Bạch Nhật Quỷ Hồn - Chương 16 - phần 1
Trên đường ra, Hãn Thanh lại nhặt được một chiếc nón tre rộng vành của ai đó bỏ lại, vàng bạc vẫn còn nguyên trong túi vải, chàng ghé gần đấy mua ngựa, ăn uống.
Hãn Thanh gọi cho Hồ Ly một con cá chép sống nặng ba cân và món này đã làm hài lòng con vật.
Trưa hôm sau, Hãn Thanh chỉ còn cách Thạch gia trang vài chục dặm.
Thấy ngựa đã mệt mỏi, chàng dừng cương nơi bìa rừng để nó gặm nốt những cọng cỏ chưa bị tuyết lấp kín.
Kim Mao Hồ Ly dường như phát hiện độc xà, liền lao vút vào rừng. Hãn Thanh đứng dưới tàn cây, ngắm những bông tuyết rơi lất phất, chạnh lòng nhớ đến người thân.
Chợt từ trong rừng vọng ra tiếng kêu cấp bách giận dữ của Hồ Ly, chàng vội phi thân về hướng ấy. Được vài mươi trượng, Hãn Thanh nhìn thấy Kim Mao Hồ Ly đang bị một con rắn khoang trắng to lớn quất chặt. Nó tuyệt vọng dùng đôi móng vuốt chân trước và hàm răng sắc bén, để chống trả với những cú táp của độc xà.
Hãn Thanh chẳng dám kiên trì, rút kiếm lao đến, chỉ một nhát đã chặt phăng chiếc đầu con rắn. Hồ Ly thoát chết, mừng rỡ nhảy vào lòng chàng. Khi thấy kẻ thủ nằm im bất động mới dám đến moi gan mật ra ăn.
Hãn Thanh bỗng nghe tiếng người rên rỉ phát ra từ sau bụi rậm cách đấy hơn trượng, vội bước rảo đến xem.
Nạn nhân là một lão già tuổi thất tuần, áo gấm sang trọng. Gương mặt lão xương xương, khá uy nghiêm, nhưng giờ đây đã tím bầm, miệng sùi bọt trắng.
Quần của lão tuột hẳn khỏi hạ thể, chứng tỏ lão vào đây đại tiện và bị độc xà cắn phải. Hãn Thanh ngồi xuống, điểm nhanh vào sáu huyệt trước ngực rồi dựng lão lên truyền công trục độc. Nhưng đã quá muộn vì nọc rắn lan vào phủ tạng và sắp làm nghẽn tâm mạch.
Nạn nhân chỉ hơi khỏe lại một chút lão nhìn chàng, thều thào:
- Phải chăng các hạ là Mộ Dung Tiểu Hầu Gia? Lão phu là Dạ Thần Chu Huy Diện, phó bang chủ Bá Dương Bang. Trong người lão phu có nhánh sâm trường bạch, mong Hầu gia khai ân mang về Nam Xương để cứu mạng Diệp bang chủ. ¢n này, lão nguyện kiếp sau đền đáp!
Nói xong, thất khiếu lão rỉ máu đen chết tốt. Hãn Thanh bùi ngùi vung chưởng quạt bay đất đá, đào hố để chôn xác Dạ Thần.
Chàng cẩn thận lục soát y phục và bọc hành lý tìm nhánh Tuyết Sâm.
Ngoài hộp gỗ dài nhỏ, chàng còn thấy một ngân bài, mấy chục nén vàng và ba chiếc mặt nạ da người.
Hãn Thanh đặt sang một bên, rồi bỏ hết quần áo của lão xuống hố, chôn chung với thi hài. Chàng cẩn thận lăn đá chặn lên để đánh dấu và ngăn không cho thú rừng đào bới. Trên tảng đá lớn nhất, Hãn Thanh dùng kiếm khắc mấy chữ:
"Dạ Thần Chu Huy Diện chi mộ".
