Hành trình xương thủy tinh- P05
Tất cả đã ở trong tư thế sẵn sàng đón nhận. Mẹ vẫn vui và nhà vẫn rộn tiếng cười...
Những ngày đầu mon men chuyện mua bán nhà kiếm tiền để sống, mẹ đã ngây ngô, ngu dốt đến rất đỗi buồn cười. Kiếm được người mua nhà rồi, nhưng ngặt nỗi ở chưa bao lâu đã bán. Lúc đặt cọc, mẹ phải mời ông tổ trưởng dân phố làm chứng. Ông rất nhiệt tình, rất cảm thông với gia đình mình. Ông bảo: “Này Hương, bác bày cho cháu: trước khi nộp hồ sơ, thì ghé qua cô nhà đất phường một tý. Nhà cô ấy ở đường... số...”. Mẹ dạ vâng râm ran. Nghĩ sẽ có được món tiền dư ra khi bán nhà để lo cho “cậu nhỏ thủy tinh” của mẹ, lòng mẹ cứ tươi hơn hớn.
Mẹ bàn với bố: “Anh này, người ta là cán bộ, lại là nữ nữa, mình phải mua một món quà gì cho có ý nghĩa một chút...”. Bàn bạc mãi, bố và mẹ quyết định: Mua một lọ hoa khô... Bấy giờ hoa khô quý lắm, chơi hoa khô là một thú chơi sang cả. Mẹ quày quả trở lại đường Nguyễn Văn Đậu, tìm gặp anh chị Hải Dung, là chủ shop hoa khô Phương Dung rất nổi tiếng ở đường Hai Bà Trưng. Mẹ ngỏ ý với anh Hải là muốn có một món quà trang nhã, thanh tao. Anh đáp ứng ngay: “Được, anh sẽ cho lính cắm cho em một lọ hoa hết biết luôn!”.
Đẹp thật, những cành hoa khô cắm trong một chiếc ly thủy tinh cao quả là một tác phẩm nghệ thuật. Bình hoa đẹp đến mức khi mang về nhà mẹ đã đem chưng lên bàn ngắm nghía cả ngày và mẹ đã “chơi sang” (sẵn có tí tiền đặt cọc của người mua nhà), gọi ngay ông thợ chụp hình bấm một kiểu bé Khoa bên chiếc bình bông ấy. Xong rồi mẹ mới chịu mang bình bông đi gói quà đàng hoàng, thêm một cái nơ to.
Lòng rất vui, mẹ đĩnh đạc mang món quà đến nhà chị cán bộ và thầm nghĩ chắc chị sẽ rất hài lòng với tác phẩm nghệ thuật này... Nhưng không, ừ thì chị cũng có vẻ ân cần đấy, nhưng khi nói đến chuyện hồ sơ, chị lại lạnh tanh: “Gia đình cứ mang nộp ở phường nhé”...
Sáng hôm sau mẹ ra phường sớm nộp hồ sơ. Và hồ sơ cứ thế nằm im ỉm, mẹ chờ đợi mãi nhưng chả thấy chút tín hiệu gì đáng để mừng vui.
Lo quá, lo phờ phạc cả người. Tiền cọc mẹ đã nhận của người ta rồi và cũng đã tiêu mẻ vào đó một mớ. Nóng lòng, mẹ đến gặp ông tổ trưởng hỏi ý kiến. Ông hỏi:
- Vậy chớ mày có lo quà cáp gì chưa?
- Có chứ, cháu đã mua tặng cô ấy một bình hoa khô đẹp lắm...
