Cánh Đồng Lưu Lạc - Đoạn 14.1

ĐOẠN 14

Ông lão ra đi vào một đêm tối trời, dường như để lánh mặt người làng. Hành lý của ông lão chỉ gồm có một bộ quần áo được coi là tươm tất nhất, chiếc áo gụ hơi bạc mồ hôi, cái quần kaki của anh Kỳ để lại cũng đã sờn bạc. Với số tiền tổng cộng được gần hai mươi lăm đồng bạc, trong đó có đến quá nửa là loại giấy một hào, hai hào, do tích cóp mà có, số còn lại là tiền liệt sĩ của anh Kỳ, của nhà nước.
Vào những tháng năm ấy, hẳn nhiều người còn nhớ việc đi lại bằng xe ô ô khách là một cực hình. Cả tỉnh chúng tôi chỉ có một bến xe Đồng Quang, mà xe thì ọc ạch, giờ giấc thì phập phù, hành khách lèn chật cứng, còn tài xế là những người mà vừa là hung thần, vừa là tên lưu manh mạt hạng. Xe ô tô của nhà nước, thường được ca ngợi là của nhân dân, tài sản của toàn dân, nhưng rơi vào tay tài xế nó đương nhiên là của báu để kiếm chác, để diễu võ giương oai. Đến nỗi, trong quân đội vẫn có câu: “Trung uý thiếu uý, không bằng một tí lái xe!”. Vì thế, ông lão Tuân không thể chọn con đường xe ô tô khách để đi Phú Thọ. Ông quyết định lấy con đường tàu hoả, lên từ ga Phổ Yên để về Hà Nội, rồi từ ga Hàng Cỏ, ông lại lên tàu đi Phú Thọ. Con đường đi của mẹ con chị Nga cũng là con đường ấy, tuy xuất phát từ một bến sông, con đường định mệnh...
Chuyến tàu xuôi khởi hành lúc chín giờ tối xuôi xẻ. Nửa đêm, ông lão về đến ga Hàng Cỏ. Ông lão Tuân không lạ gì nhà ga này, tuy là một nông dân nhưng ông đã từng có nhiều lăn lộn trên bến tàu, nhà ga, đường phố... với những tháng ngày lưu lạc giang hồ thời trẻ. Và gần đây thôi, những năm đói kém, những chuyến buôn bán sắn khô, khoai lang, lạt dang, củ nâu... đổ xuống ga Long Biên, hay còn gọi là ga Đầu Cầu. Thời trẻ khoẻ ấy đã qua rồi, ông và mấy anh bạn buôn tàu sau khi bán xong hàng, tản bộ vào chợ Đồng Xuân tìm một cửa hàng phở. Ai “không người lái” (phở suông, không có thịt) chứ ông Tuân cứ là phải tìm cho được món xá xíu, thịt quay, đánh một bát to, rồi ra vỉa hè sà vào quán chè chén, làm năm xu, một hào, rồi bắn nhờ điếu thuốc lào. Gần sáng lại cuốc bộ ra ga Hàng Cỏ, mua vé tàu hẳn hoi, leo lên toa tàu chợ, tìm chỗ gà gật...
Bây giờ ga Hàng Cỏ đã khác. Cái đồng hồ to ngất nghểu trên nóc nhà ga không còn, nhìn nhà ga cũng không còn cái vẻ oai phong mà trẻ trung, từng trải mà dễ tính như ngày trước. Người đi lại buôn bán khá đông, công nhân, bộ đội, học sinh... rầm rập. Cảm giác mất an toàn ngự trị. Công an và kẻ móc túi khá nhiều. Anh công an, anh bảo vệ đeo băng đỏ thì nhắc nhở hành khách cẩn thận kẻo móc túi, lừa đảo, trấn lột. Còn kẻ lừa gạt, xách làn, bạc bịp... thì vừa lân la gạ gẫm vừa doạ “công an đấy” để ù té, làm ăn.