Xong xuôi, Hãn Thanh cạo sạch râu, lựa chiếc mặt nạ trung niên mang vào! Thúc ngựa vao thành Thạch Gia Trang. Trong dung mạo của một kiếm thủ tứ tuần lịch lãm. Chàng nóng lòng muốn biết tin nhà nên ghé vào Hà Bắc Đệ Nhất tửu lầu, hy vọng sẽ nghe ngóng được điều gì đó.
Hãn Thanh ngạc nhiên nhận ra Bạch Đà của Tây Hạ Ma Đao đang đứng trước cửa tửu lầu, kêu lên những tiếng não lòng và vòng ngoài là một đám đông đủ mọi hạng người. Họ xôn xao bàn tán, chỉ trỏ lên tầng trên.
Hãn Thanh hỏi thăm thì có một gã mặc áo tiểu nhị đáp rằng:
- Bẩm đại hiệp! Cao thủ đại nội đang vây bắt gã cường đạo, chủ nhân của con lạc đà này!
Chàng lắng tai nghe quả nhiên có tiếng của Uông Vô Hồi. Hãn Thanh lập tức ấn mạnh vào khấu yên, bốc thẳng lên lan can lầu, trước những cặp mắt tò mò và thán phục.
Chàng hạ thân êm ái, nhìn vào trong thì thấy Tây Hạ Ma Đao đang ngồi uống rượu và quanh đấy là Kim Khánh Song Tiên cùng tám gã Cẩm y thị vệ!
Hãn Thanh đứng sau một chậu thiên tuế nên không ai phát giác ra.
Chàng lắng tai nghe cuộc đối thoại. Dường như song tiên đang cố thuyết Ma Đao, Đại Tiên cố tình gằn giọng:
- Nếu Uông các hạ chịu đem ngàn dũng sĩ Tây Hạ qui phục Ngũ Long Bang để phò tá Ngũ Hoàng Tử thì sau này sẽ được hưởng vinh hoa phú quí.
Bằng không sẽ phải chết ở chốn này!
Uông Vô Hồn buông đũa, vỗ bụng:
- Tại hạ đã ăn no, có thể trả lời dứt khoát rồi đấy! Tiểu Hầu Gia Hãn Thanh là bằng hữu của Uông mỗ. Nếu quả thực y đã chết ở Thạch Chỉ Sơn thì Hồi này sẽ đem ngàn tay đao đến làm cỏ Ngũ Long Bang để báo thù. Làm gì có chuyện Uông mỗ qui phục Vu Sơn Sơn Chủ?
Dứt lời, gã rút đao lao vào bọn Cẩm y thị vệ. Ngay chiêu đầu họ Uông đã giết ngay hai tên. Nhưng Kim Khánh Song Tiên đã gầm lên, xông đến tấn công Vô Hồi.
Kiếm pháp của họ đã hiểm độc lại thêm tiếng khánh vàng quỉ dị, khiến họ Uông bủn rủn tứ chi. Hãn Thanh cũng nghe khí huyết sôi sục, lòng thầm khiếp sợ Ma ém.
Nhưng Kim Mao Hồ Ly đã phản ứng trước tiếng khánh quỉ dị. Nó kêu lên lảnh chót, chói tai như tức giận, kỳ diệu thay tác dụng của đôi khánh vàng lập tức bị vô hiệu.
Uông Vô Hồi bừng tỉnh, múa đao phản kích bằng một chiêu rất bá đạo.
Song Tiên đắc ý, đâu ngờ ma âm bị giải phá, đối phương đột ngột hồi tỉnh, nên đỡ mất tiên cơ.
Búa đao của họ Uông lập tức chém đứt đôi chiếc khánh vàng của Nhị Tiên và đẩy lùi Đại Tiên.
