Phần I - Hồi 1: Hắc Ốc
Đúng như Tư Mã Khôi vẫn thường nói: “Vận xui là một loại vận vĩnh viễn không bao giờ tránh được”.
Năm mười lăm tuổi, cha mẹ của Tư Mã Khôi đều bị buộc tội hữu khuynh, rồi kẻ trước người sau lần lượt nhắm mắt xuôi tay vì bạo bệnh ngay trong lớp cải tạo. Song thân ra đi vội vã đến nỗi chẳng kịp trăng trối lại cho cậu con trai câu gì. Khi đó không có ai nói cho Tư Mã Khôi biết cậu nên đi đâu học, đến đâu ăn, và cũng chẳng người nào thèm để mắt xem cậu sống hay chết. Đợi khi tất cả của cải trong nhà đều bị đem bán sạch trơn, đến mức từ trong ra ngoài chẳng có thứ gì đáng giá, thì lúc ấy cậu mới tỉnh ngộ là từ nay về sau chỉ còn biết dựa vào chính mình mà thôi. Để tìm một con đường sống, cậu đành phải chạy đến Hắc Ốc, nơi mà trước đây ngay cả nằm mơ cậu cũng không dám mơ đến, để mưu sinh qua ngày.
Hắc Ốc không phải là một tòa nhà màu đen, mà đó là biệt danh của một xóm nhỏ ở vùng ngoại ô heo hút, nằm kẹp ngay giữa hai dải núi trọc, quanh năm mưa không thuận, gió không hòa, đất xấu dân nghèo, vô cùng xa xôi hẻo lánh. Thời chiến tranh, nơi đây từng bị máy bay oanh tạc dữ dội, sau đó xảy ra một trận hỏa hoạn rất lớn, nhà cửa bị thiêu rụi, khắp nơi hoang tàn, khói lửa dày đặc hun tất cả những bức tường vỡ nát còn sót lại thành một màu đen kịt, vì thế người dân ở đây gọi nơi này là Hắc Ốc.
Suốt mười năm loạn lạc, khu vực Hắc Ốc vẫn chưa từng được chính phủ trùng tu; rồi bao nhiêu năm nay không hề có người dân gốc gác nào của xóm này quay lại cố hương sinh sống. Nhưng ngay trong lòng thôn xóm hoang tàn đó lại có một đường sắt xuyên qua, và hàng ngày rất nhiều chuyến tàu chuyên chở hàng hóa chạy đi chạy lại, đã thu hút một số lượng lớn những người ăn theo đường sắt đến đây trú ngụ. Ngày qua tháng lại, nơi đây dần dần trở thành cứ địa tụ tập của những dân nghèo thuộc tầng đáy xã hội.
Đương nhiên ở đây không tránh khỏi việc vàng thau lẫn lộn, cát bùn trộn cả vào nhau. Trong xóm có rất nhiều thành phần, từ trẻ mồ côi không nhà không cửa đến những kẻ nhặt rác lưu lạc tứ xứ, những nông dân từ quê chạy lên thành phố kiếm sống, những người nhặt than vụn rơi trên đường sắt, phu khuân vác ở bến thuyền, kẻ bán khoai lang dạo, thậm chí có cả những thanh niên trí thức không chịu được công việc lao động chân tay gian khổ ở nơi hoang vu hẻo lánh nên một mình chạy trốn về đây ẩn náu.
Bọn họ chia bè kết phái sống ở Hắc Ốc, đa số đều mưu sinh nhờ vào việc buôn bán lặt vặt trái phép hoặc đào hầm lấp hố, bởi chẳng có người nào có công việc tử tế để làm. Đương nhiên trong số đó không thiếu những kẻ phá khóa trộm đồ, bò vào xe lửa ăn cắp, còn có cả bọn lưu manh vô lại chuyên đâm thuê chém mướn, bọn chao chác ăn tiền.