Bất ngờ, ông tổ trưởng cười phá lên và “chửi” cho mẹ một trận tơi bời:
- Trời ơi, Hương ơi là Hương ơi, đi làm hồ sơ nhà mà hoa khô với hoa khiếc, rách việc. Đơn giản là cháu làm... một cái phong bì. Sao ngu thế, cháu bán được cái nhà lời ra bao nhiêu, người ta biết hết, giấu làm sao được. Hạt cát mà rơi xuống đất họ còn biết nữa là. Làm một cái phong bì đi, bỏ vô chừng... Ở phường này là dễ đấy cháu ạ, người ta nhận, vui vẻ làm cho, chớ chỗ khác, tiền thì tiền nó cũng đày cho tơi tác ra...
Thế là những đồng tiền thơm phức được rút ra soàn soạt, được chui vào một cái phong bì và được bay đến nơi cần phải đến. Đồng tiền bay đi thật là hiệu quả: Mấy ngày sau mẹ đã hí hửng nhận lại cái hồ sơ, có lời chứng thực, có dấu son đỏ chót...
Thế là mẹ có thêm một bài học: Trên đời này, có nhiều chỗ nghệ thuật không hợp với lòng người. Những chỗ ấy, nghệ thuật nhất chính là cái phong bì vuông vuông, không cần đề chữ gì câu gì bên ngoài, quan trọng là bên trong nó chứa đủ một con số tỷ lệ phù hợp với lợi tức mà mình kiếm được hay không...
Con vào lớp một mới hơn một tháng đã lại gẫy tay! Mẹ biết con đau đớn vô cùng, muốn nghỉ học, nhưng mẹ đã nói với con, phải chấp nhận thôi, tránh làm sao được. Mẹ ra trường gặp các thầy cô giáo để trấn an: “Căn bệnh của con tôi là vậy, mong các thầy cô cứ cho cháu học tiếp. Mỗi lần có chuyện gì xảy ra với cháu, chỉ xin các thầy các cô liên lạc gấp với gia đình”. Mẹ không muốn các thầy cô giáo chịu áp lực về bệnh tình của con. Con gãy xương hoài, đi học đeo bột thường xuyên. Riết rồi cũng quen. Khi đã quen, cảm giác nặng nề cũng vơi bớt...
Mẹ phải tiếp tục lao vào việc kiếm tiền để đương đầu với bệnh tình của con, với sự sống của con, với tương lai của con và em Khoa nữa... Bây giờ thì mẹ đã bớt đi sự dại dột, đã biết đi thăm đất từng khu, giá cả thế nào, biết tính giá nhà là giá trị thực cộng chi phí giấy tờ, cộng tiền cò quạ và thêm phần lợi tức...
Con có nhớ không? Ta đã ở dọc đường Lê Đức Thọ suốt tám năm, đã bán nhà mười lần và con đã gãy xương tới 27 bận... Cuộc sống ấy không thể nào là nhẹ nhàng! Đã có rất nhiều, rất nhiều chuyện xảy ra, rất nhiều những con người mà ta gặp gỡ, giao thiệp, có rất nhiều những nỗi đau và thương tổn mà mẹ phải chịu đựng... Nhưng cũng có vô khối những niềm vui, dù nho nhỏ... Chỉ để đổi lấy một điều: Con sống. Con được đi học. Con được yêu thương và được chăm sóc đủ đầy. Dẫu gia đình ta không có được một mái nhà yên ổn, nhưng chúng ta vẫn có nhau, vẫn tồn tại giữa đời này...
Những tháng ngày sống dọc tuyến đường Lê Đức Thọ mẹ làm đủ việc để kiếm tiền. Có lúc suy sụp, vốn liếng không còn, con lại ốm đau không thể bỏ con mà đi lâu, mẹ xoay ra bán rau muống!
Rất nhiều người họ sẽ coi đó là một công việc bệ rạc tầm thường, nhưng với mẹ thì không, lúc đó công việc ấy với mẹ là hợp người hợp cảnh nhất.
