Từng Thề Ước (Tập 2) - Chương 05 - Phần 2
Dần dần, bọn họ trông thấy thành lâu. Cổng thành mở toang, trước cổng giăng đèn kết hoa, chính giữa cổng treo lủng lẳng một thi thể phụ nữ. Nàng ta ăn vận theo lối phục sức của tân nương cung đình Cao Tân, mình khoác áo cưới đỏ rực, đầu đội mũ phượng lộng lẫy, quay mặt về phía đội rước dâu. Gió sớm khiến thi thể nàng lắc lư lay động, hệt như người sống, đang đợi tân lang của mình tới đón đi.
Nhận ra thi thể này chính là Khấp Nữ, A Hành thét lên kinh hãi, suýt nữa ngất xỉu, Thiếu Hạo phải giơ tay đỡ lấy nàng.
Nặc Nại đứng phía sau mặt mày tái nhợt, trừng ngừng nhìn thi thể Khấp Nữ.
An Tấn luôn miệng phỉ phui, sai binh lính hạ thi thể xuống rồi quay sang khuyên giải an ủi Nặc Nại: “Chỉ là một tỳ nữ, đừng vì chuyện này mà buồn rầu, làm ảnh hưởng đến hôn lễ”, đoạn sa sả chửi rủa: “Con tiện tỳ khốn kiếp, dám làm ra chuyện động trời, hỏng mất cả ngày vui.”
Thường Hy bộ xưa nay đều dùng phượng làm dấu ấn, hỷ phục của Khấp Nữ lại thêu chim phượng, mũ đội đầu cũng là mũ phượng, đều mang dấu ấn của Thường Hy bộ, đủ thấy thân phận của ả chẳng tầm thường chút nào. An Dung vội giật giật áo An Tấn, ra ý ngăn hắn đừng rủa sả Khấp Nữ nữa.
Nặc Nại bước tới trước mặt Thiếu Hạo, chỉ vào thi thể Khấp Nữ dưới đất, vặn hỏi: “Rốt cuộc nàng ta là ai?”
Thiếu Hạo thoáng trầm ngâm, “Ta tưởng nàng là thị nữ ngươi nhặt về.”
Nghe hai người một hỏi một đáp, A Hành cảm giác hình như bọn họ đều đã biết thân phận của Khấp Nữ, nhưng vẻ mặt cả hai khiến nàng lạnh toát người, chẳng còn lòng dạ nào tìm hiểu lai lịch ả nữa. Nàng muốn la lên bảo Nặc Nại, mặc kệ chuyện đó, mau đi rước dâu đi, Vân Tang đang đợi ngươi! Nhưng Khấp Nữ nằm kia vẫn đang mở to mắt lặng lẽ nhìn nàng, khiến nàng không sao cất nên lời.
Nặc Nại khàn khàn hỏi lớn: “Có ai từng gặp cô gái này chưa? Ai biết thân phận của cô ấy là gì không?”
Hồi lâu mới thấy một phụ nữ trang điểm lộng lẫy run rẩy bước ra hành lễ với Thiếu Hạo và Nặc Nại, “Thiếp thân học đòi kim chỉ, cũng có chút danh tiếng, từng tới Thường Hy bộ dạy mấy vị tiểu thư may vá thêu thùa, vị này chính là Băng Nguyệt tiểu thư của Thường Hy bộ, phụ thân cô ấy chính là cậu ruột của Nhị điện hạ.”
Gương mặt Nặc Nại thoát trắng bệch, y từ từ ngồi thụp xuống, hồn xiêu phách lạc nhìn Băng Nguyệt vận y phục đỏ rực, ánh mắt đầy hổ thẹn và áy náy.
Thường Hy bộ, Yến Long? A Hành dần hiểu được lại lịch của Khấp Nữ, thì ra đó chính là cô gái từng có hôn ước với Nặc Nại, cái tên Khấp Nữ hẳn là vì bị Nặc Nại ruồng rẫy mà khóc khô nước mắt. Có điều trước đây Nặc Nại và cô ta chưa từng gặp nhau, dù ngưỡng mộ dung mạo và tài hoa của y rồi bị y phũ phàng từ hôn, cũng đâu đến nỗi phải lao tâm ẩn náu bên y suốt hai trăm năm, để cuối cùng yêu y tha thiết, đành dùng cái chết phản đổi hôn sự này.