Những kẻ rập rình ẩn hiện ở khu vực Hắc Ốc hầu như đều là thành phần đã bị bài trừ khỏi hệ thống xã hội, bởi những việc chính phủ nghiêm cấm thì chúng đều nhúng tay làm cả. Nhưng trong khi thế giới bên ngoài đang hừng hực đấu tranh chính trị một mất một còn giữa các đảng phái, thì ở đây dường như lại đoạn tuyệt hoàn toàn với thị phi tranh chấp, ngay cả những tờ báo chữ to dán khắp nơi cũng không lọt được đến nơi này. Mỗi lần có “cớm” vào xóm truy quét lùng sục, bang Hắc Ốc chỉ cần đánh động vài tiếng là cả hội đã rút gọn không còn vết tích, đợi khi sóng yên bể lặng lại kéo nhau trở về tụ tập. Tất cả các thế lực trong chính phủ dường như đều bất lực, chẳng làm gì được chúng, nên đành mắt nhắm mắt mở lờ đi. Hơn nữa, chỉ cần bọn họ đừng gây ra trọng án kinh thiên động địa thì ai thèm để ý đến lũ “cặn bã của xã hội” sống ở khu ven thành phố bị bỏ hoang phế đó nữa.
Băng đảng của Tư Mã Khôi là một nhóm gồm toàn những đứa trẻ chừng mười bốn mười lăm tuổi, trong đó có cả nam và nữ, đa số bọn chúng đều là con cái trong những gia đình có bố mẹ bị quy chụp thành phần cánh hữu. Chúng lại chưa đến tuổi nhập ngũ để tham gia quân đội nên đành phải phiêu dạt nay đây mai đó, trôi nổi giữa xã hội, chúng không có việc làm cũng không được đi học, càng chẳng có bà con thân thích nào để nương tựa. Tóm lại, bọn chúng đúng là những kẻ “bà không yêu, cậu không chiều, thím nhìn thây muốn đá cho ba cái, ngay đến chó cũng nguýt dài quay mặt”.
Trong đám choai choai này, tuy có một vài đứa cũng được nhận mấy đồng trợ cấp sinh hoạt, nhưng số tiền ít ỏi đó chẳng thấm vào đâu, nên bản năng sinh tồn buộc chúng phải tập hợp lại thành băng nhóm tranh giành cơm áo với xã hội. Khi đó thường thịnh hành khẩu hiệu “Tư tưởng Mao Trạch Đông như luồng gió xuân thổi đến muôn nơi” nên hội Tư Mã Khôi quyết định đặt tên cho nhóm là “Nhóm chiến đấu Xuân Phong” và còn nghiêm trang tuyên thệ trước tượng đài Mao chủ tịch: “Từ nay cả nhóm phải đoàn kết, đồng cam cộng khổ làm cách mạng”. Trên thực tế, khẩu hiệu này chỉ là cái cớ để chúng làm loạn, gây họa khắp nơi, quấy nhiễu an ninh khiến chó cắn gà kêu không ngày nào yên ổn. Dân chúng cách mạng trong thành không người nào nhìn thấy chúng mà không muốn chửi mắng cho thỏa giận.
Tính chất của “Nhóm chiến đấu Xuân Phong” có vài phần tương tự với nhóm “Đồng Đảng” trong lịch sử từng nhiễu nhương thành phố sương mù Luân Đôn ở Anh. Tuổi đời các thành viên trong nhóm còn rất trẻ, hoạt động của nhóm có tính chất nguy hại nhất định đối với xã hội.. Chẳng bao lâu sau, nhóm chiến đấu Xuân Phong tự thấy rằng thành phố không phải là nơi dễ kiếm cơm nên đành rút lui về khu vực gần Hắc Ốc. Hội Tư Mã Khôi đánh mấy trận sống mái với bọn lưu manh bản địa, tuy chịu không ít thiệt thòi nhưng “không đánh nhau không nhận anh em”, cuối cùng hai bên đã hóa giải được hận thù và đạt được nhân thức chung một cách không ngờ. Qua nhiều cuộc thương thuyết kéo dài, hai bên đã phân định ranh giới địa bàn của mỗi bên rất rạch ròi, cục diện hỗn loạn từ đó mới tạm thời ổn định.