Nguồn rau muống thì ngay cạnh nhà mình rồi. Bác Giá, chủ ruộng rau, vẫn mượn sân nhà ta để bỏ mối rau cho những người đi bán. Một bó rau muống lớn là hai ngàn đồng, người mua lại san ra làm bốn bó nhỏ, mang xuống chợ rau đêm bỏ lại là tám trăm đồng một bó, vị chi bốn bó là ba ngàn hai. Mẹ tính nếu lấy hai chục bó lớn, bỏ mối thì cũng kiếm được hai mươi bốn ngàn. Từ nhà mình lúc ấy ra cầu trường đai gần lắm, xăng cũng không tốn là bao. Bán hết mớ rau là mẹ có được một buổi tiền chợ.
Bán rau muống đêm vừa có tiền mà lại còn vui nữa, mẹ nghe được đủ thứ âm thanh trên cây cầu trong đêm. Chợ rau tan, cây cầu lại im lìm chào đón một ngày mới. Chỉ có điều nhiều hôm mẹ buồn ngủ quá đi thôi. Hai giờ rưỡi sáng mẹ đã phải dậy rồi, bán xong quay về đã hơn sáu giờ. Về đến nhà cơn buồn ngủ ập theo, không thể chịu được. Không thể chịu được nhưng rồi cũng phải chịu được thôi vì bao nhiêu việc đang chờ mẹ... Dẫu gì những đêm bán được cũng là những đêm may, chỉ sợ ế là rất nguy: hai chục bó rau lớn là thành tám mươi bó nhỏ chứ ít gì đâu. Nếu đêm ế là sáng mẹ phải gánh chạy rong mấy con hẻm bán cho bà con, chạy rã cả chân cả cẳng con ạ.
Công việc bán rau muống đêm nghe nhàm chán thế, nhưng thật ra từ đó mẹ thấy rất nhiều điều hay. Những đêm khuya trên cây cầu ấy, mẹ “nhìn ngắm” được rất nhiều những mảnh đời từ nhiều nơi đổ về, hội tụ trên cầu, dưới cầu. Mỗi người có tính cách riêng, có công việc riêng, có cuộc đời riêng, hoàn cảnh riêng..., nhưng chung quy họ đều kiếm sống lương thiện, đều có tình, biết bảo bọc nhau, nương tựa nhau... Có những mảnh đời gây cảm xúc rất đậm trong mẹ và mẹ đã viết thành những câu chuyện. Có câu chuyện mẹ gọi tên là “Thầm thì chuyện kể trong đêm”. Mẹ chép lại ra đây con nhé.
Thầm thì chuyện kể trong đêm
Cô nàng là người đến sớm nhất ở chợ rau. Cô chở rau bằng một cái xe “đam” cũ mèm, đằng sau kéo thêm một cái thùng sắt, cái lồng sắt gắn bánh xe ấy chất đầy rau muống cao chất ngất. Nếu đi từ đằng sau sẽ chẳng thấy cô đâu. Chỉ nghe thấy tiếng xe rè rè của cô rất đặc biệt.
Anh chàng cặp thuyền sát mé sông, thuyền anh ta chở cát. Chẳng có gì là can hệ nếu tiếng xe của cô không làm anh ta phải tỉnh giấc đúng vào giờ cô đến - lúc mà trời đất còn âm u.
Vì trời âm u nên dưới thuyền anh ta tối thui tối mù, mà cô thì lại ngồi ngay chân cầu, dưới dàn đèn cao áp trong lấp lóa. Anh chàng thấy cái nón lá màu trắng lắc lư, thấp thoáng một bờ vai nhỏ nhắn, gọn gàng.
Vì dưới thuyền tối thui nên anh chàng nhìn lên khoảng sáng rất rõ, bởi vậy anh ta tò mò. Tò mò vì không hiểu sao cái nón trắng lại cứ lắc lư như thế.