Bây giờ ông lão cũng đã khác, không còn cái vẻ ung dung tự tin như một thời tráng kiện, gặp thằng đạo trộm thì sẵn sàng ra oai cho một đòn gánh. Ông lão Tuân ôm cái bị vào lòng tìm một góc khuất, hạ lưng tựa vào mảng tường cáu cáy, giả vờ lim dim. Ông lim dim thế, nhưng rất cảnh giác, một là không để kẻ gian nào mon men lại gần, hai là hễ quầy bán vé đi Phú Thọ mở cửa, là có thể nhỏm dậy, lao tới, đút tiền lẻ vào cái khe bẹp, không lọt bàn tay, nhận tấm vé bằng bìa cứng, bằng hai ngón tay chéo. Ấy nó nhỏ thế nhưng lại đủ sức kéo ông đi mãi tận phương lai xứ sở nào, tuỳ theo cái giá tiền ghi trên đó.
Tự dưng, trong tiếng bát nháo của loài người di động, ông lão nghĩ: sao con người ta lại có số nhỉ? Số may, số rủi, số nhàn, số sướng, số nghèo, số giàu, số có phúc, số bạc phận...? Là ông nghĩ về người em họ, con bà cô ruột mình, tên là Đạo, nhà ở chợ Hoà Bình, đằng kia. Kể ra, thoạt đầu khi tính kế ra đi tìm mẹ con chị Nga, phải qua Hà Nội, ông có nghĩ đến ông em này. Đó là một người họ hàng của ông, tuy không tốt nhưng không thể bảo là anh ta xấu. Không hại ai, cũng không làm lợi cho ai, có chăng chỉ làm cho người ta ghét. Có một dạo, khi bà cô còn sống, anh ta cũng có mấy lần về quê, chả biết thật hay giả, Đạo “thẳng tính” một cách... hợm hĩnh:
- Ối giời ơi! Bác làm gì mà cứ đầu tắt mặt tối thế chả biết. Người Hà Nội chúng em cứ là sáng bảnh mặt trời ra mới chui ra khỏi chăn, mà cũng có kém gì ai. Ờ mà này, nước giếng nhà bác nó làm sao ấy, giặt xà phòng nó cứ nhờn nhờn, kinh bỏ sừ! Nước máy ở Hà Nội giặt đến đâu sạch đến đấy...
Lần khác, anh chàng con cô ông Tuân lại giả lả:
- Nói thật với các bác chứ, đúng là em chả biết gì sất. Thế cái cây kia nó là cây cỏ hay cây lúa?
- Thế chú không phân biệt được cây cỏ với cây lúa à? Ông Tuân đáp nhời ông em. Để tôi kể chú nghe. Ngày xưa, dưới trần gian chưa có cây lúa làm lương thực cho con người đâu... Con người ta sống bằng hoa quả, thịt chim chóc, cào cào châu chấu thôi. Ông Trời thấy thế mới thương tình, cử một ông Thần, đem hai thứ hạt cây xuống gieo cho trần gian có cái ăn. Hai thứ này giống nhau lắm, để cho bọn người ngốc như chú không biết. Một thứ là cỏ, một thứ là lúa. Hạt lúa, Trời bảo Thần reo vung ra cho rộng rãi, còn thứ hạt kia là cỏ thì rắc từng cụm, từng cụm, ít thôi. Thần nghe tai nọ xọ tai kia mới đem gieo cỏ vung ra khắp gầm trời, còn lúa thì rắc từng nhúm nhỏ. Đấy, thế là bây giờ cỏ thì mọc tứ tán, tràn lan, còn lúa thì lại hiếm hoi, ít quá. Thấy thế Trời mới nổi giận, bắt vị Thần kia hoá thành con trâu, xuống hạ giới phải kéo cày để làm ra hạt thóc mà chỉ được ăn cỏ...
Ông Đạo cười khơ khớ:
- Chuyện hay nhỉ? Bố sư, cái lão Thần, à mà cái con trâu ngốc nghếch kia vung nắm thóc ra thì có phải bây giờ sướng biết mấy, chả phải cấy hái đầu tắt mặt tối, cứ việc ra đồng mà gặt lúa, bác nhỉ!?