Trong “Nhóm chiến đấu Xuân Phong”, Tư Mã Khôi có một người bạn thân tên là La Đại Hải. La Đại Hải khí chất hào hiệp lại rất dũng cảm, cha cậu ta là La Vạn Sơn, từng là bộ đội chuyển ngành làm cán bộ trong tòa án địa phương, sau này do bị điều động công tác nên cả gia đình từ Đông Bắc phải chuyển xuống Hồ Nam. Trong chiến dịch bài trừ hàng ngũ cán bộ suy đồi, ông La Vạn Sơn bị áp giải vào trại cải tạo lao động, còn lại một mình La Đại Hải tứ cố vô thân đành phải phiêu dạt đầu đường xó chợ. Câu trai này trông khá khôi ngô tuấn tú, tướng mạo đường hoàng, chiều cao và thể lực đều hơn hẳn các bạn cùng trang lứa. Cậu ta lại rất thích ngồi rỗi lo chuyện thiên hạ, hay ra tay dẹp chuyện bất bình, vì thế rất có uy với bọn trẻ khác trong nhóm. Chỉ có điều, khi còn nhỏ ở Đông Bắc, La Đại Hải bị rét đến nỗi đóng băng hỏng cả lưỡi nên từ đó lưỡi cậu ta bị tật, phát âm không rõ ràng, lại thêm cái tật nói nhiều, vì vậy bị mọi người ở đây đặt cho biệt danh “Hải ngọng”.
Vì từ nhỏ Tư Mã Khôi đã bái “Văn võ tiên sinh” làm thầy nên cũng thủ thân được chút ít bản lĩnh lục lâm, cậu ta không chỉ thân thủ nhanh nhẹn, ra tay gọn gàng, gan to hơn người, mà còn rất giỏi ăn nói, lại hiểu được các quy tắc của giới giang hồ trước giải phóng, biết rõ: “Hành bang các phái, coi nghĩa khí làm trọng”. Trong những kẻ chiếm cứ khu Hắc Ốc có không ít tên xuất thân từ xã hội cũ, mà chỉ có Tư Mã Khôi mới giao lưu được với chúng. Bởi vậy, Tư Mã Khôi và La Đại Hải tự dưng trở thành thủ lĩnh của nhóm “Xuân Phong”, cầm đầu cả hơn trăm thiếu niên nam nữ, suốt ngày náo loạn con đường săt hoang phế, thoắt ẩn thoắt hiện, di chuyển nhanh như lốc cuốn.
“Xuân Phong đoàn” tuy đã giao kèo được lãnh thổ với “Hắc Ốc bang”, rằng lấy đường sắt làm ranh giới phân định, nhưng vấn đề sinh tồn của hội Tư Mã Khôi vẫn chưa được giải quyết. Cứ theo thành phần xuất thân mà xét, bọn họ tuyệt đối không cam tâm đi nhặt than rơi trên đường sắt hoặc làm các công việc lao động chân tay thấp hèn. May mà Tư Mã Khôi có nhiều tai mắt, lại nhanh trí, nên cuối cùng cũng nghĩ ra một kế mưu sinh thượng sách. Cậu bảo các thành viên trong nhóm khuân tất cả các đồ đạc còn sót lại trong nhà, chuyển đến lều trại dựng tạm ở đây để xây dựng cứ điểm hoạt động, đồng thời sai đám con nít nhỏ tuổi, lợi dụng hoàn cảnh gia đình bi thảm, tìm đến nhà bếp cơ quan nơi cha mẹ chúng đã làm trước đây để thó trộm thức ăn. Kế sách này được gọi là “khổ nhục kế”. Kế hay ở chỗ cho dù lỡ bị người ta phát hiện cũng không sao, bởi vì thành viên được phái đi thực hiện nhiệm vụ chỉ là bọn nhóc con trên dưới mười tuổi. Hơn nữa, các nhân viên làm trong nhà bếp đa phần lại là đồng nghiệp cũ, quen biết với cha mẹ chúng, chẳng ai nỡ lòng nào tóm cổ chúng giao nộp cho chính quyền, ngược lại, phần lớn họ đều lấy cơm thừa canh cặn trong nhà bếp mang ra chia cho chúng.