Thấy đôi môi anh đào của Bạch Nguyệt hơi he hé như đang ngậm vật gì đó, Nạc Nại liền nhẹ nhàng vạch miệng cô, lập tức một miếng bạch ngọc rơi xuống tay y, cặp mắt cô cũng theo đó mà khép lại, tựa hồ đã nói hết điều cần nói, từ nay yên lòng ra đi.
Nặc Nại run lẩy bẩy, nắm chặt lấy miếng ngọc, trừng trừng nhìn Thiếu Hạo, thét lên: “Năm xưa rốt cuộc ngươi đã làm gì để ép Thường Hy bộ hủy bỏ hôn ước hả?”
An Dung vội túm lấy chặt tay Nặc Nại, đẩy cho An Tấn giữ, rồi quỳ xuống dập đầu thỉnh tội với Thiếu Hạo, “Nặc Nại bi thương nôn nóng quá độ, nói năng không biết giữ gìn, xin bệ hạ niệm tình tha cho tội bất kính.”
Đột nhiên từ đằng xa vang lên tiếng la thét và khóc than, xem ra Thường Hy bộ đã nghe ngóng được tin, đang dẫn người đuổi tới. Kẻ nào đó còn cao giọng la lớn: “Giết chết Nặc Nại! Bắt hắn đền mạng cho tiểu thư!”
An Dung vội tâu: “Băng Nguyệt là biểu muội của Yến Long và Trung Dung, lại bị Nặc Nại từ hôn, e rằng chuyện này đã bị Trung Dung lợi dụng, gây ra đại loạn. Để bảo đảm an toàn, xin mời bệ hạ và vương phi lập tức về cung.”
Thiếu Hạo gật đầu, “Để bảo đảm an toàn cho Nặc Nại, đưa cả hắn về Thừa n cung cùng chúng ta.”
Cả đoàn người vội vã trở về Thừa n cung.
Thiếu Hạo cho tất cả thị vệ lui ra, chỉ để lại mình, A Hành và Nặc Nại, rồi lẳng lặng nhìn y chờ đợi. Nặc Nại cầm mảnh bạch ngọc đặt xuống trước mặt Thiếu Hạo, chất vấn: “Bệ hạ học thức uyên bác, hẳn biết rõ thứ này là gì? Vì sao Băng Nguyệt tiểu thư phải ngậm nó mà tự vẫn chứ?”
A Hành trân trân nhìn miếng ngọc trắng tinh thuần khiết trên bàn, sực nhớ tới một câu chuyện lưu truyền trong đám khuê các ở Cao Tân. Chuyện kể rằng có cô gái đã có hôn ước nhưng cha mẹ cô thèm muốn quyền thế, ép con gái cải giá. Trước ngày đại hôn, cô gái tiết liệt đó tự ví mình như bạch ngọc, trong trắng tinh khiết, quyết không thể làm hoen ố, bèn nắm lấy miếng ngọc trắng mà hôn phu khi trước tặng, nhảy xuống sông mà chết. Từ đó, khi nữ tử Cao Tân xuất giá, thường nắm một miếng bạch ngọc trong tay, tượng trưng cho phẩm chất của mình, kiên trinh thanh bạch như ngọc trắng.
Thiếu Hạo thẫn thờ nhìn miếng ngọc trên bàn, vẻ mặt phức tạp, hồi lâu mới lên tiếng: “Năm xưa, ngươi say rượu rồi ngang nhiên hẹn ước chuyện hôn nhân trước mặt mấy vị vương tử, phụ vương hết sức coi trọng lễ nghi, hậu cung lại bị tỷ muội Thường Hy thị thao túng hoàn toàn, hôn sự này coi như đã được xác định, không cách nào thoái thác được. Ta đã vắt óc tìm trăm phương nghìn cách, nhưng tất cả đều vô dụng. Có điều bất kể vì ngươi hay vì chính bản thân ta, ngươi cũng không thể cưới một nữ tử Thường Hy thị được. Cuối cùng ta đành dùng hạ sách, sai người gài bẫy Băng Nguyệt, chứng minh cô ta đã thất thân với kẻ khác, mới bức được Thường Hy bộ hủy bỏ hôn ước.”
