14. Xác chết sống lại - Đọc Thuyết cương - Phần 02
3
Xác chết xuất hiện hiện tượng dị biến, một thân sĩ, một cô gái tốt bụng bỗng chốc có thể trở thành một con quỷ chuyên đi gây hại, thậm chí nó có thể để lại những hậu quả nghiêm trọng, vậy trách nhiệm này nên thuộc về ai? Tuy thường ngày mọi người đều tin thần tin quỷ, nhưng đến lúc này lại nhận định “người chết vô tri”, không thể chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Vậy thì sẽ giống như đối xử với những kẻ mắc bệnh thần kinh, người ta sẽ chỉ trích người nhà của người chết lơ là trông coi, như vậy quả không hợp tình hợp lý, vốn dĩ người chết phải ngoan ngoãn nằm ở nhà, và chắc chắn không thể dùng dây thừng cột người ta lại được. (Cách này không phải không thể thực hiện, nghe nói ngày xưa người phương Bắc cũng có tập tục “dùng thừng buộc chân” người chết khi mai táng, đó là khi người chết được đặt lên linh sàng thì dùng thừng buộc hai chân lại.) Vì thế, khi không mong muốn một việc xảy ra, người ta cần tìm một số nguyên do, vừa phải giúp người chết thoát khỏi trách nhiệm, vừa phải bảo vệ danh dự của người chết, Trung Quốc từ trước tới nay không thiếu những nhân tài như vậy, và thế là họ sáng tạo ra vô số những quan điểm, trong đó có ảnh hưởng lớn nhất là cách nói “quỷ mượn xác người”.
Loại xác chết di động thông thường sẽ đuổi theo người sống một cách vô thức, nhưng cũng có những trường hợp ngoại lệ, chúng còn gây ra những việc khác nữa, ví như những việc trai gái trăng hoa chẳng hạn. Trong Phong tục thông nghĩa của Niên Ứng Thiệu, cuối thời Đông Hán có ghi lại một loại xác chết di động như sau: “Trạm dịch ở cửa Tây huyện Nhữ Dương, quận Nhữ Nam thường xuyên có ma, khách phương xa đi ngang qua ghé vào ở lại đa phần đều tử vong, hoặc nếu không chết thì cũng bị cắt mất tóc, sau đó trở thành kẻ tâm thần. Trong quận có một viên quan nhỏ tên Trịnh Kỳ Hưu, hôm đó đánh xe ra ngoài làm công vụ. Đi đến đoạn cách trạm dịch khoảng sáu bảy dặm, anh ta gặp một người phụ nữ xin đi nhờ xe. Trịnh Kỳ Hưu giả vờ suy nghĩ trong giây lát rồi để người phụ nữ lên xe. Đi đến trạm dịch, anh ta định dắt người phụ nữ lên gác qua đêm ở đó. Tên lính canh nói trên gác rất độc, không thể lên. Nhưng Trịnh Kỳ Hưu không nghe, khăng khăng đòi lên đó. Đêm hôm đó, Trịnh Kỳ Hưu đã có một đêm mây mưa vui vẻ với người phụ nữ xinh đẹp. Trời chưa sáng, Trình Kỳ Hưu lại phải lên đường, đến khi người của trạm dịch lên gác quét dọn, chỉ thấy xác một người phụ nữ đang nằm ở đó, người này bèn vội vã báo cáo trạm trưởng. Trạm trưởng triệu tập thuộc hạ đến điều tra, hóa ra cách trạm dịch tám dặm về phía tây bắc có gia đình họ Ngô, bà vợ vừa chết, nửa đêm khi chuẩn bị chôn, thì đèn đuốc bỗng nhiên tắt hết, khi đèn được thắp lại thì xác chết đã không còn ở đó nữa. Việc nhà họ Ngô đến lãnh xác về không nói nữa, mà nói về Trịnh tiên sinh, khi đi được khoảng vài dặm, anh ta bỗng thấy đau bụng, khi đến trạm dịch Lợi Dương ở Nam Đôn, cơn đau trở nên dữ dội, vài giây sau Trịnh Kỳ Hưu tắt thở.
Câu chuyện này khác với những câu chuyện giao cấu giữa người và ma khác, người phụ nữ này không phải là hồn ma, mà là một xác chết, sau khi người ta mang xác bà về nhà, ngoài sự buồn bã vì mất mặt ra, có lẽ cũng chẳng có hành động thương xót nào dành cho bà nữa. Cái chết của Trịnh Kỳ Hưu chắc chắn có quan hệ với xác chết của người phụ nữ này, nhưng gác trên của trạm dịch vốn cũng không phải nơi thanh tịnh, có người nói trên đó có hồn ma luôn thừa cơ hại người có lẽ cũng không phải vô lý, thậm chí có thể căn cứ vào những ám thị trong từ ngữ để suy luận, một loạt những hành vi rời khỏi chỗ nằm, xin đi nhờ xe, giao cấu với người sống của xác chết này đều là do sự thao túng của con ma trên gác trạm dịch.