Hai lão già giận dữ gầm vang, cùng ập đến, quyết phân thây Tây Hạ Ma Đao, nhưng tử thần đã đến từ sau lưng họ! Hãn Thanh tuy được sự giáo huấn nhân từ của Bất Biệt Cư Sĩ nhưng chàng là con của Mông Diện La Sát nên cũng có phấn giống mẹ. Đối với những kẻ đại ác, mưu đồ phản nghịch như Song Tiên chàng chẳng bao giờ chịu nương tay! Chiêu Võng Trảo Thiên Ngư như chiếc lưới rộng, bủa lấy cả hai kẻ địch.
Hơi lạnh thấu xương của Hàn Băng Kiếm đã khiến Song Tiên phát hiện ra rằng có người tập hậu, nhưng không giúp họ thoát chết. Cả hai rú lên thảm thiết vì lưng đã bị đâm thủng lỗ chổ.
Hãn Thanh không dừng tay, lao vào đám cẩm y thị vệ, giết liền ba gã.
Uông Vô Hồi ngẩn người một lát cũng xông vào tàn sát, giúp Hãn Thanh làm cỏ ba gã cuối cùng.
Hãn Thanh tra kiếm không hề vấy máu vào vỏ rồi nói:
- Tại hạ là Hãn Thanh đây! Chúng ta đi thôi!
Tây Hạ Ma Đao hoan hỉ nghẹn lời, cùng Hãn Thanh nhẩy qua lan can. Kẻ ngựa, người lạc đà mau chóng phi nước đại rời Thạch Gia để không vướng víu với bọn sai nha trong thành.
Mãi sẩm tối, hai người mới ghé vào quán bên đường ăn uống và tâm sự.
Hãn Thanh hỏi ngay:
- Uông huynh có biết tình hình Hầu Phủ thế nào không?
Họ Uông lắc đầu:
- Tại hạ vâng lệnh ân sư đi Bắc Kinh tế mộ Hoàng Thân Chu Kích. Về đến Bảo Định mới nghe đồn đãi việc Hầu Gia bị Vu Sơn Sơn Chủ đánh rơi xuống vực thẳm. Sau đó đến Thạch Gia Trang thì bị Kim Khánh Song Tiên và tám thị vệ Đông Xưởng đuổi kịp!
Hãn Thanh bèn kể sơ qua việc mình rơi xuống vực, thoát chết và thu phục được Kim Mao Hồ Ly!
Chàng nóng ruột nên đề nghị:
- Tại hạ rất lo lắng cho an nguy của Hầu Phủ, muốn lợi dụng ánh trăng mà đi cả ban đêm!
Ma Đao tán thành:
- Tại hạ cũng có ý định đến thăm Hầu Gia. Nay gặp được tất chẳng chịu xa ngay. Chúng ta cùng đi!
Hai người rời quán, lên ngựa phóng nhanh. Trưa hôm sau nữa họ đến An Dương, Bạch Đà vẫn sung sức nhưng ngựa của Hãn Thanh đã kiệt sức. Chàng phải đội ngựa khác mà đi tiếp. Trước khi rời An Dương, Hãn Thanh tìm đến Phân Đà Cái Bang để hỏi thăm.
Nhận ra trúc phù, gã hóa tử sáu túi ngần ngại nói:
- Tướng mạo các hạ không hề giống Tiểu Hầu Gia sao lại có trúc phù của bổn bang?
Thì ra Cái Bang đã thận trong thông báo cho các địa phương biết trúc phù đang nằm trong tay ai! Hãn Thanh vội gỡ mặt nạ và nhận được câu phúc đáp:
- Bẩm Hầu gia! Đệ tử nghe ngóng được rằng đêm đầu tháng, Phù Dung phu nhân và các hộ pháp Độc Giáo tập kích một tòa gia trang cách Hầu phủ hai dặm, bị trúng mai phục bỏ mạng đương trường.
Gã phân đà chỉ ngập ngừng một lúc rồi nói tiếp:
- Nhưng hôm qua, tổng đà đã gửi mật lệnh báo động toàn bang:
Nếu gặp Hầu Gia thì bảo người đừng về Lạc Dương nữa phải cải trang trốn xuống phương Nam ngay!
