Truyện ngắn Anton Pavlovich Chekhov - Chương 02
Cây vĩ cầm cho Rothschild
Đó là một thị trấn nhỏ, còn tồi tệ hơn một cái làng, trong
đó dân cư hầu như toàn ông già bà lão, chết hiếm tới mức khó chịu. Bệnh viện và
nhà tù cần rất ít quan tài. Nói tóm lại, công việc ở đây rất chán. Giá Iakov
Ivanovich làm nghề đóng quan tài ở trên tỉnh thì có lẽ lão đã có một ngôi nhà
riêng hẳn hoi, và ở đó người ta gọi lão là ông Iakov Matveevich, chứ không như
cái giống dân mách qué ở đây, gọi trống không cái tên Iakov, đã thế còn đặt cho
lão cái biệt danh “lão Đồng”, hoạ có trời mới hiểu là gì. Iakov sống nghèo khổ
như một gã mugic tầm thường, ngôi nhà gỗ cũ kỹ chật chội, trong đó cả lão,
Marpha, cái bếp lò, cái giường đôi, đống quan tài và các thứ đồ đạc khác đều
nhét vào một cái phòng duy nhất.
Iakov đóng những chiếc quan tài đẹp và chắc chắn. Đối với
đám mugic và cánh đàn ông thị trấn, lão đóng quan tài theo kích cỡ của bản thân
và chưa một lần nhầm lẫn, bởi vì có bói cũng không ra một người cao to, chắc khỏe
như lão, kể cả trong nhà tù, mặc dù lão đã bẩy mươi tuổi. Đối với đám người có
máu mặt và phụ nữ, những cỗ quan tài được đóng theo kích thước của họ mà lão đo
rất kỹ bằng cái thước sắt. Còn quan tài đặt cho con trẻ lão nhận một cách miễn
cưỡng, đóng chẳng theo một kích cỡ nào, và lúc nhận tiền công bao giờ cũng nói:
- Thật tình, tôi chả thích làm nhưng việc vặt vãnh thế này.
Ngoài nghề đóng quan tài, lão còn chơi đàn thuê để kiếm thêm
chút đỉnh. Ở thị trấn, trên các đám cưới, người ta hay gọi đội nhạc Do thái tới
chơi. Đội nhạc do lão thợ thiếc Moise Ilich Sakhkes làm ông bầu và thường thu về
cho mình già nửa số thu nhập. Vì Iakov kéo vĩ cầm rất hay, nhất là những bài
hát Nga, nên Sakhkes thỉnh thoảng vẫn mời lão chơi trong đội nhạc của mình và
trả cho lão năm mươi copek một ngày, không tính những món thưởng của khách. Cứ
thoạt ngồi vào ban nhạc là bao giờ người Iakov cũng đẫm mồ hôi và mặt thì đỏ
gay đỏ gắt; không khí nóng nực nồng nặc mùi tỏi đến ngạt thở, tiếng violon rít
lên, tiếng contrebasse khàn khàn bên tai trái, còn bên tai phải là tiếng sáo nức
nở của gã Do Thái tóc hung, gầy nhom, mặt chằng chịt những đường gân xanh đỏ,
mang cái tên của Rothschild, một người giàu nổi tiếng. Và gã Do Thái đáng nguyền
rủa này, kể cả những lúc vui vẻ nhất, vẫn cố tình thổi sáo thật não nùng. Không
có một nguyên cớ rõ ràng nào, nhưng trong người Iakov cứ dần dần tích tụ sự
ganh ghét và lòng khinh bỉ đối với dân Do Thái, đặc bịêt với Rothschild; lão
nhiếc móc, chửi mắng gã bằng đủ lời xấu xa, có lần còn định tẩn cả gã nữa.
Rothschild giận giữ, làu bàu, nhìn lão, rít qua kẽ răng:
- Nếu không trọng cái tài của ông thì tôi đã ném ông qua cửa
sổ từ lâu rồi.