Sự việc này đã cung cấp cho con người một “ví dụ thực” trong việc tìm hiểu nguyên nhân các xác chết di động, không phải bản thân xác chết tác oai tác quái, mà là một con quỷ khác lợi dụng xác chết để làm trò ám muội, cũng có nghĩa là “quỷ mượn xác người” đi quấy phá. Đây thực sự là lý do tuyệt hảo để giải thích về trường hợp các xác chết sống lại, sau này nó được áp dụng khá phổ biến, và người tiết lộ nó sớm nhất có lẽ là Hồng Mại thời Nam Tống.
Di kiên đinh chí, quyển năm có chương Người Cú Dung, một sai nha phủ Kiến Khang đi làm công vụ bên ngoài, anh ta phải trở về gấp nên nửa đêm vẫn phải dong duổi trên đường. Lúc đó đang vào mùa đông lạnh giá, anh ta đi đến đất Cú Dung, nhìn thấy dưới chân núi có một ngôi nhà nhỏ vẫn sáng ánh lửa, bèn ghé qua xin sưởi ấm. Sau khi vào nhà, anh nhìn thấy bảy, tám người dân trong thôn đang trông coi một xác chết nằm trên đất, hóa ra người đó thắt cổ chết trong căn nhà này, người dân trong thôn hạ người đó xuống, đang đợi quan phủ tới nghiệm xác. Viên nha dịch thấy mấy người dân làng người thì ngủ, người thì ngồi, bèn ngồi ở đó một lát rồi lại tiếp tục lên đường. Nhưng vừa ra đến cửa, anh có cảm giác như có người trong nhà đi theo mình. Anh nha sai đi nhanh, người phía sau cũng đi nhanh theo. Cứ như vậy, người trước người sau đi được hơn hai dặm. Nhìn thấy phía trước là một con rạch, anh nha sai nhảy phắt qua bờ bên kia, còn người phía sau thì “òm” một tiếng cả đầu và người rơi xuống con rạch. Anh nha sai nhảy xuống vớt anh ta lên thì người này đã chết. Hóa ra, đi theo anh chính là xác chết treo cổ kia! Và Hồng Mại có giải thích rằng: “Đó là “cưỡng hồn”, mượn xác người để đi gây hại.” “Cưỡng hồn” chỉ một hồn ma khác, chứ không phải hồn của xác chết.
Ý kiến này của Hồng Mại về xác chết di động cũng được khẳng định lại trong một câu chuyện khác, đó là chương Chứng quả tự tập nghiệp, quyển sáu, cuốn Di kiên chi đinh. Một người họ Vương là người có học tại đất Minh Châu. Vương mỗ thuê một căn phòng yên tĩnh tại chùa Chứng Quả để đọc sách chuẩn bị ứng thí kỳ thi năm nay, trong chùa chỉ có ba, bốn vị hòa thượng. Đêm hôm đó, tại một ngôi làng cách chùa khoảng mười dặm, người ta làm pháp sự siêu độ cho một vong hồn. Đến nửa đêm, Vương mỗ tắt đèn đi ngủ. Bỗng nhiên có người gõ cửa, Vương mỗ hỏi ai, hóa ra là một người bạn cũ, bèn vội vàng mời người đó vào phòng. Người bạn cũ nói: “Vì đi đường vội quá nên không kịp thuê phòng trọ, muốn qua đây ngủ nhờ một đêm.” Vương mỗ vui vẻ giữ người đó ở lại, còn bảo người đó lên giường cùng nằm với mình. Nói chuyện một lúc, người bạn mới vừa cười vừa nói: “Có một việc tôi không thể không nói thật với huynh, xin huynh đừng sợ. Tôi đã chết được hơn một năm rồi, hôm nay đến đây là vì thực sự có việc cần nhờ huynh giúp.” Lúc đó Vương mỗ thực sự sợ đến toát mồ hôi lạnh, nhưng không còn cách nào khác, anh đành phải tiếp tục nghe người bạn nói. Người bạn tiếp: “Sau khi tôi chết, vợ tôi đã cải giá, quẳng lại đứa con thơ không biết sống ra sao. Lúc tôi còn sống có tích cóp được hai trăm lạng tiền dạy học, chôn ở một chỗ, xin huynh hãy nói cho con trai tôi biết.” Nói xong, người đó liền đứng dậy, giơ tay chào biệt. Vương thấy vui mừng vì người bạn đã ra đi, nhưng trong bóng tối anh vẫn có cảm giác như bên cạnh mình vẫn có người nằm đó. Tâm trạng lo lắng, khiến cả đêm anh không sao ngủ được, khó khăn lắm mới trải qua được đêm hôm đó. Sáng hôm sau, anh vội mở cửa chạy ra ngoài. Đúng lúc các hòa thượng cũng trở về, họ đang nói về chuyện lạ xảy ra hôm qua, kinh đã đọc đến mười lần, đến lúc khiêng xác nhập liệm, nhưng đưa tay sờ, dưới tấm chăn hoàn toàn trống không, xác chết không biết đã chạy đi đâu mất. Nghe vậy, Vương mỗ dẫn mấy vị hòa thượng đến căn phòng của mình, thấy một người đang nằm thẳng trên giường, người này chính là ông cụ vừa mới chết.