Thử nghiệm được vài ngày, quả nhiên các nhà bếp đều tình nguyện để lại cơm thừa cho bọn trẻ. Tư Mã Khôi thấy kế này khả thi liền cho bắc mấy cái bếp ở chân tường đổ nát, rồi đi trộm vài chiếc nồi to. Khi thức ăn kiếm về không đủ, liền thả thêm vào đó mấy cọng rau nát, đồ khô thì mang lên hấp, đồ có nước thì cho vào nồi nấu thành một thứ thức ăn hỗn hợp. Vì đây là những đồ ăn thừa ở các nhà bếp khác nhau, nên khẩu vị mỗi món một khác, sau khi đổ lẫn vào nhau nấu lên, mùi vị lại hấp dẫn khác thường, mùi thơm tỏa ra khắp nơi. Cả nhóm đắc chí đặt tên cho nó mỹ danh: “Quán cơm Lục Quốc”.
Có điều, hội Tư Mã Khôi không thèm ăn mấy đồ đó mà bán lại cho bọn “Hắc Ốc bang” ở bên kia đường sắt. Đám người đó đều là dân lao động chân tay, cả năm quần quật làm những công việc nặng, bụng lúc nào cũng rỗng tuếch, và hơn nữa, cả đời chưa bao giờ được thưởng thức các món ăn ở nhà bếp cơ quan, chính phủ. Bọn họ nhìn đồ ăn trong nồi của “Quán cơm Lục Quốc” vô cùng phong phú, lại láng một lớp mỡ bóng lộn ở bên trên, đã thấy ngon hơn hẳn đồ ăn thường ngày của mình, nên người nào người nấy lần lượt móc tiền trong hầu bao của mình ra mua từng bát lớn. Họ đút cả cháo lẫn cơm vào miệng nuốt ngon lành. Những kẻ không có tiền thì dùng vật để trao đổi. “Quán cơm Lục Quốc”, do Tư Mã Khôi phát minh ra, ngày nào cũng cháy hàng, nồi niêu sạch trơn, cung không đủ cầu.
Hành động lần này của hội Tư Mã Khôi đã nhiều lần hóa giải được ánh mắt thù địch lẫn nhau giữa hai bang phái bên đường sắt, hơn nữa, lại mang đến khoản lợi nhuận không nhỏ giúp cả hội duy trì những nhu cầu của cuộc sống.
Cứ như vậy qua hết mùa xuân, chớp mắt đã bước vào mùa hè oi bức, ban ngày càng lúc càng dài. Những ngày này chẳng thấy bóng dáng của một giọt mưa, trời hanh vật khô, nóng rang như trên chảo lửa. Lúc sắp trưa cũng là thời khắc khu Hắc Ốc yên tĩnh nhất trong ngày, mọi người đều tản ra các ngả lao động kiếm cơm, chỉ có mấy đứa con gái ở nhà lo chuyện bếp núc, chuấn bị nấu thức ăn thừa từ ngày hôm trước, để phần cho những người còn lại ăn.
Buổi sáng ngày hôm đó, La Đại Hải đặt bẫy ở khu đất hoang và tròng cổ được một con lợn rừng nhỡ, liền mang về Hắc Ốc giết thịt, mổ bụng lột da, xử lý hết nội tạng rồi ngoắc cả tảng thịt tiết rỏ ròng ròng lên móc câu, thuận tay vứt luôn cái đầu lợn vừa cắt ra khi nãy lên tấm gỗ để ngay bên cạnh, chuẩn bị nổi lửa nấu nồi thịt, cải thiện bữa tối cho cả nhóm. Đợi đến bữa trưa mới xong việc, cậu ta liền phệt mông xuống tấm đá xanh đặt trước cửa trại, nhàn nhã hóng mát.