Sau đó gã bật khóc. Chính vì thế người ta mời lão Đồng rất
hãn hữu, chỉ trong trường hợp vắng mặt một nhạc công Do Thái nào đó.
Iakov không bao giờ có được tâm trạng sảng khoái bởi lão
luôn phải chịu những thất thu ghê gớm. Ví dụ, chủ nhật và những ngày lễ làm việc
là có tội, còn thứ hai - húy nhật, chính vì thế trong một năm, muốn hay không,
phải có tới gần hai trăm ngày ăn không ngồi rồi. Thiệt hại mới lớn làm sao! Này
nhé, có những đám cưới lại không cần nhạc, hay Sekhkes không mời Iakov, thế là
thiệt rồi. Cảnh sát trưởng hai năm liền ốm đau, tàn tạ và Iakov mong chờ lão chết
từng ngày, ấy vậy mà lão lại lên tỉnh chữa bệnh rồi ngoẻo luôn ở đó. Này nhé,
thiệt hại có khi lên tới cả mươi rúp, nếu như buộc phải đóng một cái quan tài đắt
tiền có hoa văn phủ nhũ. Những tính toán thua lỗ thường dày vò Iakov vào ban
đêm; lão đặt chiếc vĩ cầm lên chăn, và khi đủ mọi ý nghĩ vớ vẩn len vào đầu,
lão lại bật giây đàn, cây vĩ cầm phát ra những âm thanh trong bóng tối khiến
lão nhẹ lòng hơn.
Ngày mùng sáu tháng năm năm ngoái Marpha bỗng nhiên lăn ra ốm.
Bà thở nặng nhọc, uống nhiều nước và đi đứng loạng choạng, thế mà buổi sáng vẫn
tự mình nhóm lò, thậm chí còn đi kín nước. Tới chiều bà nằm một chỗ. Iakov chơi
đàn suốt ngày, tối mịt mới xem đến quyển sổ ghi chép những thất thu hàng ngày,
và vì buồn chán lão làm bản tổng kết cả năm. Tổng cộng mất tất cả hơn nghìn
rúp. Điều đó làm lão sốc tới mức vứt toẹt quyển sổ xuống sàn và di di chân lên.
Sau đó lão lại vớ lấy cái bàn gảy và tính toán rất lâu, thở dài căng thẳng. Mặt
mũi lão đỏ gay và đẫm mồ hôi. Lão nghĩ hơn nghìn rúp thất thu đó nếu đem gửi
nhà băng thì mỗi năm lãi suất cũng chẳng được là bao - có 40 rúp. Có nghĩa 40
rúp này cũng là một mất mát nữa. Nói tóm lại, dù có xoay xở như thế nào, thì ở
đâu cũng độc thấy mất mát, không hơn.
- Iakov! - Marpha bất ngờ gọi lão. - Tôi chết đến nơi rồi.
Lão nhìn bà vợ. Mặt bà đỏ rực vì nóng, sáng rỡ và sung sướng
khác thường. Lão Đồng quen nhìn thấy mặt bà nhợt nhạt, len lét thảm hại, giờ
đây lão thấy lúng túng. Hình như bà lão đốc chứng chết thật và tỏ ra sung sướng
vì cuối cùng đã vĩnh viễn rời khỏi cái nhà này, thoát khỏi đống quan tài và khỏi
Iakov... Bà nhìn lên trần, đôi môi động đậy, nét mặt của bà thật hạnh phúc, như
thể bà đã nhìn thấy cái chết, người giải thoát cho bà, và đang thầm thì với nó.
Trời hửng sáng, từ cửa sổ nhìn thấy rõ bình minh đang cháy rực.