Khi chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Giôn- xơn, vợ chồng con cái anh ta cũng về ở nhà ông đến hơn hai năm trời. Thế là cũng gắn bó lắm, cũng thân thiết lắm. Nếu bây giờ ông có đến nhờ vả Đạo thì cũng là công bằng, phải lẽ... Ông lão lại nghĩ, ấy những người Hà Nội như Đạo, tuy nói tục như ranh, lưu manh nhất hạng nhưng lúc nào cũng sướng, cũng phởn phơ. Họ ăn nói, đi lại, khạc nhổ... giữa ngoài đường ngoài phố mà không khác gì ông ở trong bếp hay trong chuồng xí nhà mình? Chả thế mà dân gian đã có câu: “Tự nhiên như người Hà Nội”, và cũng những trường hợp tương tự, họ lại nói tránh đi, là “tự nhiên như ruồi”. Ông lão bật cười, thế chả hoá ra người Hà Nội cũng như con ruồi, con nhặng à?
Có tiếng rao bán bánh mì ở ngay trên đầu ông lão Tuân, ông không thấy đói, nhưng ông thèm. Ông thèm cái bánh mì, thèm cái mùi phố thị, và thèm được bát phở xá xíu bốc hơi và mùi thơm của hành mỡ. Thôi nào, thèm thế thôi, chứ ông nhất quyết không mua. Phải hà tiện, đường còn dài... Một cơn mưa ào ạt kéo đến, nước tràn xuống các rãnh nước làm dềnh lên mùi ống cống nồng nặc, lập tức dập tắt cơn thèm của ông lão. Người chạy rầm rập, sát sạt đến bên cái góc tối ẩm ướt của nhà ga. Có hai người thanh niên hạ hành lý của mình xuống cạnh ông Tuân, rồi một người đặt đít xuống chỗ gạch còn trống. Ông Tuân tảng lờ như đang ngủ, nhưng tất cả tinh lực ông đang căng ra, cảnh giác hết mực. Một người nói:
- Bố sư con “phò”( ) , nó tưởng bở ăn, cứ dính lằng nhằng, làm mất cả việc...
Ông Tuân không biết “con phò” là con gì, nhưng cũng đoán ra rằng đó là một con người, mà là đàn bà con gái, chắc là ghê gớm lắm...
- Đéo mẹ, trông người như con ve, mà đòi những một cụ ! Có cho không thì tao cũng làm được một quả! Hơ hơ... tiếng một người khác.
Một “cụ” thì ông biết, và thế là ông cũng biết họ đang nói về một cô gái điếm.
Tiếng hai người đàn ông nói với nhau không to lắm, nhưng cũng không phải là nhỏ, là thì thầm, đủ biết họ từng trải cảnh này. Lại tiếng một người:
- Bình này, mày bảo con phò đấy là dân Hà Nội gốc hay tỉnh nào lên?
- Chắc là dân tứ xứ thôi... Chứ dân Hà Nội gốc nó có tem phiếu, làm gì đến nỗi.
- Tao cũng nghĩ thế, mà như thế thì thì khổ quá nhỉ...
Im lặng một lúc, có tia lửa xoèn xoẹt từ một cái bật lửa bằng xăng, họ châm thuốc hút, mùi khói thuốc lan toả, bỗng dưng ông lão Tuân thấy thèm một mồi thuốc lào. Tiếng Bình:
- Này Ngọc, sao tự dưng tao lại thấy thèm cái hồi chúng mình ở với nhau ở Đac Tô, Tân Cảnh quá. Lúc ấy tao nghĩ, nếu mà sống sót trở về thì dứt khoát không phải khổ, không phải tủi nhục. Nào ngờ...
- Ai mà chả nghĩ thế. Nhưng dù sao bây giờ cũng sướng chán. Có khổ, có nhục một tí nhưng không lo phải chết. Còn giữ được cái gáo là may lắm rồi. Đấy, hôm mày sang tao, bà cụ mẹ thằng Tuyên vừa ở nhà tao về, lại khóc lóc, nhớ thương con. Cái thằng Tuyên bẻm mép ấy. Bây giờ mà có nó đi với chúng mình thì hay biết mấy...