Bây giờ thì anh ta lại càng tò mò tệ, vì cô nàng đã xăng xái đi xuống bờ sông, cầm theo một cái xô nhựa nhỏ. Anh chàng thụt vội đầu vào khoang lái vì sợ bị phát giác, nhưng mắt anh ta thì vẫn theo sát cô nàng. Chẳng thể nhìn thấy mặt cô, vì cô đã thay cái quai nón bằng một cái khăn mùi soa kín mít.
Không biết có một người đang nhìn trộm, cô gái véo von hát nho nhỏ một mình, cô xắn cao quần lội ra xa bờ một chút. Ấy tính cô là thế, chỉ lấy một xô nước té cho xe rau tươi tắn, cô vẫn muốn lấy nước ở ngoài xa cho vừa trong vừa sạch.
Thuyền cát im lìm với cái khoang lái tròn tròn y như tổ chim sẻ kia cũng đâu có liên quan tới cô?
Cô lẩm nhẩm hát một đoạn chèo cổ có tự thuở nảo thuở nào. Từ ngày đặt chân vào thành phố xa lạ này để làm nghề bán rau, cô chẳng thấy ai hát điệu chèo ấy nữa. Cô í a cho quên bớt nỗi nhớ nhà và bớt lạnh.
Chàng trai trong khoang thuyền... “chết đứng”. Anh ta chẳng nghe ai hát lạ thế bao giờ. Quê anh ta ở miền Tây. Những đêm lênh đênh sông nước của đời chở thuê, anh cũng hay nằm khểnh chân ngân nga vài câu trong bài Tình anh bán chiếu, còn bài ca của cô bán rau thì quả quyết là anh chưa được nghe bao giờ.
Vì chưa nghe bao giờ nên anh ta quyết định... lên bờ. Quấn thêm một vài vòng xích sắt để chắc ăn là con thuyền đã được neo cho chặt, anh đợi cô đi khuất rồi mới dám lên...
Lúc này trên cầu đã xuất hiện thêm hai người bán dạo trong đêm, một bà già bán xôi và một ông bán cà phê cóc. Quán cóc di động này thật là đơn giản: hai cái ghế nhỏ xíu, một cái bàn gỗ gấp xếp. Thế là đã có chỗ hợp pháp cho anh chàng dưới thuyền có cớ ngồi ngắm cô bán rau.
Thì ra cô lắc lư cái đầu là vì cô đang san rau ra từng bó nhỏ. Cô bó từng bó gọn gàng, nhặt nhạnh lá sâu, xếp có lớp có lang để tí nữa giao cho mấy chị bạn hàng theo từng chục 12, 14.
Tay cô thon thả dịu dàng, cái đầu thì đánh nhịp. Anh chàng quả quyết trong lòng rằng tất cả những bà bán hoa ở chợ Bến Thành cũng không thể nào có bàn tay khéo léo như của cô hàng rau ở chân cầu này được.
Dần dà, anh ta bỏ xa cái bàn gấp xếp để tiến gần đến cô nàng bán rau. Bàn tay to bè, xấu xí của anh lóng ngóng trên những cọng rau non tơ trông thật là tội nghiệp. Cô hàng rau bật cười.
Cô gái cười thật tươi, nón lá bỏ ra rồi, anh lái thuyền khẳng định là cô đẹp: nước da mai mái, răng khểnh có duyên, má lúm đồng tiền. Kiểu này thôi rồi: anh chết chắc! Mà anh “chết” thật, nên đã gần một năm nay anh chàng đã chọn luôn khúc sông dưới chân cầu, nơi có chợ rau họp đêm làm bến đỗ.
Cô bán rau đã quen tính quen nết anh chàng, sao vẫn chưa chịu xuống thuyền? Cô sợ thuyền tròng trành, cô sợ đời lênh đênh. Dù trong tận nơi trái tim cô biếtanh lái thuyền cũng tốt.