Nhìn bà vợ già, Iakov không hiểu sao nhớ ra rằng cả cuộc đời chưa một lần lão
vuốt ve bà, chưa từng thương xót bà, chưa bao giờ nghĩ tới việc mua cho bà lấy
một tấm khăn choàng nhỏ, mà chỉ la mắng bà, chửi bới vì thua lỗ, nhào tới bà với
những nắm đấm. Thật ra thì chưa bao giờ lão đánh vợ cả, nhưng mỗi lần dọa nạt
như thế cũng đã đủ làm cho bà sợ rúm cả người. Ngoài ra, lão còn không cho bà uống
trà, sợ tốn kém, và bà chỉ uống nước trắng. Chính vì vậy nên lão hiểu được vì
sao nét mặt bà giờ đây thật kỳ lạ, sung sướng và lão cảm thấy khiếp hãi.
Chờ cho sáng hẳn, lão mượn ngựa của hàng xóm và chở Marpha tới
bệnh viện. Ở đó không nhiều bệnh nhân lắm, vì thế lão không phải đợi lâu, chỉ mất
có ba tiếng. Và thật quá may cho lão, lần này tiếp bệnh nhân không phải là quan
đốc, vì bản thân ngài cũng bị ốm, mà là viên y tá Maksim Nikolaich, người mà cả
thị trấn kháo nhau rằng mặc dù là tay bợm rượu và thích gây gổ, song còn biết
việc hơn đốc tờ.
- Xin chào ngài, - Iakov vừa dìu vợ vào phòng khám, vừa chào
hỏi. - Xin được thứ lỗi, chúng tôi tới quấy quả ngài, Maksim Nikolaich, vì việc
vặt này. Chả là bà xã chúng tôi vừa mới bị ốm. Nói thế nào nhỉ, bạn đời, như
người ta thường gọi, dạ, xin lỗi ngài về cách nói năng...
Cau đôi lông mày bạc và vuốt cái ống nghe, viên y tá bắt đầu
khám cho bà già. Marpha ngồi trên ghế đẩu người gập xuống, gầy gò, mũi nhọn với
cái miệng há ra, nhìn nghiêng trông bà giống như con chim đang khát nước.
- Rồi... Xong rồi - viên y tá chậm chạp nói và thở dài. - Bội
nhiễm, mà cũng có thể sốt nóng. Hiện đang có dịch thương hàn ở thành phố. Biết
làm sao được? Bà già sống thế cũng là đủ rồi, lạy trời... Bà ấy bao nhiêu tuổi
vậy?
- Thiếu một tuổi tròn bẩy mươi, thưa ngài Masim Nikolaich.
- Biết làm sao? Bà già sống đủ rồi. Đã đến lúc được về với
Chúa.
- Dạ, ngài dạy thật chí lý, Masim Nikolaich, - Iakov nói, mỉm
cười nhũn nhặn, - xin được đa tạ lòng tốt của ngài, nhưng chúng tôi cũng xin
phép được trình bầy, mọi loài sâu bọ đều muốn sống cả ạ.
- Chứ lại à! - Viên y tá nói với cái giọng như thể sự sống
chết của bà già phụ thuộc cả vào lão. - Thôi, thế này nhé, ông bạn, đắp khăn
nhúng nước lạnh lên đầu bà ấy và cho bà ấy uống chỗ thuốc bột này, ngày hai lần.
Còn bây giờ xin tạm biệt.
Căn cứ vào nét mặt của viên y tá, Iakov hiểu rằng việc của vợ
lão hỏng rồi và chẳng có thuốc bột nào có thể cứu nổi. Lão hiểu rất rõ rằng
Marpha sẽ chết rất nhanh, chỉ nay mai thôi. Lão khẽ nắm khuỷu tay viên y tá,
nháy mắt và nói thầm:
- Masim Nikolaich, hay đặt giác hút cho bà ấy?
- Không có thời giờ, không có thời giờ. Làm ơn đưa bà ấy ra
ngoài. Đi ngay cho. Tạm biệt.
- Xin ngài làm ơn, làm phúc, - Iakov van nài, - Tự ngài cũng
biết đấy, nếu như bà ấy bị đau bụng hay đau cái gì bên trong cơ, lúc đó mới
dùng đến thuốc bột, thuốc nước, đằng này bà ấy lại bị cảm! Trong trường hợp bị
cảm thì việc đầu tiên là phải rút bớt máu, Maksim Nikolaich.