- Hôm nó chết, tao đi nhặt xác nó tan thành mấy mảnh. Hình như chỉ còn có một cánh tay... Tiếng anh tên Ngọc.
Họ lại im lặng. Ông lão Tuân đoán biết đây là hai anh bộ đội phục viên, hình như họ cùng đơn vị với nhau. Giờ họ gặp nhau thế này, không biết họ đi đâu nhỉ?
- Bình, mày bảo có ma không? Là tao hỏi có linh hồn thật không? Họ lại tiếp tục câu chuyện.
- Tao không biết, mà từ bé đến giờ tao có gặp ma bao giờ đâu.
- Tao thì nghĩ là có. Hôm chôn cất thằng Tuyên xong, đêm về đến phiên tao gác, có một con đom đóm to bằng quả trứng gà ấy, nó cứ lởn vởn quanh trận địa. Tao cũng sợ, đom đóm gì mà to thế, chưa thấy bao giờ. Lúc sau nó cứ chập chờn, đến gần chỗ tao, rồi lại lảng ra. Bất đồ tao nghĩ hay là linh hồn thằng Tuyên? Tao hỏi nhỏ, gần như là nói thầm, sợ có người nghe thấy. “Tuyên ơi, có phải mày không? Nếu đúng là mày thì bay bổng lên cho tao biết. Có thiếu gì thì đợi ngày hoà bình về, chúng tao cúng, chứ bây giờ thì chả có gì đâu”. Là tao cứ lẩm bẩm thế, bất ngờ cái cục sáng đó vọt lên trời cao, rồi tắt ngấm... Tao vừa sợ, vừa tiếc. Giá nó đến gần hơn, cho mình hỏi một câu.
- Mày định hỏi câu gì?
- Thì câu gì cũng được. Mà tao sẽ hỏi bao giờ thì chiến thắng, thì hoà bình?
Tiếng cười khùng khục của Bình:
- Mày chỉ hỏi vớ vẩn. Nó là lính tráng như bọn mình thì biết quái gì mà hỏi.
- Biết chứ! Người chết trẻ là thiêng lắm. Chưa biết chừng, ở trần gian nó làm lính, lúc chết nó làm tướng cũng nên. Với lại ở cõi trên, cái gì chả biết. Đấy mày xem, chúng mình là người trần, mắt thịt ở dưới này, đứa nào làm cái gì thất đức, ác độc, trên ấy biết cả đấy...
Không thấy Bình nói gì, ông lão Tuân thấy yên tâm. Ông bỗng thấy quý mến hai người bạn đồng hành đêm nay.
- Nếu thế thì tao phải khấn thằng Tuyên mới được. Tuyên ơi, bữa nay tao với thằng Ngọc đi mót sắn, mày có khôn thiêng thì phù hộ cho chúng tao mỗi đứa kiếm được một gánh về đỡ vợ con. Ở nhà chúng nó đang đói... Có tiền chúng tao sẽ cúng mày một con gà thật ngon, có cả lá chanh, chấm muối ớt...
- Sau đó để chúng tao hưởng lộc... Có thêm cút rượu nữa chứ!
- Ừ đúng đấy! Mỗi thằng một cái đùi... Nhưng thôi, chưa nói trước, sợ bước không qua. Càng nói càng thèm!
Ông lão thấy thương hai chàng trai quá. Mà ông cũng thèm một cái đùi gà thật thơm, thật vàng, và một hớp rượu thật cay, thật nồng. Cơn thèm vội vã cọ quạy vào ngực ông, khiến ông bật ho thành tiếng.
- Ai thế? Mày ngó xem có phải cảnh giác không?
Khuôn mặt Bình hình xương xương ngó xuống sát mặt lão Tuân, thì thầm: “Một ông cụ”. Lão Tuân mở mắt:
- Các anh đi đâu thế?
- Chúng con đi mót sắn đây. Thế cụ đi đâu?