“Ngươi…” Nặc Nại tím mặt lại, khàn giọng hỏi: “Ngươi có biết danh tiết của nữ tử Cao Tân quan trọng nhường nào không?”
“Dĩ nhiên ta biết, nhưng nếu ta không làm vậy, ngươi có biết hậu quả sẽ ra sao không? Băng Nguyệt bị người nhà làm công cụ, gả cho kẻ đã có ý trung nhân là ngươi, chẳng nhẽ ngươi sẽ tìm được hạnh phúc ư? Hy Hòa bộ quy thuận Yến Long, ngươi đành lòng giương mắt nhìn Yến Long giết chết ta, An Dung, An Tấn sao?”
Nặc Nại bỗng sụp xuống ủ rũ, nói cho cùng, tất cả đều tại y hồ đồ tự chuốc vạ vào thân. Thiếu Hạo chỉ giúp y thu dọn cục diện mà thôi.
“Thực ra, ta vốn định đền bù cho Băng Nguyệt.”
Nặc Nại giễu cợt: “Đền bù ư? Ngươi dùng thủ đoạn hạ lưu đó đối phó với một nữ tử yếu đuối bơ vơ, định lấy gì để đền bù đây? Dù ngươi có dùng uy quyền ép buộc kẻ nào đó kết hôn với nàng, thì phu quân của nàng cũng sẽ khinh miệt nàng suốt đời!”
“Nhất định không có chuyện đó! Bởi vì ta định sẽ cưới nàng, đương nhiên ta biết nàng còn thanh bạch!”
Nặc Nại sững người, Thiếu Hạo cay đắng nói tiếp: “Lúc đó ta định sau khi đăng cơ sẽ cưới nàng vào cung, long trọng sách phong nàng, vừa để đền bù, cũng vừa là bảo toàn nàng, đồng thời có thể giúp ta chia rẽ, lôi kéo Thường Hy bộ, nhưng…” Thiếu Hạo liếc nhìn A Hành, “Nhưng gần đây nhiều việc bộn bề, nhất thời chưa nghĩ tới chuyện lập thêm phi tần, nào ngờ lại chậm một bước.”
Nặc Nại thẫn thờ hồi lâu rồi phá lên cười thê thiết, dập đầu binh binh lạy Thiếu Hạo, “Thuở nhỏ ngươi thường chê ta hành sự quá cảm tính, còn ta lại cười ngươi làm việc quá lý trí kín kẽ, cái chết của Băng Nguyệt nói cho cùng đều là lỗi của ta, ngươi chẳng làm gì sai cả, khi nãy ta nóng giận trách lầm ngươi là bởi ta sợ sẽ mất đi tất cả, không dám thừa nhận chính mình đã hại chết Khấp Nữ… Băng Nguyệt.” Dứt lời, y đứng dậy, liêu xiêu bước ra khỏi điện.
“Nặc Nại.” A Hành cuống quýt gọi giật y lại, ngập ngừng hỏi, “Vân Tang… tỷ ấp làm sao đây?”
Nặc Nại ngoảnh lại nhìn nàng, vẻ mặt đau đớn in hằn trên mặt, ánh mắt chất chứa tuyệt vọng: “Vương phi nghĩ nàng có thể hân hoan bước qua cổng thành từng lủng lẳng thi thể Băng Nguyệt mà gả cho ta không? Ta đã hại chết Băng Nguyệt, chẳng lẽ còn muốn Vân Tang phải gánh lấy lời sỉ vả của người trong thiên hạ hay sao?”
Đột nhiên trước mặt A Hành hiện lên cảnh tượng Băng Nguyệt thân mang áo cưới, đầu đội mũ phượng, treo lủng lẳng trước cổng thành, cặp mắt tròn xoe trong vắt vẫn chăm chăm nhìn Nặc Nại. Nàng chợt thấy hơi lạnh từ đáy lòng lan đến đầu lưỡi, khiến lưỡi nàng đông cứng chẳng thốt nên lời, đành giương mắt nhìn Nặc Nại lảo đảo đi khỏi.