Hãn Thanh kinh hãi hỏi:
- Vì sao vậy?
- Bẩm Hầu gia! Chiều ngày mười ba vừa rồi! Tổng Trấn Quân Vụ Hà Nam đã cầm thánh chỉ và dẫn ba ngàn quân đến vây chặt Hầu Phủ. Tổng Trấn tuyên đọc lệnh tru lục toàn gia và bị khép tội âm mưu phản nghịch! Các cao thủ của Hầu Phủ đã phá vòng vây đưa lão Hầu Gia và các vị phu nhân thoát đi, hiện nay không biết đang ẩn trốn ở đâu?
Hãn Thanh nghe như sét đánh bên tai, ngồi chết lặng ít lâu. Ma Đao vội an ủi:
- Mọi người vẫn còn sống là tốt lắm rồi! Trời đất mênh mông lẽ nào không có chỗ để sinh sống. Hay là Hầu Gia tìm cho ra họ rồi đưa về Tây Hạ?
Hãn Thanh gượng cười:
- Cảm ơn thịnh tình của Uông huynh! Tại hạ không hề xem tước hầu ra gì cả, nhưng việc này tất phải có bàn tay của Ngũ Long Bang nhúng vào. Nếu không thì Kim Khánh Song Tiên đâu chiêu dụ Uông huynh về với Vu Sơn Sơn Chủ?
Ma Đao gật gù:
- Chắc là không sai được! Nhưng chúng ta phải về Lạc Dương trước đã.
Có thể nhờ Cái Bang truy tìm tung tích của lão Hầu gia!
Hãn Thanh gật đầu nhưng lúc lên ngựa lại nói:
- Tại hạ đoán rằng họ đang ở Vận Thành. Chỉ có Thần Ngưu Giáo mới dám chứa chấp trọng phạm của triều đình mà thôi!
Hai người phi mau về hướng Tây Nam. Họ đi cả đêm, nhờ ánh trăng mười bẩy soi đường. Kim Mao Hồ Ly ngủ chập chờn trong lòng Hãn Thanh, không thèm để ý đến vầng trăng mờ nhạt trong mưa tuyết kia!
Trưa hôm sau, Hãn Thanh và họ Uông đến ngã ba Bình Sơn. Chàng dừng cương nói với Ma Đao:
- Tại hạ mong Uông huynh khai ân giúp cho một việc!
Họ Uông nhăn mặt:
- Đôi ta là sinh tử chi giao hà tất Hầu Gia phải khách sáo như vậy?
Hãn Thanh bèn kể cho gã nghe việc mình tình cờ nhận sự ký thác trước lúc lâm chung của Dạ Thần Chu Huy Diện. Nay Bang chủ Bá Dương Bang đang khắc khoải ngóng trông nhánh Tuyết Sâm,chàng muốn nhờ Ma Đao đưa giùm kỳ dược đến Nam Xương.
Uông Vô Hồi khẳng khái nói:
- Tại hạ xin đi ngay và sẽ sớm trở lại sát cánh với Hầu gia báo thù!
Hãn Thanh trao hộp tuyết sâm và ngân bài Bá Dương Bang cho họ Uông.
Chàng hẹn gã sau này sẽ liên lạc bằng đường dây của Cái Bang.
Tây Hạ Ma Đao đi về hướng Nam còn Hãn Thanh giục ngựa nhắm hướng Tây thẳng tiến!
Sáng ngày mười chín, Hãn Thanh có mặt trong cánh rừng rậm Vận Thành. Chàng chết lặng vì cảnh điêu tàn đổ nát và mùi máu tanh nồng nặc.
Hàng trăm xác người nằm rải rác khắp vùng trọng địa của Thần Ngưu Giáo. Phần lớn là những đệ tử mũ sắt của Quân giáo chủ.
Hãn Thanh nghiến răng lướt nhanh cố nhận mặt những người hy sinh.