Ông lão ngồi thẳng dậy, nhìn hai khuôn mặt, sao ông bỗng thấy hao hao nhang nhác khuôn mặt anh Kỳ:
- Tôi nghe các anh nói chuyện hết rồi. Ở bộ đội về mà khổ thế à?
Ngọc cười:
- Khổ sở gì đâu hả cụ. Chúng con nói chuyện vui thế thôi. Thế cụ có đi mót sắn với chúng con không? Nhìn hành lý của cụ, chắc cụ cũng phải đi xa lắm nhỉ?
- Tôi lên Phú Thọ, tìm người nhà...
- Thế thì đi với chúng con, chúng con cũng lên thị xã Phú Thọ đây! Rồi từ thị xã chúng con còn đi nữa. Thế người nhà của cụ làm gì? Là con hay cháu? Đàn ông hay đàn bà?
Ông lão Tuân ngẩn người ra trước những câu hỏi dồn dập của hai anh cựu binh. Lát sau ông nói:
- Là con. Con dâu, với lại con nó...
- Thế chồng nó đâu mà để cụ phải lặn lội thế này?
Bỗng ông lão rớm nước mắt, ngập ngừng:

- Chồng nó, con trai tôi chết rồi... ông lão dường như nghĩ ngợi không biết có nên nói ra không. Sau, ông nghĩ là có nói ra với hai anh cựu binh này cũng chẳng việc gì. Con trai tôi cũng trạc tuổi các anh, nó hy sinh rồi, ở mặt trận phía Nam!

Hai anh cựu binh nhìn nhau im lặng. Mặt trận phía Nam là một mặt trân mênh mông, bạt ngàn rừng rú, làm sao mà biết một nơi nào cụ thể. Tất cả các loại giấy tờ liên quan đến người lính chỉ có một địa danh duy nhất. Cuộc chiến đấu của họ mang nhiều yếu tố bí mật, đã đành, suốt một thời gian dài, sự có mặt của anh bộ đội miền Bắc ở chiến trường miền Nam không được coi là hợp pháp. Đến cả những anh hùng, dũng sĩ cũng chỉ được báo chí nêu lên bằng cái tên rất dễ thương: chiến sĩ quân giải phóng, và giấu biệt tăm tích quê hương, nếu anh ta là người ra đi từ miền Bắc. Đã có hơn một triệu người như thế, mà sau này chính các anh mới biết. Đã có một cuộc lưu lạc tập thể, rầm rập bước quân hành mà chỉ có rừng, có đất mới hiểu nổi những bước chân các anh. Rồi ngày chiến thắng trở về, hàng trăm đoàn xe, đoàn tàu hoả đưa các anh trở lại quê hương, nhưng với những người đã ngã xuống, họ nằm lại với một địa chỉ quy ước: mặt trận phía nam!
- Quê cụ ở đâu? Sao con dâu cụ không ở nhà, mà lại bỏ đi để cụ phải đi tìm?
Ông lão Tuân nghĩ cách nói tránh đi sự thật, nhưng ông vẫn chưa nghĩ ra được câu chuyện hợp lý. Mãi lúc sau, ông mới thở dài:
- Chuyện nó cũng dài dòng lắm, các anh ạ. Chuyện cơm chẳng lành, canh không ngọt, để nó bế con ra đi...
Bình, anh chàng có khuôn mặt xương xẩu, cặp môi thâm và cong tớn, đặt cái ba lô con cóc lộn trái sang một bên, giọng gay gắt:
- Thế là tệ! Đàn bà thế thì tệ thật. Chồng đi B, hy sinh mà dám đem con bỏ nhà ra đi thì thật là quá lắm. Thế cụ có biết cô ta ở đâu không?
- Không, không phải thế đâu các anh ạ. Con dâu tôi tốt nết lắm. Chỉ tại gia đình nhà tôi không ưa nó nên mới nên nông nỗi. Hai anh, có anh nào ăn thuốc lào không?