Họ rù rì bàn định với nhau, bàn định thế này: rằng cô sẽ bán xe “đam” cho một người quen, xuống thuyền, nhưng vẫn giữ nghề bán rau. Còn anh chàng sẽ giữ con thuyền nhưng chia tay với nghề chở cát. Đêm đêm họ sẽ chở rau bằng thuyền, anh sẽ gánh rau lên bờ cho cô rồi hai đứa cùng ngồi bó lại.
Chuyện lọt tai hai người “hàng xóm”. Bà bán xôi khen tốt, ông cà phê cóc cũng gật gù. Thế mà sao cô vẫn còn chần chừ, vẫn chưa chịu xuống thuyền cùng anh lái. Hóa ra cô sợ, sợ trời tối, sơ sẩy sẽ trượt chân. Đời người ta lỡ sẩy chân một lần... Eo ôi, cô sợ lắm!
Ông cà phê cóc cho mượn cây đèn lọ mực. Bà bán xôi gói thêm một gói xôi thơm, bà giục: “Con cứ theo nó xuống thăm thuyền, rau cỏ hôm nay để tao giao mối hộ!”.
Chuyện tôi kể cho các bạn nghe là có thật... gần 100%, bởi vì tôi chính là chứng nhân, tôi là... cây cầu ở trong truyện này đấy!
Bây giờ thì tơ mơ nào cũng vậy, hai người hì hụi chuyển rau từ thuyền lên. Cô hàng bán rau vẫn rất có duyên, còn anh chàng lái thuyền thì có vẻ hơi chững chạc. Chững chạc cũng phải thôi! Vì ở dưới khoang thuyền kia: nằm cuộn tròn trong chăn ấm êm có một thằng bé con lên hai đang say ngủ.
Chú thích: tôi - cây cầu ximăng lạnh lẽo, đã rung rinh trước câu chuyện đẹp đẽ này.
Tôi đã thầm thì kể lại cho một người hay lãng du trong đêm nghe và nhờ người ta viết lại câu chuyện gửi cho các bạn, người ấy nghe xong cứ gật gù tâm đắc: hạnh phúc ở quanh ta đâu phải chuyện hoang đường(*)
Hội thấy không, nếu mà con học quan sát, con sẽ thấy có vô vàn cái đẹp ở trong đời, kể cả ở những nơi và ở những con người bình thường nhất.
... Những chút hồn buồn trong lá rụng
Bị nhàu ai tưởng dưới trăm chân.
Bông hoa rút cánh rơi không tiếng.
Chẳng hái mà hoa cũng hết dần...
(Xuân Diệu)
Chiều nay ta mới dọn xong nhà. Giã từ đường Lê Hoàng Phái, giã từ chùa Kỳ Quang. Ta dọn đến một ngôi nhà khác. Cũng chẳng quan trọng gì nữa. Nền nhà mẹ đã cho cẩn lại trắng tinh, con cứ lần ghế lần tường mà đi cho thoải mái. Mẹ đã nói rồi: những vật hữu hình ở thế gian này có quan trọng chi đâu. Nhà mới tuy nhỏ nhưng có một gác con con và một ban-công xinh xắn đủ chỗ cho mẹ con ta ngồi ngắm trăng sao trong đêm tối.
Ánh sáng đã lùi dần và mọi thứ rơi vào đêm tĩnh lặng. Mẹ ngồi một mình trên chiếc ban công ấy. Bố rón rén đi lên, mang theo một... gói mì tôm.
Bố biết mẹ đang buồn, mẹ đang uống rượu. Ôi con trai nhỏ ơi! Một lần nữa mẹ lại uống rượu, vì mẹ đang buồn, buồn lắm! Mẹ đã từng viết thư nói với một người bạn rằng: “Bạn có tin không? Đời tôi chỉ là những mảnh tối tăm ghép lại...”.
Khổ nỗi những mảnh tối tăm ấy không phải là tại mẹ, do mẹ mà ra. Có một nỗi đau đang đeo đẳng mẹ cả tháng nay, khi mẹ làm thủ tục bán căn nhà ở Lê Hoàng Phái. Chuyện giấy tờ là tốn kém, nhiêu khê, mẹ biết, nên không ngại, người sao ta vậy thôi mà.