Cả Tam, Tứ Phán Quan lẫn U Linh Tứ Vệ đều chết thảm vì Tiên Thiên Tam Muội chưởng pháp của Bộc Ly Bôi. Hãn Thanh không cầm được nước mắt, hận mình đã không giử được lời hứa cưới vợ cho Tứ Vệ để chúng chết đi như một kẻ cô quả!
Tiến sâu vào trong, Hãn Thanh phát hiện thêm thi thể của Đại Bạch và Tiểu Bạch. Chỉ có Vu Sơn Sơn Chủ mới đủ sức giết đôi thần vật này!
Quanh các tử thi còn có xác rắn, xác ong chứng tỏ Độc Giáo chủ Mạc Khải Thiều cũng tham gia cuộc tấn công.
Ngay cả con vật hiền lành thân thiết nhất với Hãn Thanh là Quái Mã Đà Nhi cũng không thoát chết. Hãn Thanh không còn chịu đựng được nữa, phục xuống khóc vùi.
Gần khắc sau chàng mới trấn tĩnh được, gom hết các tử thi lại mà hỏa thiêu. Hãn Thanh tìm được vài thùng dầu mỡ trong nhà bếp đỗ nát, nên mới có thể đốt xác trong thời tiết này!
Chàng ở lại đấy ba ngày kiên nhẫn châm thêm củi để các thi thể kia đều cháy thành tro bụi. Hãn Thanh giờ đây lặng lẽ như tượng gỗ nhưng đôi mắt long lanh sát khí. Nếu Kim Mao Hồ Ly không tha những con rắn về thì chàng cũng chẳng nhớ đến việc ăn uống!
Sáng ngày hai mươi hai, trong lúc chờ tử thi cuối cùng cháy hết, Hãn Thanh đi một vòng lục soát. Chàng mừng rỡ nhận ra áo trường bào của Tiểu Thuần. Nó chưa được giặt nên vẫn còn mùi hương da thịt nữ nhân.
Chàng gục mặt vào đấy mà nức nở. Khi ngẩng lên, chàng thấy Kim Mao Hồ Ly đứng bên cạnh, thò mũi ngửi vạt áo. Một ý niệm thoáng lóe lên, chàng ngồi xuống vuốt ve linh thú:
- Bạch Ly! Phải chăng ngươi có thể đánh hơi, tìm ra đường đi của chủ nhân chiếc áo này?
Không biết nó có hiểu hay không mà kêu lên lanh lảnh, Hãn Thanh vội trở ra lấy bọc hành lý, thắng yên cho tuấn mã rồi bắt đầu thử thách tài năng của Hồ Ly.
Chàng dí áo Tiểu Thuần vào mũi nó rồi bảo:
- Bạch Ly! Hãy giúp ta tìm lại người thân của mình!
Chàng đặt tên cho nó là- Bạch Ly- và con vật đã quen nghe như vậy!
Kim Mao Hồ Ly hít ngửi một lúc, quay lưng đi về phía Đông. Nó vừa đi vừa đánh hơi nhưng tốc độ khá nhanh. Đường rừng chật hẹp, Hãn Thanh đành để ngựa lại rồi lướt theo Linh Hồ. Được hơn dặm, nó rẽ trái đi thẳng ra đường quan đạo phía trước.
Hãn Thanh dặn con vật đứng chờ mình rồi quay lại Tổng Đàn Thần Ngưu Giáo lấy ngựa. Chỉ gần khắc sau chàng và Bạch Ly đã tiếp tục cuộc truy tìm.
Cuối cùng con vật khôn ngoan dẫn chàng rẽ vào đường quan đạo đi Lạc Dương. Nhưng chỉ được một đoạn nó đã mất dấu, vì đường phủ tuyết, bị vó ngựa qua lại đạp thành bùn.
Hãn Thanh mừng rỡ đoán rằng Tiểu Thuần một mình chạy ngược trở về Hầu Phủ vì nàng không biết phải đi đâu!