Có bạn từ phương xa tới, thì dù người đó có mượn xác để tới, ta vẫn phải vui mừng như khi người đó còn sống, đó chính là “tử hữu”. Nhưng sau khi căn dặn xong, bạn từ biệt ra đi, để lại cái xác mượn ở đó, hậu quả của việc không gánh trách nhiệm này vô cùng nghiêm trọng. Câu chuyện này còn có một phiên bản khác, đó là Thặng huyện sơn am trong Di kiên chí bổ, quyển mười sáu, người bạn căn dặn xong, không chào hỏi một câu mà lặng lẽ rời đi. Ai ngờ, xác chết bị bỏ lại lại vẫn còn chút linh khí, gây ra những phiền phức lớn, chủ nhân ngủ ngáy, xác chết cũng ngáy theo, chủ nhân mệt mỏi nghiêng người tựa vào tường, xác chết cũng làm thế nửa ngồi nửa nằm, chủ nhân kéo màn ra ngoài khạc nhổ, xác chết cũng bắt chước khạc nhổ theo... Chủ nhân làm gì, xác chết làm nấy, như hình với bóng. Lúc này người chủ mới thấy có gì đó không ổn, bèn nhẹ nhàng xuống giường chạy ra ngoài, xác chết kia cũng chạy theo sau. May mà vị này biết xác chết di động không thể quặt hay chuyển hướng được, bèn chạy vòng một đoạn, xác chết cứ chạy thẳng, đâm sầm vào cột nhà rồi không động đậy nữa. Kết luận là: “Ma cũ muốn tìm chỗ nhờ vả, nên mượn xác người mới chết để tới. Tóm lại, hồn ma có thể trở lại chỗ cũ, nhưng xác ma mới lại không có nơi dựa giẫm, nên mới dẫn đến chuyện lạ như vậy.”
Quan điểm này của Hồng Mại nhận được không ít sự đồng thuận của các thế hệ về sau, điển hình nhất là Đông Hiên, người đời Thanh. Tác phẩm Thuật dị ký của ông có kể câu chuyện về “xác chết di động”, câu chuyện đã thuật lại rất hình tượng và rõ ràng về việc ma mượn xác người. Câu chuyện như được ghép từ những “cảnh lừa bịp” trong dân gian, nó có nhiều trắc trở hơn so với các câu chuyện về xác chết sống lại:
Trong một ngôi nhà ở một huyện thuộc tỉnh Sơn Đông có một xác ma di động, ngày ngày đều đi hại người. Thời Khang Hy có hai viên nha dịch cùng giải một phạm nhân đi qua nơi đó, đúng lúc trời mưa to, xung quanh không nơi nào có thể dừng lại trú tạm. Đến nửa đêm, phía xa thấp thoáng có ánh lửa yếu ớt như ánh đèn, ba người vội vàng qua đó. Đó là một ngôi nhà rách nát, trước sau hai gian, bên trong không một tiếng người. Ba người đi vào trong nhìn ngó, một người phụ nữ đang ngồi quay lưng lại phía đèn khóc rưng rức. Một người cất tiếng xin ngủ nhờ ở đây một đêm. Người phụ nữ nói: “Chồng tôi vừa mới qua đời, xác vẫn đang ở đây, chỉ sợ các người ở lại không yên tâm.” Ba người vẫn đồng ý trú lại, ngồi nghỉ bên cạnh xác chết. Hai viên sai dịch đã ngủ say, còn tên phạm nhân thấy lo lắng, trăn trở không sao ngủ được. Lúc này thấy xác chết bỗng nhiên đứng dậy, phẩy tay thổi tắt cây đèn, tất cả trở nên tối đen. Xác chết đưa tay huơ huơ trước mặt hai tên sai dịch, hai tên này không có động tĩnh gì. Rồi xác chết đưa bàn tay về phía tên phạm nhân, tên này sợ quá thét lớn rồi chạy ra ngoài cửa, xác chết chạy đuổi theo. Cả hai chạy qua hai cây cầu, xác chết vẫn chưa chịu buông tha. Tên phạm nhân chạy vào một ngôi chùa bị bỏ hoang, rồi nhảy qua một bức tường thấp ra bên ngoài, còn xác chết kia chạy đâm nhào vào tường ngã xoài trên mặt đất, tên phạm nhân cũng ngất lịm ở phía ngoài tường. Trời sáng, những người đi đường nhìn thấy vậy, bèn làm nước gừng cho tên phạm nhân uống, sau khi tỉnh lại tên phạm nhân cùng những người đi đường lần đường quay trở lại ngôi nhà kia. Nhưng khi đến đó, hai tên nha dịch đã chết ở chỗ đất bên cạnh ngôi nhà hoang.