Nhưng lần này thì khác. Hôm ấy mẹ vẫn tớixếp hàng ở 19 Quang Trung, giấy hẹn đã trễ mấy lần rồi. Sao họ lại cứ đuổi mẹ về văn phòng Quản lý đô thị ở đường Lê Quang Định? Đó là nơi xuất phát của những bản vẽ bản đồ. Mấy thứ này cứ gọi là sai một li là đi mấy dặm. Họ là cơ quan kỹ thuật, họ vẽ sai thì họ sửa, chứ mình có tội gì? Ấy thế mà mẹ của con trở thành có tội! Đại loại có những câu hỏi mà họ “tạt” vào mẹ hết sức ấn tượng: Chẳng hạn: “Chồng bà đâu mà thấy bà đi làm giấy tờ hoài vậy?” (ý là họ chửi khéo mình đã bán nhà mấy bận rồi đây!). Kệ! Mẹ chỉ cần hỏi giấy của mẹ thôi. Họ chỉ quanh một hồi, rồi bắt mẹ phải lên trình với một ông sếp tên là D.C.H.
Mẹ lò dò lên lầu một và gõ cửa. Ông ta nhìn mẹ một hồi như con cú vọ... Hoạnh họe đủ điều rồi lại tống mẹ ngược về... 19 Quang Trung.
Về đó thì về, ăn nhằm gì! Và tại đây mẹ nhận được một lệnh hết sức hãi hùng... Phải để cho họ... xét đồ rồi hồ sơ mới được giải quyết (?!). Tại làm sao lại vậy chứ?
Theo họ, khi mẹ rời khỏi cơ quan ở Lê Quang Định thì họ bị mất một món đồ, là một cái máy tính hay gì đó... Ôi trời ơi đất hỡi! Dưới sự “giám sát” của một “quan bà” tên là Nam, mẹ phải... tốc vạt áo, vén ống quần, đổ hết cả đồ đạc cá nhân trong giỏ ra cho họ... xét.
Ôi! Nhục ơi là nhục! Mẹ muốn lột cả áo quần mà đập vào mặt thế gian, rồi chết luôn ngay ở đó cũng được! Này hỡi cái ông Nguyễn Du đáng kính ơi... Ông đã từng kêu lên: “Thịt da ai chẳng là người”. Nhưng đấy là ngày xưa! Còn bây giờ, đây là bây giờ hẳn hoi ông ạ!
Mẹ của con đứng im và nhợt nhạt như một xác chết. Mẹ muốn gào, muốn khóc, nhưng không thể được, vì mẹ nghĩ đến các con... Mẹ phải nộp được hồ sơ, phải bán được nhà mà sống!
Mẹ nuốt cái căm cái hận vào lòng. Mẹ lảo đảo gọi xe ôm chở mẹ về nhà cấp tốc. Một lần nữa mẹ muốn đổ gục, không phải vì bệnh tật mà vì trái tim đã bị đâm xuyên bởi một lưỡi kiếm sắc nhọn vô hình. Đó là sự tàn ác, khốn nạn của con người. Mẹ tưởng như lòng mình đã chết...
(Cho đến mãi tháng 3 năm 2007 vừa rồi, mẹ thấy báo chí, đài truyền hình đăng tải rình rang: cả một bầy đàn bọn chúng đã đứng trước vành móng ngựa. Nhân nào thì quả đó thôi, trái tim mẹ không hề gợn lên một chút nào sự thương cảm bọn người xấu xa đó).
Trở lại cái đêm tăm tối ấy: mẹ uống rượu đến mềm người. Mẹ nói với bố: “Em nộp đơn tố cáo chúng nó rồi...”. “Để được gì? - Bố thở dài - Mình còn con cái, em à. Vả lại phủ bênh phủ, huyện bênh huyện... Cùng lắm lại là một cái thư xin lỗi mà thôi”.