Suốt mấy ngày, bên ngoài cung náo động hỗn loạn, không sao dẹp yên được, nhưng trong cung lại yên lặng như tờ. Thiếu Hạo sợ bọn Trung Dung lấy cớ giết chết Nặc Nại, bèn ra lệnh giám sát Nặc Nại thật chặt, không cho phép y rời Thừa n cung nữa bước.
Nhờ Thiếu Hạo ra sức át đi, việc Băng Nguyệt tự vẫn cũng dần dần lắng xuống, chẳng ai dám nhắc đến cái chết của cô, càng không ai dám đả động đến hôn sự của Vân Tang và Nặc Nại nữa, như thể chuyện đó chưa hề tồn tại.
Nặc Nại đều ngày ngày uống say bí tỉ, không một ai tới tìm y, y cũng chẳng hề hé răng nói năng gì, chỉ ôm lấy hũ rượu ngủ vùi.
A Hành không biết làm sao, đành đi hỏi Thiếu Hạo. Y đáp: “Băng Nguyệt ở bên Nặc Nại suốt hai trăm năm, đã trở thành thân tín của Nặc Nại. Rõ ràng nàng ta có vô số cơ hội báo thù y, vậy mà lại chọn lấy cách tuyệt vọng nhất. Nàng ta vận đồ tân nương, trang điểm lộng lẫy rồi treo cổ tự vẫn ngay trước cổng thành chính là muốn phá tan hôn lễ của Vân Tang và Nặc Nại. Trung Dung lại nhân cơ hội làm toáng chuyện này lên, khiến toàn thành đều biết Nặc Nại hủy hôn để lấy người khác, tham vọng trèo cao, vì muốn kết hôn với Trưởng vương cơ Thần Nông địa vị cao quý mà bức một nữ tử thanh bạch kiên trinh vào đường cùng, phải lấy cái chết tỏ lòng. Hiện giờ cả Cao Tân đều đang chửi rủa Nặc Nại, căm ghét Vân Tang. Ta có thể áp chế bọn Trung Dung nhưng không thể bịt được miệng dân chúng, đừng nói là hôn sự của hai người họ, ngay chức tước của Nặc Nại cũng khó mà giữ được, mấy hôm nay ngày nào cũng có quan viên dâng sớ vạch tội y.” Thiếu Hạo đẩy một chồng tấu sớ tới trước mặt A Hành.
A Hành buồn bã: “Hết cách thật rồi sao?”
Thiếu Hạo trầm ngâm đáp: “Đành chờ thời gian đưa ra kết quả cuối cùng chứ biết sao. Vết thương Băng Nguyệt gây ra cho Nặc Nại cũng cần thời gian bình phục, dân chúng mãi rồi sẽ quên lãng chuyện này thôi.”
A Hành đành viết thư an ủi Vân Tang. Vân Tang gửi thư phúc đáp, giọng điệu vẫn vô cùng bình thản, hệt như tính tình Vân Tang vậy, càng ở vào thời khắc bi thương lại càng trấn tĩnh. Vân Tang còn tha thiết khuyên nàng: đời người biến ảo khó lường, họa phúc chỉ cách nhau gang tấc, quan trọng nhất là biết trân quý cái mình đang nắm giữ, đừng để Xi Vưu mòn mỏi đợi chờ thêm nữa!
A Hành nắm chặt phong thư, ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, chớp mắt đã sắp mùng tám tháng Tư, lại đến tết Khiêu Hoa ở Cửu Lê rồi. Nàng chợt thấy mình không sao chịu nỗi bầu không khí nặng nề u ám ở Thừa n cung nữa, nàng muốn gặp Xi Vưu, nàng muốn gặp hắn ngay lập tức.
Sắp xếp xong mọi chuyện trong cung, A Hành liến bay thẳng tới Cửu Lê.
Hoa đào trên núi Cửu Lê nở rộ như lửa như tranh, thấp thoáng giữa rừng đào là căn nhà sàn khép cửa, lặng lẽ đợi người về.
