồng minh, có nhiệm vụ điều tra, tìm hiểu số phận phi công Đồng minh bị Nhật bắn rơi trên chiến trường Đông Dương trước đây, và tiếp tế cho tù binh Pháp. Họ được chính quyền địa phương đón tiếp nồng nhiệt, nhân dân đứng chật hai bên đường Tự Đức mang cờ, biểu ngữ "Hoan nghênh phái bộ Đồng minh (Welcome to the Allied Mission), "Quyết chiến đấu cho nền độc lập của Việt Nam (Struggle for independence of Vietnam), "Nước Việt Nam của người Việt Nam" (Vietnam to vietnamese) hoan nghênh phái bộ Đồng minh. Trong buổi tiếp kiến chính quyền địa phương, phái bộ Đồng minh nhắc lại sự kiện thả dù tiếp tế cho Pháp kiều tuần trước. Đại diện chính quyền giải thích: sở dĩ có vụ đụng độ đó là do trước đó 8 ngày có vụ biệt kích Pháp nhảy dù xuống Hiền Sĩ cách Huế 25 cây số về phía Tây, yêu cầu từ nay muốn tiếp tế cho tù binh và Pháp kiều, xin chuyển qua Uỷ ban nhân dân tỉnh(2). Tại khách sạn Morin phái bộ tiếp xúc với Pháp kiều, hứa sẽ chuyển giúp thư tín. Từ mùa thu 1940 những người Pháp ở Huế cũng như nơi khác không gửi được gì về gia đình ở Pháp vì từ khi bại trận, mọi quan hệ thư tín và buôn bán giữa chính quốc và Đông Dương hầu như bị cắt đứt. Một nhà báo Mỹ liên lạc được với Pháp kiều, mang theo thư từ Nam Kỳ và cả những tin tốt lành. Có những người thân trong gia đình của binh sĩ Pháp đi thoát về Sài Gòn vượt qua cả nghìn cây số đường rừng phần lớn là phía Lào, con đường họ đi sau này được gọi là đường mòn Hồ Chí Minh. Nhiều người trong bọn họ bị ốm dọc đường nhưng vẫn cố đi thoát vào đến Sài Gòn.
Điều kiện sống trong khu phố Tây sút kém hẳn. Người Pháp phải đặt mua thực phẩm tại một cửa hàng tiếp tế do Việt Minh phụ trách. Sau khi trả tiền được lĩnh một tích kê hẹn hôm sau lấy hàng. Không còn bánh mỳ, bơ, cà phê, những đồ ăn, thức uống quen thuộc của người Pháp, nhưng lại được Việt Minh coi là đồ xa xỉ.
Đêm đêm nghe thấy nhiều tiếng súng chẳng biết vì lý do gì, ai bắn và bắn ai, những tin đồn thảm sát. Từng đêm người sống trong khu đi nằm với câu hỏi đêm nay sẽ là đêm cuối cùng chăng. Rồi những hồi trống rung lên càng dồn dập vào buổi sáng sớm.
Giọng điệu đã trở nên căng thẳng nhất là từ sau ngày Pháp gây hấn ở Nam Bộ, 23 tháng 9 năm 1945.
Tình hình đó khiến Paris lo ngại. Một báo cáo đề ngày 22 tháng 9 năm 1945 của các tổ chức mật vụ Pháp ở Việt Nam cho biết: "Tình cảnh của các kiều dân Pháp, bị tập trung hay quản thúc rất bấp bênh. Những vụ lộn xộn ngày càng nhiều. Nguy cơ về một cuộc tàn sát hàng loạt vẫn tồn tại và ngày càng nghiêm trọng"(3).
Chú thích:
(1) Elula Perrin, sách đã dẫn.
(2) Báo Cứu quốc số 43 ngày 14 tháng 9 năm 1945.
(3) CAOM, Lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại, hồ sơ 1211NF.

 

****

Ngày 2 tháng 9, năm giờ sáng, hai ngày sau lễ thoái vị, công dân Vĩnh Thuỵ rời Huế ra Hà Nội, với chức vụ cố vấn của chính phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đang chờ ông.
Đoàn gồm hai xe ôtô. Xe thứ nhất chở Vĩnh Thuỵ được Bộ trưởng Lao động Lê Văn Hiến tháp tùng. Xe kia chở hoàng thân Vĩnh Cẩn. Phái đoàn Trần Huy Liệu sau khi nhận ấn, kiếm đã lên đường ra Hà Nội từ hôm trước.