Viên y tá đã gọi bệnh nhân tiếp theo. Một mụ đàn bà dẫn một
đứa trẻ bước vào phòng.
- Ra ngoài đi, đi đi... - Lão cau có nói với Iakov. - Đừng
làm vướng tôi.
- Thôi thì ít nhất ông cũng đặt cho bà ấy một con đỉa vậy!
Được thế chúng tôi sẽ suốt đời cầu nguyện cho ông!
Viên y tá nổi đóa, gắt lên:
- Cứ lải nhải mãi! Đồ ngu...
Iakov cũng tức điên, mặt đỏ tía, nhưng lão không nói một lời,
chỉ đỡ Marpha dậy và dìu bà ra khỏi phòng khám. Mãi tới lúc ngồi vào trong xe
ngựa lão mới nhìn cái bệnh viện một cách nghiệt ngã và nhạo báng, nói:
- Người ta tống bọn bay vào cả đây, lũ nghệ sĩ! Đám nhà giàu
chúng bay đặt giác hút, còn người nghèo thì tới một con đỉa cũng không cho.
Quân bạo chúa!
Khi về tới nhà, Marpha đứng một lúc, tay vịn vào bếp lò. Bà
sợ rằng nếu như đi nằm thì thể nào Iakov cũng sẽ lại than vãn về tiền nong,
thua lỗ và chửi mắng bà cứ nằm đấy, chả chịu làm việc. Còn Iakov nhìn bà ngán
ngẩm và nhớ ra rằng ngày mai là ngày lễ Thánh Ioan, ngày kia là ngày lễ Thánh
Nikolai Ban Phép Lạ, sau đó là chủ nhật, còn sau nữa, thứ hai - húy nhật. Cả bốn
ngày không được làm việc, mà Marpha có thể sẽ chết vào một trong những ngày
này; nghĩa là quan tài phải đóng ngay ngày hôm nay. Lão cầm lấy cái thước sắt,
tiến tới bên vợ để lấy số đo của bà. Sau đó bà đi nằm, còn lão làm dấu thánh rồi
bắt tay vào việc.
Khi đóng xong cỗ quan, lão Đồng đeo kính và ghi vào quyển sổ
của mình: “Quan tài cho Marpha Ivanovna - giá 2 rúp 40 copek”.
Và lão thở hắt ra. Trong thời gian đó bà già vẫn nằm, mắt nhắm
nghiền. Nhưng tới chiều, lúc chạng vạng, bỗng nhiên bà gọi chồng.
- Mình còn nhớ chứ, Iakov? - Bà vừa hỏi, vừa nhìn lão vui vẻ.
- Mình còn nhớ cách đây năm mươi năm Chúa đã cho chúng ta một đứa trẻ tóc vàng?
Mình với tôi khi đó thường hay ra ngồi ở bờ sông, cùng hát... dưới một cây liễu,
- và bà cười cay đắng, nói thêm: - Con gái bé bỏng chết mất rồi.
Iakov căng óc, nhưng không thể nào nhớ nổi, cả đứa bé, lẫn
cây liễu.
- Bà nằm mơ đấy thôi, - lão nói.
Ông mục sư tới ban phép Mình Thánh và xức dầu cho bà. Sau đấy
Marpha bắt đầu lảm nhảm những câu khó hiểu và tới gần sáng thì chết.
Các bà già hàng xóm tới tắm rửa, khâm liệm và đặt bà vào áo
quan. Để khỏi phải chi phí cho người trợ tế, Iakov tự đọc lấy thánh thi, còn về
phần mộ thì lão không phải trả một đồng nào, vì người gác nghĩa địa là cha đỡ đầu
của lão. Bốn mugíc khiêng quan tài tới nghĩa địa cũng không lấy tiền, vì quý trọng
Marpha. Đi sau quan tài là những bà già, những người hành khất, hai người tàn tật.