- Không cụ ạ! Nếu cụ thèm thì ra cái quán nước đằng kia mà hút nhờ một điếu, để chỗ đấy chúng con trông cho. Hay cụ hút thuốc lá?
Ông lão vuỗi lưng đứng dậy:
- Tôi không hút được thuốc lá, ho lắm. Nhờ các anh giữ hộ tôi cái túi, tôi đi hút điếu thuốc. Từ tối đến giờ chưa được hơi thuốc, nhạt mồm quá!
Hai anh cựu binh nhìn theo cái lưng to bè, chắc chắn, nhưng đã hơi còng xuống của ông lão mà ái ngại. Ngọc bảo:
- Giá bố mình còn sống thì cũng trạc ông cụ này...
Bất thình lình có tiếng loa nhà ga ọ oẹ, rồi một giong nữ phát thanh nhão nhoét theo truyền thống các nhà ga đường sắt vang lên:
“Đoàn...à tàu...à Hà...à Nội...ỳ Lào...à Cai...a đang...a từ...ừ từ...ừ tiến...ư vào...à ga...a Hàng...à Cỏ...!”
Ô cửa sổ bán vé bỗng nhiên bật sáng, lập tức hàng chục con người nhào tới, bâu kín. Một anh nhân viên bảo vệ đồng phuc xanh thẫm, đeo băng đỏ, tiến đến, bằng một giọng ngái ngủ nhưng vẫn toát ra một giọng nói của kẻ vốn xử dụng quyền uy quen thuộc:
- Xếp hàng vào! Hàng hai! Chen nhau mất trật tự thế này nhà ga bán vé thế nào được?!
Ngọc vừa giũ quần đứng lên, vừa ngó quanh:
- Quái, ông cụ này đi lâu thế nhỉ? Bình, mày ngồi đây đợi ông cụ, để tao ra xếp hàng!
Vừa đói, vừa thèm thuốc, điếu thuốc lào đã vật ông lão Tuân say lâu quá. Phải mãi ông mới lật đật chạy về chỗ ngồi, nhưng nghĩ sao ông lại chen vào xếp hàng. Nhận ra ông, Ngọc bảo:
- Cụ cứ về chỗ khi nãy, để cháu mua vé cho. Cụ di Phú Thọ à?
- Thế anh mua hộ tôi nhá! Vừa nói ông vừa móc túi ra một nắm tiền. Đây tôi có tiền đây, anh cầm mua giúp tôi!
- Thôi con có đây rồi, tí nữa con lấy sau. Cụ cứ cất đi. Cẩn thận cụ ạ, kẻ trộm nó móc mất bây giờ...
***
Theo kinh nghệm cũng như kiến thức sư phạm của mình, chị Nga hoàn toàn thất vọng khi dạy cho thằng Hận học những chữ cái đầu đời. Dù cố gắng hết sức nhưng chị không làm thế nào để thằng Hận học. Nó ngúng nguẩy, không chịu học, và nếu cố gắng lắm, chị Nga bắt nó ngồi vào bàn để học thì nó chỉ cười một cách hồn nhiên. Mọi lời nói từ ngọt ngào, dỗ dành đến qua doạ đều không có kết quả. Chị cố gắng dậy cho nó vẽ một hình tròn, bảo nó đọc đấy là chưa “o”, thì nó đọc thành “a”, và vẽ một hình tam giác. Một tháng trời không thể nào dạy cho nó vẽ được một hình tròn và chữ “o”. Nhưng nếu chị dạy nó vẽ chữa “a” in, hình tam giác, thì nó vẽ một hình vuông!
Chị không chịu đầu hàng, thử làm một vài trắc nghiệm khác nữa, thì chị nhận thấy thằng con trai thiên thần của chị hoàn toàn là một đứa trẻ chậm phát triển. Nó không thể nào phân biệt được dài hơn với ngắn hơn, lớn hơn với bé hơn. Cũng như, nó không phân biệt được trong với ngoài, trước với sau… Đây là một đòn giáng mạnh vào chị Nga, mà chị không biết kêu ai, ngoài Ông Trời!