Có lẽ vì tự do đang ở ngay trước mắt, nên khi mở cửa ra, A Hành chợt có một cảm giác là lạ, khác hẳn trước đây. Nàng bước ra sân phơi, đưa mắt ngắm núi non quanh đó, càng ngắm càng nghe lòng rộn rã, bèn quanh sang hỏi A Tệ: “Sau này chúng ta sẽ ở lại đây, được không?”
A Tệ nhoẻn cười, lăn tròn trên mặt đất, huơ huơ bốn chân, tỏ vẻ thích thú.
“Mày thấy thế nào, Liệt Dương?”
Liệt Dương ngồi vắt vẻo trên cành đào, hờ hững đáp: “Cô thấy thích là được.”
A Hành vỗ tay đánh đét: “Hay lắm, vậy từ mai chúng ta bắt đầu bày biện nhà của bọn mình!”
Sáng hôm sau tỉnh dậy, A Hành ra chợ dạo quanh một vòng mua cả đống đồ đạc, về tới nhà đã thấy Liệt Dương và A Tệ quét dọn sạch sẽ phòng ốc từ trong ra ngoài, khiến ngôi nhà sàn được thay áo mới.
A Hành sắp xếp phòng ở cho mình và Xi Vưu xong, lại bố trí riêng cho Liệt Dương một căn phòng, đồng thời làm luôn cho nó một cái tổ trên cây, rồi quay sang hỏi A Tệ: “Hàng ngày mày ngủ dưới gốc đào, bầu bạn cùng Liệt Dương, khi nào mưa thì lên nhà sàn, được không?”
A Tệ hớn hở chạy vòng vòng quanh gốc đào.
Xong xuôi mọi việc, A Hành đứng trước nhà quan sát từng thứ một, rèm bích loa, sa thiên thanh, trúc phượng vĩ, rừng hoa đào… hình như còn thiếu gì đó?
Nàng chạy vút vào nhà, lục rương cũ lấy ra chiếc chuông gió bằng răng thú vẫn treo trên Ngọc sơn năm xưa, tuy chuông gió đã úa màu thời gian nhưng lại đượm một niềm ngậm ngùi xưa cũ.
Treo dưới hiên nhà, gió vừa lướt qua, từng chuỗi tinh tinh tang tang, tang tang tinh tinh lại cất lên êm đềm hệt như ba trăm năm về trước.
Xi Vưu cưỡi Tiêu Dao đến Cửu Lê, đã thấy A Hành đợi dưới cội đào tự khi nào.
Hắn vội nhảy xuống ôm chầm lấy A Hành, cười hỏi: “Nàng đến lâu chưa? Đi nghe sơn ca không?”
A Hành lắc đầu cười rồi kéo tay hắn: “Mình về nhà đi.”
Hoa đào nở đỏ rực rỡ trên núi, căn nhà sàn biếc xanh sắc trúc thấp thoáng giữa rừng hoa, chưa lại gần đã nghe thấy tiếng chuông gió tinh tang, như không như có, êm đềm rất mực. Xi Vưu bất giác rảo bước thật mau, đến khi tới trước cửa nhà, hắn bỗng sáng cả mắt lên.
Xung quanh nhà là một hàng giậu trúc, bên giậu trồng đủ tường vi, thạch cúc, khiên ngưu, đỗ quyên… vàng, đỏ, trắng, lam… các loại hoa đủ màu sắc nở rực trước giậu. Sau nhà còn một mảnh vườn mới cuốc, Liệt Dương đang chỉ huy hơn mười mấy chú chim bay qua bay lại gieo hạt, tíu tít cả lên, trong khi A Tệ uể oải nằm dài dưới gốc đào, thoạt nhìn hệt như một con chó canh cửa.
Xi Vưu đứng ngây ra, sững sờ. Từ bé hắn lớn lên nơi rừng hoang núi vắng, ngạo nghễ tự tại giữa sơn lâm, thả sức rong ruổi cùng mây nước, cả đất trời đều thuộc về hắn, nhưng hắn chưa từng có một mái nhà. Thuở nhỏ hắn từng trông thấy mỗi khi khói bếp lững lờ bốc lên, đám trẻ đều hớn hở chạy về nhà trong tiếng ời ời của mẹ, hồi đó hắn còn chưa hiểu tại sao mình thà bị đánh đuổi cũng vẫn quanh quẩn gần làng mạc, không chịu bỏ đi, về sau mới vỡ lẽ ra, hắn mới thật sự hiểu ra, đứa trẻ hoang dã, sống cuộc sống như muông thú năm xưa cứ quanh quẩn ngoài bản, nấp trong rừng lén rình rập từng nhà, bởi nó cũng khao khát được bước vào một ngôi nhà thuộc về mình.