Nhà nước mới chưa có xe, đoàn dùng hai chiếc xe riêng của cựu hoàng. Hành trình sáu trăm cây số từ Huế ra Hà Nội đã được thực hiện trên hai chiếc xe tiện nghi nhất lúc đó là các xe Mercury và Packard.
Bên cạnh niềm hân hoan chung, một mối lo âu nặng nề tràn ngập một bộ phận quan trợng trong dân chúng đô thành. Đó là gia đình nhân viên hoàng gia, các triều thần hay cả những nhân viên bình thường trong bộ máy Nam triều cũ. Lương tháng sẽ ra sao đây? Chính quyền cách mạng hứa sẽ trả đủ lương tháng 8, nhưng sau đó thì sao, công việc trong bộ máy chính quyền mới đâu dành cho họ. Chính quyền nhân dân không lẽ nuôi họ mãi? Tình cảnh của họ thật giống như ở Pháp sau cách mạng 1789, giai cấp quý tộc cũ phải sống nhờ những người nghèo khổ trước đây bị họ bóc lột.
***
Khi ôtô vừa nổ máy thì Nam Phương và các con chạy ra sân tiễn ông Vĩnh Thuỵ. Ông xúc động nói với chúng những lời căn dặn dịu dàng bằng tiếng Pháp. Đó là một cuộc ra đi thân tình gần như lặng lẽ hiếm hoi trong gia đình họ. Xưa kia thì có quân lính làm hàng rào. Bây giờ, khi người đứng đầu hoàng cung đi xa, chỉ vài câu nói âu yếm của người thân, lời tiễn biệt lặng lẽ của đám gia nhân. Bà Nam Phương lặng lẽ đặt bàn tay phải lên cây thánh giá đeo trên chiếc kiềng. Ông Vĩnh Thuỵ rưng rưng nước mắt ôm hôn đứa con nhỏ nhất.
Còn bà hoàng thái hậu Từ Cung không mấy hoan hỉ trước việc bổ nhiệm con bà làm Cố vấn cho chính phủ mới. Bà linh cảm một tương lai không có gì tốt đẹp. Bà đã chứng kiến Thành Thái ra đi, rồi đến lượt Duy Tân. Lần này chính con bà đẻ ra lại ra đi về phía phe đối lập, không biết lành dữ ra sao? Có phải là sự đi đày trá hình hay còn cái gì tệ hơn nữa. Ai biết rằng đoàn xe sẽ không rơi vào ổ phục kích? Chính phủ mới không có Algérie, không có đảo Réunion để đày kẻ thù cũ. Bà lo cho tính mệnh của con mình. Như mấy hôm trước, từ trong cung An Định lại vang lên tiếng mõ tụng kinh. Tiếng mõ bộc lộ nỗi lo ngại của các bà mệnh phụ.
Hoàn toàn ngược lại, trên đường ra Bắc, phái đoàn được dân chúng nhiều nơi nghênh đón không phải chỉ nhằm Bộ trưởng Lê Văn Hiến, cựu chính trị phạm Kontum mà cả cựu hoàng Bảo Đại từ nay được gọi là Cố vấn tối cao Vĩnh Thuỵ.
Vĩnh Thuỵ vốn là người ít nói, nhất là lần đầu tiên tiếp xúc với quảng đại quần chúng mạnh dạn hồ hởi chứ không phải đám quan lại, chức dịch chỉ sụp lạy không dám ngẩng đầu nhìn thẳng vào mặt vua. Lê Văn Hiến kể lại: "Có lẽ tính ông Vĩnh Thuỵ hơi nhút nhát", "Ông ta chẳng biết gì về cách mạng, ông hỏi tôi Hồ Chí Minh là ai. Tôi cho ông biết đó chính là Nguyễn Ái Quốc, ông có vẻ hài lòng. Hôm đầu tiên khi ông được biết Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc là một ông nhớ lại câu sấm truyền 'Nam Đàn sinh thánh", thánh đây phải là Nguyễn Ái Quốc ông đã thốt ra: "Thế thì thoái vị cũng đáng".(1)
Đoàn xe lao nhanh trên đường. Ý định của cụ Hồ là muốn cố vấn Vĩnh Thuỵ có mặt cùng với các thành viên chính phủ lâm thời trong buổi lễ long trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945, nhưng không kịp. Tình hình khẩn trương.