Có lẽ họ cũng ngại, ngại cái liều của một người đàn bà bị xô vào cùng quẫn. Đến như ngày xưa chị Dậu bị dồn thì cũng xô té nhào và đập cho thằng cha Phó Lý một trận đấy thôi. Mẹ cũng muốn liều rồi, vì sức chịu đựng của một con người là có giới hạn. Mẹ lạnh lẽo nhìn lên trời và nói với bố con như vậy.
Đúng như bố con nói! Họ gửi đến cho chúng ta một cái thư xin lỗi với một giọng lịch sự và nhã nhặn, có chữ ký của ông trưởng phòng và dấu đỏ hẳn hoi.
Mẹ lướt qua một lượt rồi vò ném tọt vào thùng rác. Mẹ chẳng thể tin cái gọi là công lý, lẽ phải của họ nữa đâu. Mẹ sẽ tự bảo vệ các con và gia đình mình; mẹ sẽ thiết lập một thiên đường ngay ở trong nhà cho các con của mẹ. Còn đối với những con người xấu xa ngoài đời ấy, mẹ sẽ đóng cửa lòng mình lại. Nào ai đâu muốn lòng mình chai đá làm chi. Trái tim thịt máu có mềm mại, nồng nàn đến đâu, bị chà đạp nhiều rồi cũng trở thành chai đá. Rõ là khổ. Mẹ khổ cũng đành, mẹ chỉ mong các con của mẹ đừng phải khổ, phải đau...
Ông trời vốn có đức hiếu sinh, ông sẽ chẳng lấy hết của ai đến tận cùng tận kiệt bao giờ.
Cửa lớn không mở thì ta đi cửa hẹp. Sau một vài phen hú vía kinh hoàng của những ông bà quan ngồi ở cửa quyền cao chức trọng, mẹ lại nghĩ ra kế khác.
Hóa ra đâu cứ phải là có giấy tờ mới bán được nhà! Nơi những vùng ven có rất nhiều người dân nghèo khó. Họ mua bán với nhau bằng chữ tín, ít tiền họ đi tìm những căn nhà nho nhỏ ở những con hẻm quanh co, hoặc rìa những... nghĩa địa. Chỉ cần khu đó không bị... giải tỏa kẻo lại mất trắng ít tài sản còm cõi chắt chiu, và có thêm một người tốt chịu làm chứng là có thể mua bán với nhau được.
Vậy là mình có đường sống rồi con! Mẹ xục xạo rúc rích ở mọi con hẻm để tìm những căn nhà như vậy. Thế là chúng ta lại có tiền, và luôn được ở... nhà mới, thích ghê! Đã có lúc mẹ được thanh thản thảnh thơi, để ngồi vẽ mẫu những ô cửa sổ...
Đã thế, mẹ cũng không chịu dừng lại. Cứ mỗi căn nhà mẹ lại nghĩ ra một kế mưu sinh. Trước là kiếm sống cho nhà mình, sau là để người mua nhà có cái“cần câu” xinh xinh mà câu những “con tép” nhỏ. Có căn mẹ mở tạp hóa, có căn mẹ lại bán cháo lòng, có căn mẹ bán cơm tấm bình dân, có căn, “ngông cuồng” hơn, mẹ lại ngăn một chỗ làm nơi ca hát (karaoke)! Ừ, thích thật! Hồi ở khu phố 4 (Phường 17 - Gò Vấp) là một thời kỳ đẹp nhất, lăn lộn nhiều mẹ quá quen thuộc với bà con. Mẹ thương họ vô cùng, vì họ cũng nghèo như mình và họ cũng thương mình nữa. Nhà mình ở đâu cũng mở rộng cửa. Mẹ thích chơi với trẻ con và người già. Ban điều hành khu phố cũng rất “nghiện” nhà ta.