Xi Vưu cố nén bao niềm cảm khái đang cuộn trào trong lòng, lên tiếng: “Nếu mở cửa ra lại thấy một mâm cơm sẵn sàng nữa, mới đúng là về nhà.”
A Hành liền vén rèm lên: “Chúng mình về nhà thôi.”
Đồ ăn trên bàn đang bốc hơi nghi ngút, mùi thơm nức mũi. Xi Vưu lặng lẽ tiến lại, ngồi xuống ăn hết sức ngon lành. A Hành cũng ngồi xuống cạnh hắn nhưng vừa nếm một miếng đã cau mày, nàng chỉ quen trồng hoa tỉa lá chứ chẳng giỏi nấu ăn, mấy món này quả là miễn cưỡng lắm mới nuốt được.
Xi Vưu cười bảo: “Từ sau cứ để ta làm cơm.”
Vừa nghe thấy câu “từ sau”, A Hành đã mừng rơn, gật đầu lia lịa, “Nói lời phải giữ lấy lời nhé, ai không giữ lời thì là…” Nàng chợt khựng lại, chửi người khác là súc sinh tức là xúc phạm người ta, nhưng nói Xi Vưu là súc sinh chẳng khác nào đang khen hắn, làm hắn cao hứng! A Hành cau mày nặn ra một câu khác, “Ai không giữ lời thì là người!”
Xi Vưu vừa hớp một ngụm Ca tửu, nghe nói liền phun ra.
A Hành nhìn hắn cười khúc khích, trên đời này có niền hạnh phúc nào bằng được trông thấy người mình yêu thương tươi cười chứ?
Dùng cơm xong, hai người lại ra trước cửa ngồi uống trà hóng mát. Xi Vưu hỏi nhỏ: “Căn nhà này là nàng dành cho ta thật ư?”
“Cũng là chàng dành cho ta đó.”
“Thế còn căn nhà của Thiếu Hạo dành cho nàng?”
A Hành cười khúc khích, nhân tiện thừa nước đục thả câu, cố ý trêu Xi Vưu, “Nếu biểu hiện của chàng tốt, ta sẽ rời xa Thiếu Hạo.”
Bấy giờ Xi Vưu mới hởi lòng hởi dạ, liền mặt dày nâng cằm A Hành lên, nửa cười nửa không, hỏi: “Nàng nói về phương diện nào thế? Trên giường hả?”
A Hành thẹn thùng vung tay đấm hắn, Xi Vưu bèn ôm nàng đặt lên đùi, vòng tay siết chặt lấy A Hành để nàng khỏi vùng vẫy làm loạn. A Hành tựa đầu vào vai hắn hỏi: “Lần này chàng nán lại được mấy ngày?”
“Nàng ở bao lâu, ta cũng ở bấy lâu.”
“Trong cung đã có con rối thay chân ta, lại được Thiếu Hạo che chở, khó mà phân biệt được thật giả, hơn nữa mọi người đều biết ta yếu đuối lắm bệnh, không thể gặp khách khứa, ta có nán lại vài ngày cũng chẳng ai phát hiện ra đâu, nhưng chàng là Đốc Quốc Đại tướng quân kia mà.”
“Chúc Dung vừa xuất quan đã tất bật bắt tay vào xử lý công việc, mấy trăm năm nay tuy Du Võng không nói ra, nhưng trong lòng hắn cũng thấy ta quá mức tàn bạo, lần này hắn định dựa vào Chúc Dung để xoa dịu nỗi oán giận của đám chư hầu quý tộc kia, nên hiện giờ ta rất nhàn nhã.”