- Trời ơi là Trời! Sao ông nỡ ăn ở bất công đến thế? Nếu tôi có tội tình gì thì hãy bắt tội tôi đây, chứ nó là một đứa trẻ, sao Trời nỡ hành hạ nó? Nó đã làm gì nên tội? Tất cả sai lầm hay tội lỗi do tôi gây ra tôi đều nhận hết! Dù Trời có bắt tôi phải cực khổ, vất vả, làm thân con chó, con trâu… nhưng hãy để cho con tôi được yên! Mà bao nhiêu năm nay và rồi có khi là hết cả cuộc đời này, tôi đã là một kẻ hèn mọn, sống cơ cưch đến thế mà Ông vẫn chưa hả hay sao?
Nhiều đêm chị vật vã, không ngủ được. Mà hễ cứ nhắm mắt lại, thì lại mơ thấy thằng Hận. Nó ngờ ngệch, bơ vơ, khi chị không còn trên cõi đời nữa… Con ơi! Con ra đời là gì cho cơ khổ thế này! Có con, mẹ đã chịu bao nhiêu tai tiếng, cay đắng, nhục nhã. Nhưng dù cho cây đắng, tủi nhục đến đâu mẹ cũng chịu đựng được, chịu đựng để có con, có mẹ. Mẹ chỉ mong con được thành người, một con người bình thường như mọi người. Nào ngờ, con lại ra nông nỗi này!
Chị không muốn truy tìm nguyên nhân, nhưng chị luôn ân hận. Đó là chuyện nó bị ngã xuống sông, chết đuối hụt. Có thể sau cú chết hụt đó và những trận sốt ly bì, đã làm hỏng thằng bé. Cụ thể là đầu óc nó làm sao đó.
Nhưng cứ nhìn nó ăn, nó chơi, nó lớn lên phổng phao, xinh đẹp thì chị lại không thể nào tin được. Lần chết đuối hụt và những cơn sốt nếu có gì thì ảnh hưởng đến cơ thể bên ngoài của nó thôi chứ? Đằng này, nhìn nó không ai có thể ngờ được nó lại là một đứa trẻ tâm thần, ngờ nghệch?
Tất cả là tại Trời! Có lẽ Trời xanh đã nổi giận! Chuyện loạn luân trong nhà giữa bố chồng và nàng dâu đã lay động đến lòng tự ái của Trời Già! Các người đã dám tự ý sắp đặt, tự ý sinh con đẻ cái. Cái sự tuyệt tự của dòng họ Trần phải xảy ra, phải được thực hiện theo ý của ta. Bất cứ kẻ nào can thiệp vào đều bị ta hành hạ, tiêu diệt…
- Không! Chị Nga đã cố cãi lại, trong đêm đen đặc, màu than và mùi than đá. Chị đã cãi phăng phăng, dù đó là Ông Trời! Nếu không có chiến tranh, không có cuộc binh lửa thì chồng tôi đã không phải ra trận. Sẽ không có người chết, sẽ không có cảnh chồng vợ chia lìa! Lúc đó những đứa con sẽ được sinh ra đàng hoàng dưới ánh sáng mặt trời, minh bạch! Nhưng các người đã làm gì? Trời xanh có mắt như mù. Tại sao cứ đem can qua binh lửa đến cho chúng tôi. Chúng tôi không thể tuyệt tự được, chúng tôi phải tồn tại và kéo dài mãi kiếp người, loài người…
Tự dưng trong đêm tha hương, chị Nga nhớ về quê nhà, và chị thấy thương ông lão Tuân! Ông lão bố chồng và là cha của con trai chị, là nối tiếp, là không dứt bỏ một giòng giống, vốn cũng đã được duy trì trong nhiều thế hệ. Bây giờ ông lão đang ở đâu? Liệu ông có hối hận về việc mình làm không? Liệu ông lão có khi nào tự xỉ vả mình vì sự hèn nhát của mình trước dư luận xóm làng, và trước những người con gái hàm hồ của mình không? Nếu ông lão can đảm và thương yêu chị, có thể chị đã không phải bước những bước gập ghềnh đầy bất trắc trên con đường lưu lạc này? Và nếu ông lão nghĩ lại và hối hận, biết đâu chị Nga sẽ quay trở về với cái làng Sơn Cốt bé bỏng kia?