Nhà ta đã trở thành địa điểm hội họp, gặp gỡ. Mẹ tung tăng đi khắp khu phố, tổ dân phố nào mẹ cũng đi qua. Mẹ đi làm việc cho hội phụ nữ, đi làm thiện nguyện... Mẹ cùng với ông Bảy Cường (khu phố trưởng) và bà con nghĩ cách làm đường. Mẹ lại còn rủ rê bạn bè dồn góp tặng khu phố một cái loa phóng thanh và mấy bộ đèn cho khu phố sáng sủa. Mẹ yêu nơi ấy đến mức khi kẻ xấu lọt vào khu phố ăn cắp hết đường dây điện chiếu sáng của bà con, bố mẹ đã theo bác Kiệt (phụ trách dân phòng) và các chú dân phòng thức ngày thức đêm và đã cùng nhau tóm được kẻ cắp. Ừ, thích thật! Khi mình sống chẳng phải cho riêng mình mà còn cho người khác nữa, khi bệnh tật bớt đe dọa, khi nghèo đói bớt đeo bám thì vui sướng biết bao. Mỗi buổi sáng mẹ dịu dàng ra mở cửa dọn dẹp cái quán con con và cười với mọi người. Bé Hội của mẹ ơi, kể ra cuộc đời mẹ con mình cũng đã có lúc vui tươi đấy chứ!
Nhưng...
Con lại ốm, ốm quá đi! Mẹ đành phải xếp lại những đam mê và hào hứng. Bây giờ các đầu xương của con đã bắt đầu hơi mục và con vừa học hết lớp 3. Con ốm yếu, tong teo như một con mèo tội nghiệp. Tay gẫy, chân gẫy, con vẫn đi thi, con viết bằng cái tay còn lại bên kia: tay trái. Cô Linh, cô giáo của con, đã thương con mà khóc đỏ hoe cả mắt. Khi con đổ bệnh, tiền bạc trong nhà lại đội nón ra đi. Ba lại trở nên lầm lì và mẹ thì thấy mưa buồn ở trong gan trong ruột!
Biết làm sao được! Có lẽ số mẹ đã được định như vậy rồi. Ta lại tiếp tục đi thôi... Đi đến nơi xa hơn nữa cũng chẳng phải là chuyện dễ. Đất điền giờ đã “đóng băng” rồi. Mẹ đi sục sạo suốt. Mẹ chẳng thể để cánh cửa cuộc đời đóng lại.
Còn con, xương vẫn tiếp tục gãy, không thể theo học ở trường lớp phổ thông được nữa, mẹ phải chuyển con xuống lớp phổ cập ban đêm. Sâu thẳm trái tim, mẹ không muốn con thất học. Trong cuộc đời của mẹ đây là một quyết định rất khó khăn. Xuống lớp ban đêm, có nghĩa là con đã mất đi một phần đời thơ dại. Phải chịu vậy để kiếm một chút tri thức và bảo toàn mạng sống. Học ban đêm, mẹ có thể ngồi đó canh con và đón con về. Sự va chạm cũng giảm đi vì lớp toàn những anh chị lớn. Những buổi tối đợi con học trong lớp, mẹ ngồi dưới gốc bàng, mặc muỗi cắn đầy hai chân, mẹ vẫn thả ước mơ bay lên tận trên trời, nơi có những vì sao. Mẹ vẫn mơ con sẽ khỏe mạnh, sẽ lớn, sẽ cao to. Con sẽ hái cả sao trời tặng mẹ. Nhà có xe máy mẹ chở con đi xe máy. Nhà bán xe máy, mẹ lót chăn vào xe đạp chở con đi, chở con về. Dù gì, khó khăn đến đâu, đớn đau đến đâu, vẫn phải học con ạ... Nhiều lần mẹ đã nói với con như thế.