07. Cừu nhị quỷ - Phần 03
3
Loạt truyện “ân quỷ” báo ơn tuy xuất hiện không ít nhưng phần lớn đều rất khô khan và khó có thể làm người đọc cảm thấy hứng thú. Những loạt truyện như vậy, nói đi nói lại cũng chỉ có duy nhất một câu cửa miệng là “có ma” mà thôi. Vốn dĩ anh “đi cửa sau” may mắn thì công thành danh toại, còn giả sử không may gặp người khảng khái phẫn nộ không tiếp đãi, lúc ấy ai còn tin vào lời nói ma quỷ của anh nữa. Vì thế trong nhân gian lưu truyền câu chuyện kỳ quái nơi trường thi mục đích cũng chỉ để kể lại chuyện oan hồn báo ân báo oán. Có những trường hợp, một người nào đó vốn thông tường kinh sử, khi vào phòng thi hào hứng làm bài, thế nhưng trước khi rời phòng thi lại nộp giấy trắng, hoặc làm bài xong rồi đột nhiên bị đổ mực đầy trang giấy, đó là những việc thường tình. Sợ nhất là vào phải phòng thi mà có người tự nhiên phát điên, nhảy nhót, hò hét ầm ĩ, năm bảy lính cũng không đối phó nổi. Còn có chuyện có người trong phòng thi vắt một sợi dây thừng lên xà nhà nhà định tự sát. Đương nhiên đây không phải việc làm quậy phá từ phía giám thị, cho nên người ta thoái thác trách nhiệm cho những oan hồn về báo thù, mà trách nhiệm đó sau cùng lại trút lên đầu thí sinh hoặc tổ tông của họ đã từng làm chuyện thất đức, hại người.
Ghi chép chuyện chiêu hồn ma về, sớm nhất là vào thời Minh - Thanh, trong tác phẩm Tam cương thức lược của Tế Nhân Đổng, sau đó là ở Dạ đàm tùy lục của Nhàn Trai Thị và Bắc đông viên bút sơ biên của Lương Cung Thìn. Mặc dù việc chiêu hồn ma về không chính thức được coi là một tập tục tế lễ bắt buộc, nhưng với các sĩ tử việc làm ấy đã trở thành một điều không thể thiếu trong các khoa thi. Cho nên, khi tuần phủ Giang Tô, chủ thí là Trương Bác Hành không tiến hành chiêu gọi hai hồn ma, việc làm ấy đã được tác giả Tiền Vịnh của Lý viên tùng thoại cho đó là hào kiệt. Trong Gia đại nhân của Lương Cung Thìn cũng kể lại một câu chuyện tương tự ở Quảng Tây, khi Lương Chương Cự là chủ thí cũng không cho chiêu gọi hai hồn ma. Ở Tiền Vịnh, khi Trương Bác Hành làm chủ thí được người đời nhắc đến và cho đó là dị số bởi trong trường thi không những có thí sinh bị bệnh hoặc phát điên mà chuyện chết người cũng thường xuyên xảy ra.
Trước khi nói về chuyện chết người, có lẽ chúng ta cũng không nên ngần ngại mà bỏ qua việc tìm hiểu một chút về tình hình trường thi. Cận Nhân Mã trong tác phẩm Thạch ốc tục trầm mạnh dạn đưa ra những so sánh rất cụ thể, đối với những miêu tả quý giá này, tôi tiến hành đối chiếu chúng với những tài liệu khác dưới đây:
Các tỉnh tổ chức thi tại trấn phủ của mình được gọi là Cống viện. Cống viện là một khu vực rộng lớn, nghe nói Cống viện Giang Nam được coi là lớn nhất (đó là một mảnh đất rộng ở sau miếu phu tử Nam Kinh, giờ đã trở thành chợ văn hóa cổ), có thể tụ hợp hơn hai mươi nghìn thí sinh. Ở Cống viện này xây lên từng hàng, từng hàng những dãy nhà đơn sơ, có đến trăm dãy nhà san sát nhau như vậy, mỗi dãy đánh số tới một trăm và được sắp xếp theo thứ tự “Thiên tự văn”, “Thiên địa huyền hoàng”... Ví dụ như chữ “thiên” là số một, cứ thế đánh số thứ tự nối tiếp nhau đến hết. Mỗi phòng nhỏ này được gọi là trường ốc, cũng gọi là phòng thi, có cái gọi là phòng số, đặt số phòng ở nhà tù cũng cùng một suy luận đó. Mà có tất cả bao nhiêu phòng? Chiều cao chỉ bằng đầu người, chiều rộng thì chỉ cần anh thò chân ra một chút là đụng đến tường đối diện, kích thước chiều sâu thì nhiều một chút, bên trong có thể dựng được một chiếc giường làm theo lối phương Bắc, đã là giường thì dùng để ngủ, tuy không rộng rãi lắm nhưng có thể dựa đầu vào đó được, chân có thể duỗi thẳng ra, cũng có khi phải duỗi ra bên ngoài cửa phòng thi. Giường này dùng để ngồi khi làm bài thi, như thế cũng là rộng rãi lắm rồi. Nói tóm lại, nếu về phương diện xa hoa mà suy đoán, quy mô của những phòng thi này tương đương với phòng đơn thường gặp bây giờ. Phòng thi không có cửa, chỗ cửa vào có một miếng gỗ riêng biệt, nó được dùng để kê bài thi khi viết và cũng là bàn dùng để ăn cơm. Bên trong treo một tấm rèm nhỏ cũng nhằm mục đích giúp phân biệt là trong hay ngoài. Các thí sinh vẫn nói đùa với nhau rằng, đây là “nụy ốc phong quang”, trong đời phải may mắn lắm mới có dịp tá túc vài hôm.