Công việc bề bộn như núi. Lại còn phải lo đối phó hàng chục vạn quân Tưởng đang lũ lượt kéo vào. Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn có cựu hoàng bên mình, thể hiện tình đại đoàn kết dân tộc, chống lại mọi âm mưu chia rẽ lật đổ chính quyền cách mạng.
Đang mùa lũ lụt. Đường bị nước ngập nên xe phải đi chậm lại. Nhiều cầu bị bom Mỹ phá sập. Không phải là chuyến đi bí mật nên mỗi khi tới địa phương nào đoàn phải dừng lại để quần chúng nghênh tiếp. Vĩnh Thuỵ không phải là một viên chức bình thường như các viên chức khác trong bộ máy chính quyền.
Suốt dọc đường từ cố đô ra thành phố lớn phía bắc, quẩn chúng nhân dân nhận ra ông, hoan nghênh. Lần đầu tiên dân chúng được nhìn thẳng vào Hoàng đế mà không phải quỳ lạy. Suốt dọc đường dân chúng đã dành cho ông những biểu hiện hân hoan, nồng nhiệt vừa kính trọng vừa yêu mến khiến ông cảm động xiết bao!"(2).
Đến Vinh, gần nửa đường Huế - Hà Nội, đoàn có thêm một thành viên mới: hoàng thân Souphanouvong, lãnh tụ những người Lào yêu nước. Bên kia dãy Trường Sơn, cách khoảng trăm kilômét, người Lào cũng đang cố gắng khẳng định chủ quyền của họ. Hoàng thân cùng tuổi với Vĩnh Thuỵ và cũng đã sống nhiều năm ở Pháp, học trường cầu đường nhưng căm thù người Pháp sâu sắc, tham gia phong trào chống Pháp từ rất sớm và đã trở thành người lãnh đạo phong trào.
Một vinh dự mới dành cho công dân Vĩnh Thuỵ: cách thủ đô Hà Nội vài chục cây số, tạl thị trấn Phủ Lý (thuộc địa phận tỉnh Hà Nam) ông Trần Huy Liệu, một trong những nhân vật chính của Tổng Bộ Việt Minh, người đã nhận sự thoái vị, chờ đón ông bên đường. Sự đón tiếp chính thức, thân tình, khiến ông xúc động nhất là khẳng định thái độ trọng thị của chính quyền cách mạng đối với ông. Những cuộc đón tiếp chính thức của chính quyền địa phương, những tiếng hoan hô của quần chúng không biết thật tâm đến đâu. nhưng cũng làm cho ông yên tâm.
Chỉ có thời tiết là không thuận lợi. Trời vẫn mưa dai dẳng, không lúc nào tạnh. Sau một đêm dừng lại tại Phủ Lý, 9 giờ sáng hôm sau, đoàn lên đường đi nốt chặng đường cuối cùng về Hà Nội. Đến sát cửa ngõ thủ đô, lác đác vẫn có những chỗ dân chúng tụ tập để đón chào mừng cố vấn tối cao của chính phủ.
Ngày 4 tháng 9, vào lúc 11 giờ, chiếc Mercury đỗ trước cửa một toà biệt thự xinh xắn trước đây là nhà riêng của viên Đốc lý thành phố ở số 51 đại lộ Gambetta (ngày nay gọi là phố Trần Hưng Đạo) một đường phố vào loại đẹp nhất thành phố Hà Nội.
Sáng hôm sau, cố vấn Vĩnh Thuỵ chính thức đến chào chủ tịch Hồ Chí Minh tại dinh chủ tịch đặt tại toà Thống sứ Bắc Kỳ sau đổi thành dinh Khâm sai Bắc Bộ.
Dưới con mắt Nguyễn Vĩnh Thuỵ, người đứng đầu nhà nước, dáng người mảnh khảnh, yếu đuối trong chiếc áo khoác ngoài kín cổ, với đôi dép cao su, chòm râu lưa thưa, giống một người khổ hạnh vừa giống một nhà nho, phù hợp với các cuộc đàm đạo văn chương hơn là hoạt động chính trị. Tuy nhiên, đôi mắt sâu sau một cơn sốt rét nặng trước khi rời chiến khu, vẫn toát ra một niềm tin vững chắc ở tiền đồ đất nước, có sức cảm hoá rất mạnh đối với người đối thoại với mình. Ông gọi Vĩnh Thuỵ là "Ngài" một cách trân trọng nhưng thái độ cư xử thân tình như tình cha con. Ấn tượng tốt đẹp này vẫn được lưu giữ mãi về sau, đã được ông cố vấn nhắc lại trong thư viết về cho mẹ là bà hoàng thái hậu Từ Cung, trong câu chuyện với một nhân viên mật vụ Pháp ở Côn Minh và cả về sau này khi đã quay trở về hợp tác với người Pháp cầm đầu chính phủ chống lại Việt Minh, như ông đã kể lại trong hồi ký.