Lúc này, Hải ngọng nóng bức đến nỗi mồ hôi ướt đầm lưng áo, nhưng trên đầu vẫn đội khư khư chiếc mũ quân nhân rách nát chôm được từ đời thuở nào, miệng phì phèo điếu thuốc, vừa hút vừa thao thao bất tuyệt nói chuyện với Tư Mã Khôi , chủ đề vẫn quanh quẩn mấy chuyện như đợi khi nào bố cậu ta phục chức trở lại làm việc như trước, cậu ta sẽ xử lý hết bọn rác rưởi dám đăng tin việc nhà cậu lên báo, lúc đó cứ chống mắt lên mà xem cậu ta trả thù như thế nào.
Tư Mã Khôi tuy ít tuổi, nhưng lại trải nghiệm không ít những gập ghềnh trên đường đời, điều đó đã khiến tâm lý phản nghịch xã hội của cậu trở nên vô cùng nghiêm trọng. Dường như cậu đã sớm dập tắt hết mọi hy vọng trong lòng, nên nghe Hải ngọng nói vậy, cậu chỉ ậm ừ đáp bừa vài câu lấy lệ.
Đúng lúc này, cậu chợt nhìn thấy một lão già đi vào trong ngõ. Tư Mã Khôi vô cùng thính tai tinh mắt, nên bất kể gió lay cỏ động khẽ khàng thế nào cũng không lọt khỏi tầm mắt cậu. Chững lại ngẫm nghĩ giây lát, cậu cảm thấy kẻ mới đến có chút gì đó kỳ quặc.
Quay đầu nhìn kỹ, chỉ thấy lão già đó ăn mặc rách rưới, quê một cục, hơn nữa trông mặt rất lạ, chắc chắn không phải là người sống ở khu Hắc Ốc hoang phế này. Lão già tầm ngoài năm mươi tuổi, dáng người nhỏ thó, mắt la mày lém, hai bên mép còn để hai chòm râu chó, cổ đeo chuỗi “bánh đả cẩu”, đầu đội chiếc mũ chóp cao rách nát, tay cầm cái bồ cào loại chuyên cào phân, vai cõng một túi vải đay phồng to cồm cộm, trên người mặc một chiếc áo khoác bằng da cũ kĩ, trước ngực áo còn có một hàng khóa, quần trùng áo dài, chân đi đôi giày đen đế dày cộp tới nỗi đá bò bò chết, mũi giày há toác miệng lòi ra góc tất trắng bên trong. Hôm ấy đúng ngày hạ chí, trời nóng như đổ lửa, nhưng nhìn cách ăn mặc đông không ra đông, hè không ra hè của lão già, khiến ai nhìn vào cũng không khỏi cảm thấy quái gở.
Lão già lạ mặt đó dùng cặp mắt cú vọ ngó đông nhìn tây một hồi, một lúc sau mới đi đến trước cửa cái lán gỗ của Tư Mã Khôi, rồi đột nhiên lão ta dừng lại, giả bộ quỳ xuống xách giày, đồng thời thò đầu vào trong lán ngó nghiêng dò xét.
Cử chỉ này của lão có thể che mắt mọi người, nhưng không thể che mắt Tư Mã Khôi. Tư Mã Khôi quan sát hành động và cách ăn vận của người này, mà trong lòng cảm thấy vô vô cùng khó hiểu nên lập tức đề cao tinh thần cảnh giác, đồng thời mở miệng dò hỏi một câu: “Xem ra lão gia không quen mặt, chẳng biết từ đâu đến thế?”
Lão già nghe hỏi lập tức đứng thẳng người dậy, đưa mắt quét quanh một lượt, liền nhận ra Tư Mã Khôi và La Đại Hải chính là chủ nhân của chiếc lán hoang phế này, nên lập tức ngoác miệng cố nặn ra một nụ cười trên khuôn mặt già nua. Lão ta nói với hai người: “Đâu dám nhận là lão gia, mỗ đây họ Triệu, quê ở Quan Đông, từ trước đến nay không có biệt hiệu gì, những người quen biết đều gọi mỗ là Triệu Lão Biệt. Trước giải phóng mỗ đã lưu lạc đến đây, mấy năm nay phiêu dạt khắp trong thành ngoài thành, dựa vào công việc đan làn cỏ, nhặt phế liệu sống qua ngày. Hôm nay đến vùng đất quý này là muốn đổi một số vật phẩm thiết yếu trong cuộc sống”.