Những người gặp trên đường đều làm dấu thánh một cách sùng kính. Iakov lấy làm
hài lòng vì đã thu xếp công việc ổn thỏa, hết lòng, lại không tốn kém, không
làm mất lòng ai. Khi từ biệt Marpha lần cuối, lão sờ chiếc quan tài, bụng nghĩ:
“Cỗ quan tốt thật!”.
Nhưng trên đường từ nghĩa địa về nhà bỗng nhiên một nỗi buồn
ghê gớm choán lấy lão. Iakov thấy mình không được khoẻ: hơi thở nóng và nặng,
hai chân bủn rủn, khát nước. Đã thế đủ mọi ý nghĩ cứ len vào đầu. Lại nghĩ tới
việc cả đời chưa một lần thương xót Marpha, chưa một lần âu yếm bà. Năm mươi
hai năm sống chung dưới một mái nhà, vậy mà chưa một lần lão nghĩ tới vợ, không
để ý, như thể bà là con mèo hay con chó. Thế mà chính bà hàng ngày nhóm lò, nấu
nướng, kín nước, bổ củi, nằm cùng một giường với lão, khi lão từ những đám cưới
trở về say khướt, bao giờ bà cũng sùng kính đỡ lấy cây vĩ cầm, treo lên tường,
giúp lão đi ngủ. Bà làm tất cả những việc đó một cách thầm lặng, dáng vẻ rụt
rè, lo lắng. Trên đường lão gặp Rothschild đang đi tới. Thằng Do Thái vừa cười,
vừa cúi chào.
- Thế mà cháu cứ đi tìm bác mãi! - gã nói. - Ông Moisei
Ilich gửi lời chào bác và mời bác tới ngay chỗ ông ấy.
Iakov chẳng còn bụng dạ nghĩ tới việc đó. Lão chỉ muốn khóc.
- Để tao yên! - Lão nói và đi tiếp.
- Thế là thế nào? - Rothschild lo lắng, chạy lên phía trước.
- Ông Moissei Ilich giận chết! Ông ấy bảo phải đến ngay!
Iakov khó chịu bởi thằng Do Thái thở hổn hển, mắt hấp háy,
mà sao mặt nó lại nhiều tàn nhang màu hung đỏ thế. Nhìn chiếc áo khoác màu xanh
lá cây với những mụn vá sẫm màu và cả cái thân hình mảnh khảnh, yếu ớt của nó
mà phát tởm.
- Sao mày cứ thọc vào chuyện của tao thế hả, đồ tỏi lép? -
Iakov hét lên. - Đừng có bám lấy tao!
Thằng Do Thái cũng nổi xung, quát lại:
- Xin ông bé cái miệng đi cho, kẻo tôi cho ông bay qua bờ giậu
bây giờ!
- Xéo ngay cho khuất mắt tao! - Iakov gào lên và nắm tay xấn
tới. - Không sao sống nổi với loài sâu bọ này!
Rotsild chết lặng vì sợ hãi, ngồi thụp xuống, hai tay quơ
quơ trên đầu như thể đỡ đòn, sau đó nó bật dậy, ba chân bốn cẳng chạy mất hút.