Đêm gió bấc đầu mùa kéo về đột ngột, sột soạt ngoài vườn chuối, hai dòng nước mắt của chị cứ tuôn dài xuống chiếu, ướt đẫm cả một bên má con trai…
***
Sáng sớm ngày thứ tư, kể từ khi đặt chân lên đất Phú Thọ, ông lão Tuân trở dậy sớm hơn mọi ngày. Trong bóng tối lờ mờ, nhờ ánh trăng già thấp thoáng sau ngọn bạch đàn, ông lão ngồi lần mò đếm lại số tiền trong túi. Năm- mươi- hai đồng một hào tám, là số tiền còn lại, gồm hai đồng tiền to (mười đồng), ba đồng tiền nhỡ (năm đồng), còn bao nhiêu là tiền nhỏ, tính cả vài đồng xu lắc cắc, ông xâu vào một sợi lạt.
Bây giờ, với số tiền này, làm sao có thể sống đến khi tìm được “nó”? Ông lão bần thần ngồi tựa lưng vào tấm vách ẩm, hai bàn chân lùa vào cái bao tải rách, chống rét và chống muỗi, thỉnh thoảng lại giật bần bật. Chứng thấp khớp kinh niên gặp gió lạnh và khí ẩm lại lên cơn hành hạ. Nhưng ông không thấy thế làm đau, không thấy thế để nản chí.
Bây giờ, với số tiền còm trong tay, ông lão đã thấp thoáng có ý nghĩ ân hận về việc ra đi của mình. Đây là một cuộc tìm kiếm vô vọng. Chỉ có một nguồn tin mập mờ từ anh bạn của Định Khiểng, người giao thông xã. Ông muốn tìm người bạn của Định, nhưng lại không dám. Ông muốn việc làm của ông phải được giữ kín, tuyệt đối giữ kín. Chính vì muốn giữ kín nên ông lão Tuân không thể đem đi được nhiều tiền. Muốn có nhiều tiền phải bán thóc, bán gà, bán lợn… Thậm chí có thể bán cả chiếc xe đạp của chị Nga để lại. Nhưng như thế sẽ ồn lên, đến tai mọi người và bị lộ, chưa chắc ông đã đi được.
Nhưng ông lão đã quyết đi. Và bây giờ trong tay ông có ba nước cờ, ông lão đã bày tính kỹ lưỡng. Nhưng cũng như người ta ngồi vào bàn cờ, quân chưa đi, đối phương chưa bộc lộ, thì chẳng có nước nào đáng tin cậy.
Trời sáng dần, ông lão nhìn quanh, thu xếp đồ lề, cuộn tròn lại trong cái tay nải, lững thững đi về phía chợ. Mấy ngày qua ông đã đi tha thẩn như người nhàn rỗi, thấy người thiếu phụ nào dặt con, ông đều ghé mắt nhìn. Đôi khi gây ra những điều khó chịu cho người ta. Vậy mà người ông tìm vẫn chưa thấy.
Hôm nay khác, một nước cờ nhỏ đã được thực hiện. Ông không đi mà ngồi một chỗ ở cổng chợ. Cái nón mê úp lên đầu, chỉ chừa một khoảng để con mắt nhìn nghiêng lên có thể thấy người qua lại. Một bàn tay chìa ra hờ hững… Thỉnh thoảng, rất lâu ông mới lên tiếng, hình như chỉ đẻ cho phải lệ:
- Bà ơi, ông ơi… Xin ông bà rủ lòng thương kẻ già nua, đơn chiếc…

- Khổ quá mất thôi! Một bà lên tiếng lẩm bẩm, tuy nhỏ thôi lại giữa chợ ồn ào nhưng ông vẫn nghe được. Thời buổi đói kém, ăn mày, ăn xin ở đâu mọc ra lắm thế…

 

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3