Trong đoạn đường rừng Hãn Thanh đã phát hiện chỉ có dấu vết của nàng mà thôi! Như vậy những người kia đã đi hướng khác. Chàng gọi và Bạch Ly nhẩy ngay lên lưng ngựa, nằm ngọn lỏn trong lòng Hãn Thanh ra roi phi nước đại, chiều tối mới đến Lạc Dương. Chàng đau đớn nhận ra hình của lão Hầu Gia được dán khắp các góc phố. Hãn Thanh được xem là đã chết nên không có tên trong cáo thị truy nã!
Chàng dừng cương trước tòa Vạn An lữ điếm vào đứng trước mặt chưởng quỉ Lục Tâm Hiền. Lão đon đã hỏi:
- Xin tráng sĩ cho lão biết tánh danh để ghi vào sổ?
Chàng hững hờ đáp:
- Mộ Dung Hãn Thanh!
Họ Lục há hốc miệng, trợn mắt nhìn chàng. Hãn Thanh hạ giọng:
- Tiểu điệt mang mặt nạ!
Giọng nói quen thuộc đã xóa tan nghi ngờ. Lão run rẩy nói:
- Tạ Ơn trời phật!
Lão đích thân đưa chàng lên phòng trên lầu chót. Đây chính là nơi ẩn thân của Nhất Bất Thông Chu Minh lúc trước.
Vào đến nơi, Hãn Thanh lột mặt nạ và Lục Tâm Hiền sa lệ Ôm lấy chàng.
Hãn Thanh hỏi ngay:
- Lục thúc có biết mọi người đang ở đâu không?
Lục Tâm Hiền buồn bã lắc đầu:
- Chẳng hề có âm hao gì cả! Nhưng nghe nói họ đều an toàn!
Hãn Thanh lắc đầu kể lại thảm cảnh ở Vận Thành.
Canh ba đêm ấy, Hãn Thanh mặc áo dạ hành. Ôm Bạch Ly lướt về phía sau tường Hầu Phủ.
Nhà cửa còn nguyên vẹn nhưng không một bóng người. Ngoài cửa chính cũng chỉ có vài tên lính gác cho có lệ. Quan quân đã lục soát từng tấc đất, lấy đi toàn bộ những vật quí giá trong Hầu Phủ!
Hãn Thanh vượt tường êm thắm, đây là lần thứ hai chàng phải đột nhập vào chính nhà mình như một tên đạo chích.
Chàng thả Kim Mao Hồ Ly xuống mặt cỏ. Con vật lao thẳng đến hòn giả sơn to lớn ở giữa vườn. Chạy quanh và rít lên nho nhỏ, như khẳng định với chủ nhân rằng Tiểu Thuần đã đến nơi này.
Hãn Thanh hân hoan lướt đến, nhưng lòng thầm thắc mắc vì sao Tiểu Thuần lại biết vị trí mật thất? Hay là chính lão Hầu Gia đã tiết lộ cho cháu dâu trưởng của dòng họ Mộ Dung?
Chàng vận công quan sát, nhận ra cửa vào vẫn nguyên vẹn, liền khởi động cơ quan để mở ra. Con chồn trắng mau mắn lao xuống trước như để dẫn đường. Hãn Thanh mở cánh cửa đá thứ hai, thất vọng vì không thấy đèn nến gì cả. Chàng bật hỏa tập lên soi đường và giật mình vì tiếng nam nhân quát hỏi:
- Các hạ là ai mà biết đường vao chốn này?
Hãn Thanh nhận ra giọng của nội tổ vội lột mặt nạ ra, khóc gọi:
- Gia gia! Tiểu Tôn đây mà!
Có tiếng hỏa tập lách cách hòa với tiếng gọi thiết tha của Tiểu Thuần:
- Tướng công!
Hãn Thanh chạy đến phục xuống ôm đùi Mộ Dung Cẩn, sụt sùi:
- Làm sao gia gia vẫn còn ở chốn nguy hiểm này?