Trên bờ sông nó nhảy tưng tưng, hai tay vung vẩy, và thấy rõ cái lưng dài, còm
nhom của nó cứ giật lên. Đám trẻ con mừng rỡ gặp dịp, chạy theo nó, la hét: “Thằng
Do Thái! Thằng Do Thái!”. Đàn chó cũng đuổi theo nó, sủa váng lên. Có ai đó cười
hô hố, sau đó huýt sáo, đàn chó nhâu nhâu sủa dữ hơn... Sau đó chắc có một con
cắn Rothschild, bởi vọng lại tiếng thét đau đớn, tuyệt vọng của nó
Iakov dạo trên bãi chăn gia súc, sau đấy, không mục đích,
lão đi ra phía ngoài thị trấn. Đám trẻ con la lên “Lão Đồng kìa! Lão Đồng
kìa!”. A mà con sông đây rồi. Ở đó những con giẽ giun và những con vịt trời kêu
chí chóe. Trời nắng gắt, mặt nước phản chiếu ánh sáng làm chói cả mắt. Iakov
men theo con đường hẹp dọc bờ sông và nhìn thấy từ bến tắm một bà béo tốt, má đỏ
hây, đi lên, lão thoáng nghĩ: “Rõ thật, một con rái cá!” . Cách bến tắm không
xa bọn trẻ con đang câu tôm bằng mồi thịt. Nhìn thấy lão chúng gào lên một cách
độc địa: “ Lão Đồng! Lão Đồng!”. A mà cây liễu to lớn, già nua với cái hốc tướng
đây rồi, và trên cây sao mà lắm tổ quạ... Bỗng nhiên trong trí nhớ của lão hiện
lên hình ảnh một đứa trẻ tóc vàng, như sống thật, và cả cây liễu mà Marpha đã
nói tới. Đúng rồi, nó đây rồi, chính là cây liễu đó - nó vẫn còn xanh, nhưng im
lặng và buồn bã... Nó đã già quá rồi, cây liễu khốn khổ!
Lão ngồi dưới gốc cây và bắt đầu nhớ lại. Ở bờ bên kia, nơi
hiện đang là cánh đồng cỏ ngập nước, trước đây là một cánh rừng bạch dương bạt
ngàn, còn trên quả đồi trọc nổi rõ phía chân trời, ngày xưa là một rừng thông
già xanh ngăn ngắt. Trên sông xà lan xuôi ngược. Còn bây giờ tất cả bình địa, bằng
phẳng, và bên bờ bên kia còn mỗi cây bạch dương non trẻ, cân đối, giống như một
cô nương, đứng trơ trọi một mình. Trên sông chỉ thấy ngỗng và vịt, không giống
với cảnh xà lan đi lại. Có cảm tưởng khác với ngày xưa, đến ngỗng cũng trở nên
ít hơn. Iakov nhắm mắt và trong óc tưởng tượng của lão từng đàn ngỗng lớn nối
tiếp nhau bơi qua bơi lại.
Lão không sao hiểu nổi, tại sao lại như thế, tại sao có đến
bốn, năm mươi năm lão không ra sông lấy một lần, mà giá có ra tới đây thì chắc
gì lão đã để ý tới nó? Vậy mà đây là một con sông thật lớn, hoàn toàn không phải
loại vớ vẩn; trên sông có thể lập những khu đánh bắt cá để bán cho đám thương
gia, cho những công chức và các hàng ăn ở trên bến và sau đó tiền thu được đem
gửi vào nhà băng; có thể dong duổi trên thuyền từ trang ấp này tới trang ấp
khác và chơi đàn, mọi người đua nhau mời lão đi biểu diễn và sẽ trả tiền; cũng
có thể thử vài chuyến xà lan - làm việc này còn tốt hơn chán vạn nghề đóng quan
tài; và cuối cùng, có thể nuôi ngỗng, mổ thịt, tới mùa đông chuyển lên Moskva.
Trời đất, mỗi con ngỗng quèn một năm cũng cho tới cả chục rúp. Thế mà lão đã bỏ
qua, chẳng làm một việc gì như thế cả. Những tổn thất mới lớn làm sao! Ôi chao
là thiệt hại! Mà nếu như làm tất cả cùng một lúc, cả đánh cá, kéo vĩ cầm, chở
xà lan và giết ngỗng, thì sẽ kiếm được bội tiền! Nhưng tất cả những việc đó
ngay cả trong mơ lão cũng không nghĩ ra, cuộc đời trôi qua chẳng ích lợi, chẳng
vui thú gì, trôi qua vô tích sự, chẳng ra đâu vào đâu; phía trước không còn
tương lai, mà ngoái lại đằng sau thì chẳng có gì hết, ngoài những mất mát, những
mất mát lớn đến nỗi chỉ nghĩ tới thôi đã thấy ớn lạnh cả người. Mà tại sao con
người ta lại không có thể sống như thế nào đó, để khỏi phải chịu những thiệt hại,
mất mát nhỉ? Thử hỏi, vì sao người ta lại chặt cả cánh rừng bạch dương và đồi
thông đi như thế? Vì sao những bãi thả gia súc quý như vậy lại bị bỏ hoang? Tại
sao người ta luôn làm những việc chẳng cần thiết? Vì sao Iakov cả đời lúc nào
cũng luôn miệng chửi bới, gầm gừ, xấn xổ đấm đá, bắt nạt vợ mình? Thử hỏi, cần
gì phải doạ nạt, lăng mạ một thằng Do Thái? Vì sao mọi người lại cứ cản trở
nhau, không cho nhau sống? Chính điều này gây biết bao tổn thất! Những tổn thất
khủng khiếp! Nếu không có sự ganh ghét, đố kỵ và độc ác, mọi người có thể mang
lại cho nhau những lợi ích lớn đến nhường nào.