Tư Mã Khôi nghe lão trình bày khá rõ ràng, trong lòng đã bớt đôi chút cảm giác đề phòng, tiếp tục hỏi Triệu Lão Biệt: “Sao Triệu sư phụ lại ăn mặc như vậy? Trời hè oi bức, lão không sợ ủ thối người ra à?”
Triệu Lão Biệt nhoẻn miệng cười, trả lời ngay: “Bậc hậu sinh các cậu không hiểu đấy thôi, chiếc áo mỗ đây mặc được gọi là áo khác anh hùng như ý, tứ bề thông thoáng, rất thoáng gió đấy!”
Tư Mã Khôi nghe mấy lời lão già nói, cũng có vài phần giống tiếng lóng trong giới giang hồ, mà người thời nay làm gì còn ai nói năng như vậy nữa, nên càng cảm thấy kỳ quái hơn. Cậu bèn gặng hỏi: “Xem lão nói năng không phải hạng phàm tục, chân tay lại khá nhanh nhẹn, nhưng sao đi vào nơi ngói vỡ gạch nát hoang tàn này, không sợ què chân, lạc đường ư?”
Triệu Lão Biệt hiểu ngay ẩn ý trong lời lẽ của Tư Mã Khôi , nhưng dường như không thể tin những lời ấy lại phát ra từ miệng một tên nhãi ranh như cậu, nên liền nảy ý thăm dò lại. Lão ta bước lên một bước, chân trước chân sau bước chéo nhau, không ra hình chữ đinh, cũng không ra hình chữ bát, rồi nói: “Mỗ đây chân cứng, đế dày, đi chắc, đứng vững, cất bước khoan thai đĩnh đạc”.
Đoạn đối đáp của hai người toàn bộ là ám ngữ của thế giới ngầm trong “Đáy biển giang hồ”, Hải ngọng đứng bên cạnh nghe chẳng hiểu gì, ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm, nhưng Triệu Lão Biệt và Tư Mã Khôi thì ngấm ngầm hiểu đối phương không phải hạng tầm thường, nên tuyệt đối không dám khinh suất.
Triệu Lão Biệt dường như không có ý định bỏ đi ngay, lão nói trời nắng chang chang, trên đường đi vừa mệt vừa khát, nên muốn xin hai vị “đầu lĩnh” cho trú chân nghỉ ngơi giây lát uống ngụm nước chè. Miệng chưa nói xong, không đợi chủ nhà đồng ý, lão đã tự ý ngồi sụp xuống ngay trước lán.
Tư Mã Khôi cũng muốn xem rốt cục người này muốn gì nên chẳng xua đuổi làm gì, mà ngược lại còn mang cho lão một chiếc bát, bên trong là nước trà “Lão Âm” vừa mới hãm ban sáng.
Triệu Lão Biệt chỉ cảm ơn hai tiếng rồi giơ tay lấy bát nước uống ực một hơi, cạn đến tận đáy, xong mới ngẩng mặt lên khen: “Loại trà Lão Âm có sâu trà quả đúng là thức uống giải khát bậc nhất”. Nói đoạn, lão liền móc ra một tẩu thuốc, dốc ngược đáy xuống gõ “cạch, cạch” mấy cái lên bàn, rồi nhét đầy sợi thuốc lá vào trong, châm lửa đầu tẩu thuốc, tí ta tí tách hút liền mấy hơi, vừa hút vừa trò chuyện mấy câu vô bổ cùng Tư Mã Khôi và La Đại Hải. Lòng vòng một hồi lâu, cuối cùng lão cũng chịu đi vào chuyện chính.