Đến mùa thu tháng Tám hàng năm, nhân tài trong toàn tỉnh lại tập hợp đến đây thi ba đợt, mỗi đợt ba ngày. Trước ngày thi một ngày thí sinh được vào trường thi, sáng sớm hôm đó, thí sinh xem số thứ tự, mang hành lý, giống như hành khách chen chúc lên tàu trong dịp Tết, xếp hàng dài để đợi vào trường thi. Thường có câu “tú tài liễu kiến binh, hữu lý thuyết bất thanh”[150]. Bắt đầu từ khoảng thời gian ở Cống viện, đại đa số tú tài đều phải tìm cách khôn khéo mà kết giao với lính gác. Những lính gác đeo dao bên mình, dáng vẻ rất oai phong. Ngày thường, các cử nhân tú tài ngạo mạn, giờ đây trước mặt lính gác lại trở nên ngoan ngoãn chẳng khác gì đứa trẻ lên ba chỉ biết gật, lắc liên hồi, bơ phờ dưới cái nắng gay gắt, binh lính gọi họ đến uống nước, ngay cả buồn đánh hơi cũng chẳng dám. Cứ như thế, theo đúng quy trình kiểm tra, các cử nhân tú tài bị khám xét hành lý từng người, từng người một. Và các binh lính cũng nhân cơ hội này để thể hiện thái độ coi thường, khinh miệt đối với các tú tài, cố ý kiểm tra một cách tỉ mỉ, đến nỗi khám xét cả những chỗ riêng tư hay bắt cởi bỏ quần áo.
[150] Nghĩa là: tú tài gặp lính có lý cũng khó giải thích rõ ràng.
Trong lịch sử trường thi ở Nam Kinh có một câu chuyện có thật kể ra không khỏi khiến bạn đọc cười ra nước mắt. Có một khoa thi, một thí sinh bị đám binh lính tìm ra cái ví giấu cẩn thận ở dưới hậu môn. Khi bị phát hiện, anh ta đến chết cũng không chịu nhận, cố tình biện hộ rằng cái ví đó là do người ở đằng sau bỏ vào. Đám binh lính không hiểu sự tình, muốn tìm xem rốt cuộc đằng sau là người nào, cuối cùng người đằng sau cười lớn, đáp: “Phải, cứ cho là của ta để vào đó, nhưng sao nó không là để bên trên, hay bên dưới mà lại nhằm vào đúng chỗ đó mà để? Hơn nữa, tại sao nó lại cứ ở phần hậu môn mà mãi không chịu đi chỗ khác vậy?” Nói xong lại đắc chí cười ha ha. Lúc đó, đại đa số đám binh lính thích bỡn cợt vẫn không hiểu sự tình ra sao. Nhưng niềm vui đến với anh ta chưa được bao lâu thì phía sau lại tiến đến một nhóm khác, tiếp tục lục soát, làm một lúc họ cũng khiến cái phần giữa anh ta nhô lên cao như vậy. Đúng lúc đó, Tả Tông Đường đang làm trợ lý tại đó, dùng một chân đá cho tên chỉ huy của đám binh sĩ vốn cao to hơn ông ta lăn lộn trên mặt đất (có ghi chép khác cho rằng ông ta tát vào miệng tên chỉ huy đám binh sĩ một cái hoặc đá một cái rồi mắng thêm câu: “Đồ khốn nạn!” Có lẽ lúc đó trong thâm tâm ông Tả Tước gia kia còn mong muốn đá cho cả đám binh lính kia lăn lộn khắp nơi trên đất). Nhưng có điều lạ lùng là sao ông ta lại bực dọc và hận thù dữ dội đến như vậy? Bây giờ nghĩ lại, tôi đoán rằng trong thời gian ứng thí trước kia, ông ta cũng từng chịu sự mắng mỏ, sỉ nhục ghê gớm của đám binh lính cho nên nay ngồi ở cương vị này, phải chứng kiến cảnh tượng trước mặt, ký ức bỗng chốc hiện về, mối thù xưa trỗi dậy sâu sắc đến nỗi quên hết cả địa vị và tư cách cao quý của mình. Nói tóm lại, chỉ sau khi kiểm tra đã đạt đủ tiêu chuẩn, các thí sinh mới được đưa đến vị trí của mình. Khi hoàng hôn buông xuống, thân thể tuy đã mệt nhoài, mặt mày ủ rũ, nhưng cũng phải cố cổ vũ mình lấy tinh thần chuẩn bị bước vào vòng thi cử. Bởi ngay tối hôm đó là phát đề thi, cũng có nghĩa là bắt đầu tính thời gian làm bài.