Cả buổi tối và suốt đêm lão toàn mơ thấy đứa trẻ sơ sinh,
cây liễu, cá, những con ngỗng bị đập chết, Marpha nhìn nghiêng giống như con
chim khát nước, khuôn mặt nhợt nhạt, thảm hại của Rothschild, và những bộ mặt
các kiểu từ mọi phía kéo đến nói về sự thiệt hại. Lão trở mình hết bên nọ sang
bên kia và năm lần tỉnh dậy để kéo đàn.
Đến sáng lão gắng hết sức đứng dậy để tới bệnh viện. Cũng vẫn
Masim Nikoliaich yêu cầu đắp khăn lạnh lên đầu, uống thuốc bột, và qua nét mặt
cùng giọng nói của viên y tá, Iakov hiểu rằng việc của lão đã hỏng và không một
thứ thuốc bột nào có thể cứu giúp được. Trên đường về nhà lão nghĩ cái chết chỉ
mang lại ích lợi mà thôi: khỏi phải ăn, chẳng cần uống, lại không phải đóng thuế,
không làm mếch lòng ai, và bởi vì con người nằm dưới đất không phải một, hai
năm, mà hàng trăm, hàng nghìn năm, do đó, nếu tính hết, thì cả một nguồn lợi lớn.
Cuộc sống đem lại cho con người sự thiệt thòi, còn cái chết lại cho nó những lợi
lộc. Ý nghĩ này, tất nhiên, có lý, song dù sao nó cũng xúc phạm và thật cay đắng:
vì sao lại tồn tại trên đời một trật tự lạ lùng vậy, cuộc sống mà con người chỉ
được hưởng một lần duy nhất, lại trôi qua chẳng chút ích lợi gì?
Chết lão không tiếc, nhưng khi về tới nhà, nhìn thấy cây vĩ
cầm, tim lão thắt lại và lão bắt đầu thấy tiếc. Cây đàn này không mang xuống mồ
được, giờ đây nó sẽ đơn côi và sẽ không tránh khỏi số phận của những cây bạch
dương, của rừng thông già. Mọi thứ trên thế giới này đã mất đi và sẽ còn mất nữa!
Iakov bước ra, ngồi trên bậc cửa nhà, ôm riết cây đàn vào ngực. Trong khi vẫn
nghĩ tới cuộc sống mất mát, chẳng chút lợi lộc, lão bắt đầu kéo đàn, bản thân
cũng không hiểu tại sao, nhưng tiếng đàn của lão vang lên rầu rĩ và cảm động.
Những giọt nước mắt lăn trên má lão. Và lão càng nghĩ thì tiếng hát của cây đàn
càng buồn thảm.
Thanh chốt cửa kẹt lên vài tiếng và Rothschild xuất hiện
trong cổng. Nó mạnh bạo đi được nửa sân, nhưng khi nhìn thấy Iakov, đột nhiên
nó khựng lại, cả người co quắp, và chắc vì sợ hãi, nó không nói, mà chỉ làm những
động tác như thể muốn ra hiệu bằng mấy ngón tay báo giờ cho lão.