Lão già Triệu Lão Biệt này tự nhận mình bước chân vào giang hồ mưu sinh từ rất sớm, thông thạo nhân tình thế thái. Bây giờ lão đã có mối quan hệ rất tốt với một số đường dây đặc biệt trong thành, không những có thể hối lộ, mà còn có thê lấy được rất nhiều đồ tốt trong thế giới ngầm. Cuộc nói chuyện khi nãy với Tư Mã Khôi đã khiến lão nhận thấy tuy cậu trẻ tuổi, nhưng khá thông hiểu các quy tắc ngầm, chắc hẳn phải xuất thân từ một gia đình thế tộc, gốc gác không phải hạng vừa. Tục ngữ nói rất hay: “Trọc đầu thì vào chùa, đội mũ thì làm quan”, nay người cao tay lại gặp bậc kỳ tài, thật đúng là duyên trời sắp đặt, vì thế lão tình nguyện để Tư Mã Khôi và La Đại Hải đi theo mình cùng hưởng phúc.
Giống như biết phép thần thông biến hóa vậy, lời nói vừa dứt lão đã lôi ngay từ trong túi vải đay rách nát của mình ra ba tút thuốc lá thơm hảo hạng, cười tít mắt rồi bày cả lên mặt đất.
Gia thế nhà La Đại Hải cũng thuộc hạng có gốc gác, cậu ta lại là người khá trải đời, nên vừa nhìn thấy liền biết loại thuốc lá này chỉ cung cấp hạn chế cho các cán bộ cấp cao, chứ bách tính thường dân hầu như chẳng bao giờ được nhìn thấy, cho dù ở chợ đen cũng khó lòng tìm ra, có tiền cũng không mua được. Lão già này xuất chiêu độc thật, một phát rút liền ra ba tút, khiến Hải ngọng hai mắt vụt sáng, vội vã thò tay ra lấy, miệng còn nói: “Hôm nay, chúng ta coi như bèo nước tương phùng, lần đầu gặp mà lão đã rộng rãi như thế, khiến anh em bọn tôi cảm thấy xấu hổ vô cùng. Thế lão ở đơn vị nào? Lần sau anh em bọn tôi nhất định sẽ viết bức thư biểu dương, tỏ lòng cảm tạ sự giúp đỡ vô tư và khẳng khái này của lão”.
Triệu Lão Biệt cũng nhanh tay không kém, liền giơ tay ngăn không cho La Đại Hải rờ vào mấy tút thuốc: “Người anh em không cần vội, thứ này mỗ đâu dễ kiếm, nhưng bất kể nói thế nào thì chúng ta gặp được nhau đúng là có duyên, hôm nay kết giao thành bằng hữu, hai bên xem như không còn vấn đề gì khúc mắc nữa. Hai vị đầu lĩnh thử xem, mỗ có thể dùng ba tút thuốc lá hảo hạng này để đổi lấy một… một vật trong lán của hai cậu không?”
La Đại Hải cười to: “Lão Triệu ơi lão Triệu, chẳng giấu gì lão, anh em bọn tôi đúng là những kẻ “Sói vàng bị cắt mất đuôi, trên người chẳng còn nửa cọng lông đáng tiền”, chỉ cần lão không chê mấy đồ giẻ rách trong lán của chúng tôi, thì nhìn thấy vật gì thích hợp, lão cứ thỏa sức mà lấy”
Tư Mã Khôi nhìn thấy tình hình như vậy, trong lòng không khỏi cảm thấy kỳ lạ, tuy cậu cũng muốn giữ ba tút thuốc lá thơm nhưng đầu óc vẫn khá tỉnh táo, nên liền tiến đến cạnh ngăn Triệu Lão Biệt rồi nói: “Khoan đã! Cuộc trao đổi này e rằng chưa xong, trước hết lão phải nói rõ xem rốt cuộc muốn đổi lấy vật gì trong đây đã”
Triệu Lão Biệt dường như không thể nhẫn nại thêm nữa, đảo con ngươi một vòng rồi thò tay vào túi vải đay lấy ra một hộp tai lợn kho tàu, bốn ống thịt bò hộp, chất cả lên mặt đất, đoạn nói: “Muốn đổi lấy vật gì, thì phải vào lán chọn xem mới biết được. Nhưng Triệu Lão Biệt mỗ cũng nói trước, trong hai thứ đồ ăn và thuốc lá, các cậu chỉ đổi được lấy một món, tuyệt đối không được lấy hơn”
Tư Mã Khôi nhận thấy Triệu Lão Biệt dường như rất quyết tâm lấy bằng được vật đó nên dù chưa đâu vào đâu, lão đã chủ động nâng giá. Có câu: “Càng mời càng không mua, càng hối càng không bán, nếu hối thúc quá đáng, mua bán cũng bất thành”, nên khi lão đã không tiếc mang ra bao nhiêu đồ quý hiếm để đổi lấy thứ có trong lán thì thứ đó chắc hẳn cũng không phải loại tầm thường, vậy làm sao Tư Mã Khôi có thể chấp nhận trao đổi dễ dàng như vậy.