Ngay chiều ngày 5 tháng 9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến đáp lễ ông cố vấn tại nhà riêng. Người ta đã thấy hai người sau khi nói chuyện trong phòng khách, còn xuống sân khoác tay nhau đi đi, lại lại tiếp tục trò chuyện đến hơn nửa tiếng. Sự tương phản về vóc dáng và trang phục giữa một nhà cách mạng lão thành, chủ tịch chính phủ, thân hình mảnh khảnh, gầy gò, mặc quần áo ka ki cổ đứng, chân đi dép và một cựu hoàng trẻ tuổi béo tốt, tóc chải mượt, quần áo tuýt-xo bảnh bao, cổ thắt cà-vạt, chân dận giày da láng bóng tạo thành một sự tương phản rõ rệt nhưng cũng là hình ảnh đại đoàn kết dân tộc độc đáo hiếm thấy trong lịch sử.
Bắt đầu từ ngày 8 tháng 9, ông cố vấn dự các phiên họp của Hội đồng chính phủ họp đều đặn vài lần trong một tuần, Hồ Chí Minh chủ toạ các phiên họp. Vĩnh Thuỵ luôn luôn được xếp ngồi phía đầu bàn, giữa một bên là Hồ Chí Minh ở bên phải và một bên là Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp, ở bên trái. Ông có một phòng làm việc riêng, ngay sát phòng làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sáng sáng ông đến làm việc hồi bảy giờ. Biết bao vinh hạnh, biết bao biểu hiện tôn kính làm cho ông xúc động.
Nhưng thái độ của cố vấn Vĩnh Thuỵ làm cho mọi người ngạc nhiên. Ông chẳng nói một lời, ngồi im lặng, như thể các cuộc thảo luận không liên quan gì đến ông. Trong nhiều tháng, ông dự hàng chục cuộc họp vì trong thời kỳ trứng nước chính quyền mới thành lập, chính phủ họp hàng ngày nhiều khi bàn cả các vấn đề cụ thể chẳng khác nào một cuộc họp của hội đồng thành phố khiến ông phát chán. Ông vắng mặt nhiều buổi. Ngay cả những buổi có mặt, ông ngồi im lặng, không phát biểu gì. Trong thành phần chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có đại biểu các đảng phái, các xu hướng khác nhau. Có những buổi bàn bạc qua quít hình như mọi việc đã được quyết định ở đâu đó, tranh luận bàn cãi chỉ là vô ích. Có những buổi tranh luận khá căng thẳng trong lúc tình hình kinh tế xã hội đang khó khăn chồng chất, quan hệ với Tàu, với Pháp, với các đảng phái đối lập diễn biến phức tạp làm cho ông cố vấn mệt mỏi.
***
Cuộc sống thường nhật của ông cố vấn tối cao khá dư dả trong hoàn cảnh chung rất eo hẹp lúc bấy giờ. Cũng như mọi thành viên khác trong chính phủ ông không có lương. Bữa ăn do khách sạn Asia cung cấp. Ông chủ khách sạn trước đây kinh doanh xích lô nay trở nên giàu có đã quyết định góp phần ủng hộ chính phủ mới. Ngôi biệt thự chính phủ cấp cho ông ở gần các dinh thự của các ông tướng Tàu, gần cả nhà tướng Mỹ Gallagher, đại diện phái bộ Đồng minh. Có hôm ông lái xe Jeep Mỹ cùng với mấy sĩ quan Đồng minh đi chơi phố đồng thời để thử tính năng của loại xe kỳ cục này.