Rất rõ ràng, ác quỷ giết người thực sự không phải là xác chết, mà là người phụ nữ ngồi khóc phía sau chiếc đèn. Ả được gọi là “xác chết di động”, nhưng ả lại không phải là xác chết di động, mà là con quỷ chuyên mượn xác người mới chết để giết người.
Nữu Tú sống vào đầu triều Thanh cũng cho rằng xác chết di động là do một thứ khác nhập vào, nhưng ông không cho rằng thứ đó là ma quỷ, mà là “loại khí bất chính của trời đất”, đó chính là tà khí. Chương Xác chết di động trong quyển năm, cuốn Cô Thặng kể, một người nhà quê chết nhưng chưa liệm, nửa đêm bỗng nhiên bật dậy, chạy đuổi theo người trông linh cữu đến nỗi người đó sợ tè cả ra quần. Nhưng người này bỗng nhanh trí, nhảy lên bức tường, nhưng ai ngờ tay chân lại không nhanh bằng bộ óc, một chân người đó bị xác chết ôm được. Người và ma giằng co nhau mãi đến khi trời sáng mới kết thúc. Người kể câu chuyện này nói: “Đó chắc chắn là loại khí bất chính trong trời đất, nhập vào người, người sẽ biến thành yêu. Như chuyện con lợn biết đứng ở nước Tề, viên đá biết nói ở nước Tấn, vậy thì những thứ không phải lợn, không phải đá cũng có thể bị như vậy.” Ở đây đã dẫn ra những ví dụ kinh điển, như lợn biết đứng, viên đá biết nói, tất cả đều là những thứ bị ám, vì thế trong trường hợp này xác người cũng không phải chịu bất kỳ trách nhiệm nào.
Viên Mai cũng cho rằng, xác chết di động là do “khí” ám vào, nhưng không giống với Nữu Tú, thứ khí đó không phải là “ loại khí bất chính của trời đất”, mà là “dương khí”. Dương khí vốn là nguồn của sự sống, có thể chuyển yếu thành mạnh, cũng có thể chuyển chết thành sống. Nhưng nếu đi nhầm cửa, người chết đã trở nên cương cứng, lúc đó nó chỉ có thể trở thành một xác chết biết nhảy. Quyển năm, cuốn Tử bất ngữ có chương Thạch môn thi quái được tác giả viết rất hay, rất ghê rợn, nhưng cũng khiến người ta phải suy ngẫm: “Huyện nha Thạch Môn tỉnh Chiết Giang có vị tên Lý Niệm Tiên xuống dưới thôn thúc thuế. Đêm đến, ông vào một ngôi làng hoang sơ. Thấy một người đi qua, ông bèn đánh đá lửa lên soi. Người này đầu tóc rối bù, thân hình gầy nhẳng, mặt dài chừng mười centimét, mắt nhắm tịt và đang chảy máu, nhìn như xác chết di động, Lý Niệm Tiên sợ dựng tóc gáy. Sau đó Lý lùi một bước, xác chết tiến một bước, Lý bèn bỏ chạy, xác chết lập tức chạy đuổi theo không thôi.” Hóa ra, ngôi làng này từng mắc bệnh ôn dịch, chết rất nhiều người, xác chết này trước đó chưa được liệm, “bị ám dương khí nên mới đi lại được”. Ngàn thôn xơ xác, vạn hộ tiêu điều, các ông còn đi đòi thuế lương thực, bây giờ thì ngược lại, để cho lũ các ông biết thế nào là cảm giác khi bị kẻ khác đánh đuổi.