- Lại đây, đừng sợ, - Iakov dịu dàng nói và dỗ nó lại gần. -
Lại đây nào.
Rothschild nhìn lão ngờ vực, tiến thêm mấy bước và dừng lại
cách lão một sazen[1].
- Xin bác đừng đánh cháu! - Nó nói, hơi chùng người xuống. -
Ông Moisêi Ilich lại phái cháu tới mời bác. Ông bảo đừng có sợ, cứ đến nhà ông
Iakov và bảo không có bác là không xong. Thứ năm này có một đám cưới... Vâng,
phải! Ngài Sapovalov gả con gái cho một người tử tế. Mà đám cưới to lắm nhé,
u-u![2] - Gã Do Thái nói thêm, hấp háy một bên mắt.
- Bác không thể... - Iakov phều phào, thở nặng nhọc - Bác
không được khỏe, anh bạn ạ.
Rồi lão tiếp tục kéo đàn, những giọt nước mắt rỏ xuống cây
vĩ cầm. Rothschild nghe chăm chú, đứng nghiêng người về phía lão, hai tay
khoanh trước ngực. Nỗi sợ hãi, nghi ngại trên nét mặt nó dần dần biến thành nỗi
sầu muộn, đau khổ. Nó trợn ngược mắt, dường như đang chịu đựng một khoái cảm đớn
đau, thì thào: “Vakhkhkh!..”. Và những giọt nước mắt từ từ chảy dài trên má nó,
nhỏ xuống chiếc áo khoác màu lá cây.
Sau đó Iakov nằm cả ngày, buồn bã. Đến tối, lúc ông mục sư tới
làm lễ rửa tội, hỏi lão có nhớ một tội lỗi nào nào thật đặc biệt mà lão đã mắc
phải lúc sinh thời. Iakov cố căng cái trí não đã trở nên yếu ớt, chợt nhớ lại
khuôn mặt bất hạnh của Marpha, tiếng thét tuyệt vọng của thằng Do Thái bị chó cắn,
lão thều thào:
- Cây vĩ cầm cho thằng Rothschild.
- Được rồi, - Ông mục sư đáp.
Hiện cả thành phố đều thắc mắc không biết thằng Rothschild
kiếm đâu ra cây vĩ cầm tốt thế? Nó mua hay đánh cắp được, cũng có thể nó kiếm
được từ hiệu cầm đồ? Nó đã bỏ ống sáo từ lâu, và hiện giờ chỉ kéo vĩ cầm. Dưới
cần đàn tuôn chảy những âm thanh não nùng giống như những âm thanh của cây sáo
trước đây, nhưng khi nó thử chơi lại những gì mà Iakov đã chơi lúc ngồi ở bậc cửa,
thì tiếng đàn của nó u sầu, thê lương tới mức khiến tất cả những người nghe đều
phải khóc. Cả bản thân nó, cuối cùng thể nào nó cũng trợn ngược mắt và thều
thào: “Vakhkhkh!”. Bài hát mới đó được người ta ưa thích đến nỗi những thương
gia và các viên chức giành giật nhau mời Rothschild về nhà và bắt nó chơi đi
chơi lại cả chục lần liền.
Đào Tuấn Ảnh dịch từ nguyên bản tiếng Nga
_____________________
Chú thích của người dịch:
[1] Sazen bằng 2,134m
[2] Trong nguyên bản, Rothschild nói năng không rõ ràng, mạch
lạc, tiếng Nga ngọng. Miêu tả sự khiếm khuyết của Rothschild, tác giả muốn nhấn
mạnh tới sự thay đổi trong tâm lý của Iakov. Khi Iakov còn sống, những khuyết tật
của Rothschild làm ông khó chịu, nhưng trước lúc ông chết, những khuyết tật đó
làm cho ông thương xót, ân hận vì đã xử tệ với nó, song cái chính là ông đã
nhìn thấy tài năng và sự nhạy cảm âm nhạc của nó, tâm hồn nó...