A Hành hỏi đầy hàm ý: “Chàng nhàn nhã như thế, có thể lui về ở ẩn được chăng? Chúng ta có thể định cư ở Cửu Lê, chàng trồng đào, ta chăn tằm.”
Xi Vưu cười cười không đáp, hồi lâu mới nói: “Nhất định sẽ có ngày như thế! Nhưng trồng đào ta thấy suốt ruột lắm. Ta muốn đưa nàng và Tiêu Dao đi làm vài việc mà người đời chưa từng làm qua. Mọi người đều nói Thang cốc là cực Đông của đại hoang, Ngu uyên là cực Tây, Nam minh là cực Nam, Bắc minh là cực Bắc. Nhưng cực Đông của Thang cốc, cực Tây của Ngu uyên, cực Nam của Nam minh, cực Bắc của Bắc minh là gì? Lẽ nào Thang cốc Ngu uyên, Nam minh Bắc minh là chốn mênh mông bát ngát không có bến bờ ư? Tới chừng đó, hai ta sẽ cưỡi Tiêu Dao đi tới nơi mà người đời chưa từng đặt chân tới.”
“Còn cả Liệt Dương và A Tệ nữa chứ.”
“Ừ, cả Liệt Dương và A Tệ!”
A Hành nhoẻn cười, chìa ngón út ra, “Ngoéo tay treo cổ!”
Xi Vưu cũng bật cười, ngoắc tay với nàng, “Nhất định giữ lời!”
Ngón út của cả hai ngoắc lấy nhau, kéo qua kéo lại mấy lần, còn hai ngón cái lại áo vào nhau, như hai kẻ đang hôn nhau say đắm, bọn họ chăm chú nhìn ngón tay mình rồi phá lên cười, chẳng hẹn mà cùng xòe cả năm ngón tay ra, đan vào tay đối phương.
Xi Vưu dùng tay kia bế thốc A Hành vào phòng, đặt lên giường, cởi bỏ y phục của nàng rồi áp tay lên bụng nàng, từ bụng lần lên ngực, từ ngực lại men xuống cánh tay, đan tay mình vào tay nàng, khăng khăng khít khít.
Chiếc chuông gió dưới hiên nhà lại reo lên rộn rả như trước làn gió xuân hây hẩy.
Ngày tháng giữa núi rừng trôi qua rất mau, thoáng chốc Xi Vưu và A Hành đã ở lại Cửu Lê hơn một tháng.
Có lúc A Hành cảm giác những tháng ngày này sẽ dài ra vô tận, miễn là bọn họ ở ẩn nơi đây, dù bên ngoài xảy ra chuyện gì cũng không liên quan tới họ.
Nhưng dù có lãng quên thế giới ngoài kia thì thế giới ngoài kia cũng không chịu bỏ qua cho họ.
Xích điểu mang theo thẻ ngọc bay đến Cửu Lê.
Xi Vưu đọc xong mấy dòng ghi trên thẻ ngọc, ngẩng lên bảo A Hành: “Ta phải về đây. Hoàng Đế ngự giá thân chinh, đã đánh bại Cộng Công, khiến quân sĩ Thần Nông hoang mang bối rối. Du Võng bị Chúc Dung xúi giục cũng chuẩn bị ngự giá thân chinh, dẫn quân giao chiến với Hoàng Đế.”
“Gì cơ?” A Hành kinh hoàng, không dám tin vào tai mình nữa.
“Thần tộc đến giờ vẫn còn truyền tụng mãi chuyện ba ngàn năm trước Hiên Viên Hoàng Đế chỉ trong một đêm hạ mười tám ngọn núi Yên Bắc. Vừa nghe nói Hoàng Đế ngự giá thân chinh, tướng lĩnh Thần Nông quốc sợ kinh hồn bạt vía cả. Du Võng liền cử Cộng Cộng ra ứng chiến, nhưng Cộng Công thảm bại khiến trên dưới Thần Nông đều khiếp hãi, kích động sĩ khí, lại được thêm Chúc Dung xúi bẩy, Du Võng cũng quyết định ngự giá thân chinh, đại quân đã xuất phát rồi.”
Hoàng Đế và Viêm Đế đích thân giao chiến với nhau ư?