Hơn nữa, Tư Mã Khôi còn nhớ lại một việc, trước đây khi cậu còn ở miền Bắc, người ta từng nghe kể về truyền thuyết “Man tử biệt bảo”, trong đó nói những nơi phong thủy tốt đều chôn giấu báu vật; không những vậy báu vật ấy lại vô cùng quý giá bởi do trời đất tạo ra, được thần quỷ ngầm bảo vệ. Nếu ai tự tiện sờ vào thì khó tránh khỏi rước họa vào thân, nên muốn đoạt được tất phải dùng những bí thuật kỳ môn cổ xưa mới xong. Bởi vậy, họ không thể nói với người ngoài mình là kẻ quật táng, trộm ngọc mà nói lóng thành “biệt bảo”.
Nghe nói bí thuật “biệt bảo” khởi nguồn từ khu vực Giang Tây, muốn học món bản lĩnh này tất phải luyện tập từ nhỏ. Người ta mang đứa trẻ vừa mới sinh nhốt vào mật thất kín mít không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, đợi đến ngày thứ 100 mới ẵm nó ra ngoài, từ đó nhãn lực của đứa bé trở nên khác biệt với mọi người, có thể phân biệt được mọi báu vật trên đời, họ gọi khả năng này là “Khai địa nhãn”. Những loại truyền thuyết kiểu này là thật hay giả, người ngoài khó lòng biết được.
Tư Mã Khôi thấy cách ăn vận và cử chỉ của Triệu Lão Biệt vô cùng kỳ quái, rõ ràng là thần bí khó lường, không biết có trùng hợp với mấy truyền thuyết đó không? Nhưng xem ra lão ta chắc hẳn là bậc kỳ tài hiểu biết về dị thuật biệt bảo. Chỉ có điều, trong cái lán tạm mà mình đang ở chỉ rặt đũa gãy, bát sứt, bàn ghế chẳng cái nào còn nguyên lành, hoàn toàn không giống với dáng vẻ ngôi nhà để người ta sinh sống. Quả đúng như lời La Đại Hải vừa nói, trong lán ngay cả chiếc bát uống trà tử tế cũng chẳng tìm thấy, thì làm gì có bảo vật đáng giá? Không biết thứ mà Triệu Lão Biệt muốn lấy rốt cục là thứ gì? Hơn nữa, lão ta lại vừa chân ướt chân ráo đến đây, làm sao phát hiện ra nơi này có giấu bảo vật dị thường được?
Trong khi Tư Mã Khôi còn đang suy đoán mông lung thì Triệu Lão Biệt sớm đã thò đầu vào trong lán dò xét, ánh mắt nhìn chằm chằm vào một trụ gỗ lớn, đó chính là chiếc bàn dài cổ xưa, dùng để giết mổ gia súc. Nó đã bị mục nát nhiều phần, thường ngày vẫn dùng để thái thịt, băm rau, nên mặt bàn nhớt nhát bẩn thỉu, bốc mùi tanh hôi, không hề bắt mắt. Ai ngờ thứ mà Triệu Lão Biệt nhìn trúng ý lại là vật này, ánh mắt thèm thuồng của lão cứ dán chặt vào chiếc bàn, không chịu rời sang chỗ khác.