Lão Hầu Gia vuốt tóc chàng, cười khà khà:
- Chỗ nguy hiểm nhất lại là chỗ an toàn nhất! Hơn nữa ta không thể xa nội tổ mẫu của ngươi được. Vì vậy ta bảo Thuần Nhi cõng ta về lại nơi này!
Chàng đứng lên, ôm lấy ái thê vuốt ve tấm lưng thon gầy.
Mộ Dung Cẩn đã phát hiện Kim Mao Hồ Ly, liền hỏi:
- Thanh nhi! Con chồn trắng này ở đâu ra thế? Ta nghe bọn Tề Phi Tuyết kể rằng ngươi bắt con chồn lông vàng óng cơ mà?
Hãn Thanh ngượng ngịu đáp:
- Bẩm gia gia! Nó chính là Kim Mao Hồ Ly đấy! Do tiểu tôn rửa sạch lớp bụi vàng nên mới lộ ra màu lông trắng.
Chàng lại hỏi:
- Bẩm gia gia! Những người kia thế nào rồi?
Mộ Dung Cẩn vỗ trán bật cười:
- Chết thực! Vì quá mừng nên ta quên mất. Họ đang ở trong gian chứa châu báu. Chu Minh đoán rằng ta đã về đây nên dẫn mọi người về theo. Đêm nay, ta không ngủ được nên mới lần ra đây, bắt Tiểu Thuần hầu trà.
Hãn Thanh hoan hỉ phi thường, lướt ngay đến chốn thạch thất, lần tìm những nút lồi bí mật. Chàng đẩy cánh cửa hé ra, nhìn vào trong. Dưới ánh tọa đăng vàng võ là những gương mặt tiều tụy của những người chàng mong đợi.
Trừ Hồng Hương và Lạc Bình, ai cũng băng bó đầy mình chứng tỏ thương thế không ít.
Hãn Thanh khép cửa lại, trở ra ngồi xuống ghế cạnh Mộ Dung Cẩn và uống chén trà Tiểu Thuần mới rót.
Lão Hầu Gia nói tiếp:
- Bọn môn nhân Hầu Phủ và U Linh Cốc phân tán trong các nhà nông dân hai bên bờ Lạc Thủy. Còn phe Thần Ngưu Giáo thì rút về căn cứ thứ hai ở gần Hoa Sơn.
Trên vách thạch thất gần đấy có một chiếc gương soi mặt toàn bằng pha lê tráng thủy của người Bồ Đào Nha. Giờ đây nó phản chiếu ánh nến lấp loáng như trăng vàng.
Kim Mao Hồ Ly không phân biệt được thực hư, ngửa cổ nghêu ngao những tiếng cao vút và du dương.
Hãn Thanh vội đưa tay quàng qua lưng nàng giữ chặt lấy. Chàng chăm chú nhìn nét mặt ái thê, thấy nàng nhắm mắt lắng nghe miệng mỉm cười an lạc. Bản thân Hãn Thanh cũng nhận được tác dụng của âm thanh kỳ diệu kia.
Hồn chàng lâng lâng bay bổng, bao nhiêu ưu tư thù hận bỗng tan biến cả.
Hai khắc sau Bạch Ly mới chấm dứt bài hát của mình, nhẩy lên lòng Hãn Thanh mà lim dim.
Tiểu Thuần cũng mở mắt ra, nhìn chàng cười bảo:
- Tướng công! Trung Nguyên quả là sóng gió, hay là sang xuân chúng ta dọn nhà ra Kim Ngọc Bồng Lai Đảo ở cho xong. Dẫu sao chàng cũng đã hứa với Thạch đảo chúa rằng mỗi năm sẽ cho thuyền ra tiếp tế một lần!
Hãn Thanh mừng đến rơi lệ, hôn lên má nàng:
- Ôi Tiểu Thuần! Nàng đã phục hồi ký ức được rồi!
Tiểu Thuần xấu hổ:
- Tướng công kỳ quá, không sợ gia gia cười sao?