Chương Xác chết quắp người, hạt táo có thể chữa trị, quyển tám, cuốn Viết tiếp tử bất ngữ cũng lặp lại thứ “dương khí” này: “Nếu xác mới chết chạy lung tung, người ta gọi đó là ‘xác chết di động’, nguyên nhân là do chịu sự tiếp xúc của dương khí mà thành như vậy.” Nhưng đến quyển năm, chương Xác chết di động, Viên Mai lại không còn kiên trì cách nói đó nữa, ông sửa lại rằng xác chết di động có hai loại, một loại là xác chết di động không thể nói chuyện, đó là do bị “dương khí ám”, nếu có thể nói chuyện được thì đó là do “ma quỷ nhập vào”. Xem ra, một phần nào đó ông vẫn tiếp nhận ý kiến của Hồng Mại.
Ngoài những loại trên, còn có cách nói về tiếng sấm, cách nói liên quan đến chó mèo. Như ở trên đã nói, từ khoảng năm mươi năm về trước đến thời điểm hiện tại, ở nông thôn vẫn giữ cách nói đó, nhưng nếu truy cứu về nguồn gốc của nó, có lẽ nó đã xuất hiện sớm hơn nhiều so với những “tri thức được tổng kết” của các nhà văn hóa từ thời Bắc Tống đến nay. Tác phẩm Thông u ký của Trần Thiệu, người thời Đường có ghi lại sự việc về xác chết di động: “Buổi tối khi đang liệm, một tiếng sấm vang lên, xác chết đứng dậy bước ra, nhưng không biết đi về hướng nào.” Nhưng xác chết di động này lại có thể nhảy qua tường để vào nhà người khác, chỉ có điều không biết nói chuyện mà thôi. Qua một đêm, người này trở lại là một xác chết cứng đờ. Một kết cục tốt hơn là trong tác phẩm Nguyên hóa ký của Hoàng Phủ Thị, người thời Đường: “Con gái nhà Vương Thị đột ngột chết khi chuẩn bị lên kiệu hoa, lúc đó xác chưa được liệm. Đêm đến bỗng có tiếng sấm, xác chết đã bỏ đi mất.” Xác chết chạy đến nghĩa địa thì lại trở về trạng thái cứng đờ. Cũng may khi đó có mấy thư sinh đi qua, họ thách nhau xem ai to gan hơn để vào khiêng xác chết, một người trong số đó đã vác xác chết về nhà. Xác chết được anh ta ôm trong lòng, không ngờ lại sống trở lại, rồi sau đó họ thực sự thành vợ chồng. Từ đó có thể suy luận rằng “xác chết di động” trong truyền thuyết chưa chắc tất cả đều không có thật, mà những trường hợp có thật chính là sự sống lại của những người chết giả, nếu biết cứu chữa kịp thời, thì người có thể sẽ sống trở lại, còn nếu đã có thành kiến về “xác chết sống lại” thì chỉ cần một đòn là có thể đưa xác chết về vị trí ban đầu của nó.
Còn việc khi đặt quan tài ở nhà kiêng kỵ chó và mèo, quyển Huyệt chôn xác chết trong Dậu Dương tạp trở của Đoạn Thành Thức, người thời Đường ghi “kỵ chó gần xác chết, tránh bị trùng tang”. Cái gọi là trùng tang, tức trong nhà lại có người sắp chết, nhưng không nói rõ nguyên nhân vì sao lại chết. Còn trong Ỷ lầu trùng mộng của Lan Cao có viết:
Chỉ thấy bà mẹ chạy tới nói: “Thằng Tư nhà bà bị dọa cho sợ đến mức mặt mày nhợt nhạt như quỷ ấy, nó bảo con bé ngồi dậy được, bảo bà mau mau về xem sao.” Vương phu nhân nói: “Chắc là có con mèo vừa nhảy qua rồi, xác chết đi được rồi, mau lấy cán chổi đánh ngã nó.”
Cô gái thật may mắn đã sống lại được (cô gái đã chết là con gái của Hương Lăng, lúc đó là do Tình Văn mượn xác trả hồn), người ta cũng không đi xem thế nào đã coi đó là xác chết di động, thực sự khiến người ta liên tưởng tới những người chết giả ở nơi hỏa táng, nghĩ đến mà dựng tóc gáy. Nhưng một số người chết giả tỉnh lại chưa chắc đã là vì chó hay mèo, nếu quả là như thế, cho dù chỉ chiếm tỉ lệ một phần vạn thôi thì khi nhà có tang sự, sống chết thế nào cũng sẽ cho các loại chó mèo tới nhảy qua xác chết.