A Hành choáng váng, vội vịn vào song cửa rồi từ từ ngồi phệt xuống đất. Mới lưu lại nơi đây một tháng mà thế gian đã mây vần gió giục, đất trời biến sắc nhanh thế kia ư?
Xi Vưu xưa nay quen thói hành sự dứt khoát, hắn vòng tay siết chặt lấy A Hành lần cuối rồi nhảy lên lưng Tiêu Dao, “Sau khi dẹp yên mọi chuyện, ta sẽ về tìm nàng.”
A Hành lẳng lặng gật đầu mà lòng nặng trĩu, đột nhiên, nàng níu chặt lấy hắn: “Chàng đừng đi có được không?”
Xi Vưu nhướng mày cười, “Nàng hiểu tính người đàn ông của mình mà, A Hành. Lúc ta bị Chúc Dung truy sát, Du Võng nửa đêm tới quỳ xin Viêm Đế thu hồi lệnh giết ta; sau khi ta đến Thần Nông, mọi người đều khinh bỉ ta, sợ hãi ta, chỉ có Du Võng đối xử tử tế với ta, mang rượu tới uống cùng ta; khi ta nổi cơn thịnh nộ đánh bị thương mọi người, trốn khỏi Thần Nông sơn, ngay đến Viêm Đế cũng quyết định vứt bỏ ta, Du Võng lại đuổi theo ta suốt đêm, bầu bạn cùng ta mấy ngày. Nếu không có tên Du Võng hiền từ đôn hậu, nhu nhược, cả nể đó thì cũng chẳng có Xi Vưu ta ngày hôm nay, chúng ta cũng chẳng thể gặp lại nhau.”
Xi Vưu nói chẳng sai, ngay cả Viêm Đế cũng mưu mô tính toán với hắn vì Thần Nông tộc, chỉ có mình Du Võng từ trước đến nay luôn chân thành đối đãi, tuy hắn đối với kẻ địch hết sức hung tàn nhưng đối với ân nhân lại dốc hết sức hết lòng báo đáp, A Hành còn biết nói gì nữa đây.
Xi Vưu rướn người qua cửa sổ, nồng nàn đặt lên môi nàng một nụ hôn, “Ta đi đây!”
A Hành vẫn bịn rịn nắm chặt tay hắn không buông!
Tiêu Dao từ từ bay lên cao, tay hắn cũng dần rời khỏi tay nàng. Dường như cũng hiểu được nỗi lòng của A Hành, Tiêu Dao không bay vút đi ngay, mà chỉ từ từ bay xa dần. Xi Vưu ngoảnh lại quyến luyến nhìn nàng.
Triền núi bạt ngàn những gốc đào, bấy giờ đã bào độ hồng phai lục thắm. Gió Đông tiễn xuân đi, cuốn theo ngàn ngàn vạn vạn hoa tàn nhị héo lả tả đầy trời. Trong căn nhà sàn xinh xắn lẻ loi giữa rừng đào, A Hành thẫn thờ bên cửa sổ, nhìn theo dáng Xi Vưu đi khỏi, bóng áo xanh quạnh quẽ càng thêm phần cô độc giữa một trời thắm đỏ mưa hoa.
Biết Xi Vưu cũng rầu rĩ chẳng nỡ xa mình, A Hành ra sức vẫy tay, cố lấy giọng vui vẻ nói vọng theo: “Lần sau chàng về, chúng mình có thể ăn rau tự trồng lấy rồi!”
Nghe thấy câu nói của nàng, Xi Vưu chợt thấy lòng bối rối khôn xiết, khóe mắt cay cay, bao hào tráng chí căng tràn lồng ngực dường như đều hóa thành niềm ôn nhu mềm mại vấn vít giữa ngón tay. Ai bảo anh hùng không xúc động, chẳng qua chỉ là chưa tới lúc rơi lệ mà thôi.
Thấy bóng A Hành xa mờ dần cuối chân trời, Xi Vưu bèn quay ngoắt đi, vừa sai Tiêu Dao tăng tốc, vừa cao giọng ca vang, dốc hết nhiệt tình căng tràn lồng ngực vào khúc tình ca nồng nàn say đắm, thổ lộ tình cảm trong lòng mình cho cả trời đất cùng hay.