Thí sinh đã vào phòng thi thì phải ở đó làm một mạch đến hết ba ngày ba đêm, ăn ngủ, đại tiểu tiện cũng ở đó, cộng thêm cái nóng oi bức của tiết trời tháng Tám khiến cho phòng thi ở đây bốc mùi hôi thối. Đặc biệt là ở vùng nóng ẩm như Giang Nam, ban ngày ruồi bay loạn xạ, tối đến muỗi tấn công ào ào, không khí giống như chốn lao tù. Nhưng tù nhân trong tù đâu cần động não suy nghĩ để làm văn làm thơ, vì vậy cử nhân tú tài tương lai trên thực tế rất khổ và thậm chí còn khổ hơn cả tù nhân, vì không được quyền tự do tự tại.
Từ những bức ảnh cũ của Cống viện Bắc Kinh cho phép chúng ta hình dung rõ hơn về những căn phòng ẩm thấp này. Địa chỉ cũ của Cống viện Bắc Kinh hiện là Học viện xã hội học Trung Quốc, bên cạnh có ngõ hẻm vẫn được bảo tồn và được đặt tên là “Cống viện”. Vị trí lúc bấy giờ là gần cửa phía đông hẻo lánh và hoang vắng, nhưng nay đã trở nên sầm uất, nhộn nhịp hơn rất nhiều. Xem những bức ảnh cũ được lưu giữ lại, những căn phòng nhỏ hẹp, ẩm thấp, sân nhỏ bẩn thỉu làm người ta khó có thể tưởng tượng nổi đây là “long môn” một bước lên trời của các nhà tri thức. Cống viện ở nơi đô thành còn như thế, các trường thi ở tỉnh, phủ, châu, huyện chỉ xếp phía sau mà thôi. (Ghi chép của Giới Xuyên Long khi nhìn thấy hai nghìn sáu trăm phòng thi chi chít đặt ở một chỗ, “không những không mang lại cho người xem cảm giác tráng lệ, mà tương phản hoàn toàn, đó là sự lạnh lẽo, hoang mang đến rợn người”.) Từ hình ảnh này có thể suy đoán ra chế độ thi cửa thời xưa “buồn tẻ”, “chán nản” đến mức nào. Nhà văn Nhật này hiểu về văn hóa Trung Quốc còn hơn cả tiền bối của Kanier. Cống viện Bắc Kinh vẫn còn chút lợi thế về điều kiện tự nhiên, đó là khí hậu mát mẻ, trừ khi gặp phải thời tiết nóng bức, oi ả của tháng Tám, cho nên ma quỷ ở đây xuất hiện nhiều nhất ở cửa ngõ phía nam.
Vào thời nhà Thanh, năm Đạo Quang thứ mười bảy, tức năm Đinh Dậu (1837) thi xã tại Phúc Kiến, thời tiết nóng bức, khắc nghiệt khác thường, trong ba vòng thi có nhiều sĩ tử mắc bệnh và bị ma ám. Quyển tam ký Li biêm hiên chất ngôn[151] của Đới Liên Phân có ghi chép lại câu chuyện thi Hương tại Nam Kinh vào năm Đinh Mão. Truyện kể rằng, vào đợt thi đó có một nửa số thí sinh bị say nắng và có hơn bốn mươi người bị chết trong phòng thi. Người chết nhiều như vậy nên ở trường thi này, chuyện ma quỷ hiện về đòi mạng đương nhiên là nhiều rồi.
Cứ thi xong một môn người ta lại thấy xác của mấy thí sinh được khiêng ra từ Cống viện, cộng thêm mấy vị mắc chứng tâm thần cũng được dẫn ra theo. Tạm gác chuyện này qua một bên, phải điều tra nguyên nhân sự cố để còn có cái cớ dẹp tan mọi phẫn uất trong lòng người dân. Muốn giảm bớt những rắc rối này, họ bèn đưa ra lý do sẵn có là oan hồn báo oán hiển linh đòi mạng, lấy lý do ấy thì người dân còn biết nói gì đây? Nếu người nhà có hỏi tiếp, giải quyết không xong nữa thì đưa chuyện đó vào “cửa vi đoạt mệnh lục”, hoặc viết thành một đoạn kịch nhỏ, cũng có khi chuyển thể thành tiểu thuyết Mãn thôn thính thuyết Thái Trung Lang[152]. Song chuyện ma báo thù rốt cuộc cũng chỉ là cớ của quan phủ và quan trọng hơn nữa là mục đích xoa dịu sự phẫn nộ của quần chúng đối với việc vô tình bạc nghĩa ấy thôi.
[151] Nghĩa là: đặc tính chữa trị của kim li.
[152] Nghĩa là: cả làng nghe chuyện Thái Trung Lang.