Thường ông dùng chiếc xe Mercury sang trọng mang từ Huế ra, lượn trong các phố của thủ đô. Có hôm dân chúng nhận ra ông xúm lại khen ngợi chiếc xe, hoan hô công dân Vĩnh Thuỵ. Trong mấy chục năm ngự trên ngai vàng chưa bao giờ ông có thái độ bình dân, gần gũi dân chúng như lúc này... Các nhà báo Hà Nội tổ chức một bữa tiệc lớn để hoan nghênh ông đã tự nguyện từ bỏ cuộc sống vương giả để trở thành công dân bình thường, hi sinh ngai vàng vì lợi ích dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Trong một lần về Thọ Xuân thuộc tỉnh Thanh Hoá, ông cũng được nhân dân địa phương trọng vọng như vậy khi ông đến tưởng niệm trước những ngôi mộ của các ông tổ triều Nguyễn.
Nhân dân Hà Nội cũng chưa quên khuôn mặt ông trên các con tem thư in hình ông và bà Nam Phương. Bưu điện Việt Nam chưa có phương tiện in tem mới và cũng để tiết kiệm, vẫn dùng lại những con tem cũ, đóng dấu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và giá cước mới theo thời giá.
Trong những ngày đầu tiên, với tư cách cố vấn chính phủ, Vĩnh Thuỵ sống thoải mái trong khu phố vào loại sang trọng nhất thủ đô. Trước mặt ngôi biệt thự là trại bảo an binh cũ. Một tiểu đội độ mười người đã được phái đến canh gác toà nhà và bảo vệ ông. Trong hai chiếc xe đem từ Huế ra, ông biếu một chiếc cho ông bộ trưởng Lao động Lê Văn Hiến, cựu chính trị phạm, người đã tháp tùng ông ra Hà Nội.
Chỉ mấy tháng sau Vĩnh Thuỵ đã gặp lại Lý Lệ Hà, người tình cũ của ông. Ông quan hệ công khai với ả, đêm đêm đi dạo, ăn nhậu, lui tới các nơi ăn chơi, tiệm nhảy bất chấp dị nghị của mọi người xung quanh đang sống khắc khổ đạm bạc.
Cách mạng thành công, không khí phấn khởi hồ hởi những ngày đầu mới giành được chính quyền rồi cũng qua đi, không đủ che lấp nhưng khó khăn chồng chất trong cuộc sống. Nhân dân nhiều địa phương thiếu ăn, hậu quả của nạn đói đầu năm chưa khắc phục xong, nhiều đoạn đê không chống nổi mức nước dâng cao trong mùa lũ tháng 8. Việc tiếp tế gạo từ miền Nam gặp nhiều trở ngại do phương tiện vận chuyển thiếu, nhiều cầu cổng bị bom Mỹ phá huỷ chưa chữa xong. Hàng vạn quân Nhật chưa hồi hương hết thì gần hai chục vạn quân Tưởng tràn vào. Tiếng súng chống xâm lăng dã nổ ở miền Nam.
Giải quyết vấn đề cái ăn của nhân dân là một trong những khẩu hiệu chính của chính phủ mới. Gần hai triệu nông dân chết đói trong những tháng trước đó, có nghĩa là bằng hay gần bằng con số người chết trong bốn mươi năm chiến tranh mà nhân dân Việt Nam phải chịu đựng..
Từ khi rời bỏ ngai vàng, Vĩnh Thuỵ cùng một lúc mất phần lớn tài sản của ông. Tất cả những gì ông có đều gắn với địa vị của ông. Ông chẳng có gì: nhà cửa, cung điện, ngựa, xe, tất cả là của Triều đình. Rời bỏ ngai vàng cũng có nghĩa là ông cũng dứt bỏ luôn cuộc sống xa hoa của một vị đế vương.
Chỉ vài tuần sau ngày thoái vị, ông không còn lo nhân dân và chính quyền cách mạng trả thù, mạng sống được bảo đảm nhưng cuộc sống đời thường khiến ông như tỉnh lại sau một cơn mê dài. Ông thấy mình đang giữ một vai trò chính trị thực sự, chứ không phải làm vì, mà cũng là để bảo đảm cho tính hợp pháp của chính quyền mới. Sắc lệnh ngày 10 tháng 9 năm 1945 đã chính thức cử ông vào chức vụ Cố vấn của chính phủ lâm thời. Sau này cứ mỗi lần thay đổi thành phần chính phủ, từ chính phủ lâm thời sang chính phủ liên hiệp, rồi chính phủ chính thức do Quốc hội trong phiên họp đầu tiên mồng 2 tháng 3 năm 1946, ông đều được cử làm Trưởng đoàn cố vấn tối cao, cho đến những lần cải tổ chính phủ sau này, dù ông vắng mặt, chức vụ cố vấn tối cao của ông không hề thay đổi.