Nỗi buồn chiến tranh - Chương 07

 

Kiên đẩy chiếc xe lăn đưa Sinh ra vãn cảnh khu vườn hoa của bệnh
viện. Chiều hè yên ả, không khí thoáng đãng. Những tia xiên khoai màu
hồng chiếu dài lên thảm cỏ xanh um. Kiên dừng xe dưới một cây bồ đề.

- Nắng chia nửa bãi chiều rồi... vườn hoang trinh nữ khép đôi lá rầu...
Đấy, thơ thế mới là thơ chứ, - Sinh mỉm cười, mắt nheo nheo - vậy mà
mình đây đã từng ôm mộng thành nhà thơ cơ đấy. Đi lính ấy mà, mình định
bụng sẽ trở thành Lê Anh Xuân, tạc vào thế kỷ. Đấy ước mơ thế đấy... Còn
hồi trước nữa thì thú thực mình đã làm khối thơ tình tặng Phương, chỉ
hãi cậu biết cậu đấm cho thì khốn."

Rồi cả hai cùng im lặng. Chẳng
phải nói gì nữa. Hai người bạn thân thời niên thiếu, sau những năm dài
trận mạc giờ đây trong hai cảnh ngộ ngồi bên nhau, thầm lặng nói với
nhau bằng nỗi lòng, cùng nhau trầm tư nhớ lại những chuyện xa lắc, những
ngày xưa kia.

Kiên đưa Sinh về giường rồi cáo từ. Anh ôm lấy vai Sinh, hôn lên đôi má gầy hóp, hạnh như đồng của bạn.

-
Thỉnh thoảng vào với mình nhé, Kiên ơi... thỉnh thoảng nhé - Thương
thân, bi thiết nín mãi trong lòng, không còn gượng nổi nữa, Sinh bật nức
lên, nghẹn ngào - Lắm lúc nghĩ cay cực khôn cùng. ước gì có cách nào tự
chết ngay cho chóng cuộc đời. Thân phận những

thằng bị thương như mình bị chiến tranh đoạt mất tự do có khác nào thân phận nô lệ...

Kiên
đưa tay bưng mặt, và không chịu đựng nổi anh bật đứng dậy bước vội ra
khỏi căn buồng nửa nhà mồ, không kịp chào cả bà chị dâu của Sinh. Trở
lên phòng không cởi áo bông, Kiên nằm ngửa xuống giường, gác đôi giày
đen lấm bùn lên chiếu. Vòng tay dưới gáy anh trừng trừng nhìn lên trần
nhà nẻ rạn, vàng. Lặng lẽ nước mắt ứa ra, nóng rực và đau nhói. Đi đâu
bây giờ? Làm gì bây giờ?

Anh bật ho như thể buột rên lên nỗi day
dứt giằn vặt, khó hiểu, ám mãi trong lòng. Kể ra thì sau chiến tranh anh
đã từng có được cảm giác hạnh phúc, chí ít thì cũng là ấn tượng hạnh
phúc của ngày trở về. Hơn ba ngày đêm rong ruổi dọc đường sắt Xuyên Việt
vào cuối mùa thu năm 76 ấy có thể ví như là chút niềm vui vớt vát cuối
cùng của đời bộ đội. Tuy nhiên nhớ lại cứ thấy đau đau trong lòng thế
nào ấy. Trên tàu Thống Nhất chuyến ấy toàn là thương phế binh và lính về
vườn. Ba lô ken dày trên giá, võng chăng dọc ngang lòng toa biến đoàn
tàu thành một bãi khách. Thoạt đầu, tâm trạng chung phải nói là khá chua
chát. Không kèn, không trống, không khúc khải hoàn thì đã đành rồi
nhưng đến một chút đối xử có trước có sau người ta cũng chẳng buồn giành
cho bộ đội. Cảnh chợ chiều nhốn nháo, nháo nhào không khác gì lại một
thứ tùy nghi di tản. Đã thế lại còn kiểm tra lên, kiểm tra xuống, lục
lọi săm soi từng cái túi cóc ba lô tuồng như người ta cho rằng một núi
của cải ở miền Nam sau giải phóng bị hư hao thất thoát, bị xâu xé, tranh
đoạt, bị hốt vơ cào xúc cho đến sạch sành sanh là bởi anh bộ đội chứ
không phải bởi bọn người nào khác...

Tại các ga mà đoàn tàu dừng
bánh các loa phóng thanh oang oang trút vào tai đám lính đui què mẻ sứt
mắt trắng môi thâm này hàng lô xích xông những lời dạy bảo trớ trêu nhất
đời nào chống cầu an, chống đạn bọc lường, chống thói đam mê các tàn
tích của xã hội phồn vinh giả tạo và nào là cần đặc biệt chống tư tưởng
công thần?

Nhưng anh em công thần biết an ủi nhau, biết biến tất
cả những sự khó chịu thành chuyện đùa, thành lời giễu cợt, thành chuyện
tiếu lâm để cười. Và khi hai bên đường sắt bắt đầu những quang cảnh thân
yêu của đồng bằng sông Hồng thì ai ai nấy như bơi trong niềm hạnh phúc.
Bao nhiêu ước mơ đã đào sâu chôn chặt giờ đây thỏa sức cất lên thành
lời. Mê mải trong lòng mỗi người những dự định tươi hồng phi lý về cuộc
sống bắt đầu từ đây của nền hòa bình vĩnh viễn. Ngày cuối cùng trên tàu,
Kiên làm thân được với Hiền, chiến sĩ của mặt trận khu 9 đi B từ năm
66, quê Nam Định, gái chợ Rồng nhưng giọng nói đã ăn đậm chất Hà Tiên.
Đêm, Kiên bế Hiền sang bên võng mình. Và suốt đêm, trong nhịp tàu dồn
dập lắc lư, mặc kệ rằng xung quanh lính tráng đùa cợt trêu chọc, hai
người thoải mái ôm xiết lấy nhau mà ngủ, cùng nhau nói mê, thỉnh thoảng
thức dậy càng ôm chặt nhau, thỏa sức hôn hít nhau, sống gấp lên với nhau
những cây số cuối cùng còn vương lại của tuổi thanh xuân chiến hào. Khi
tàu dừng ở Nam Định, Kiên dìu Hiền xuống sân ga. Anh chực bỏ chuyến tàu
để đưa Hiền về nhà. Hiền cười gạt đi:

- Thôi mà.' Cho thành tro
mọi chuyện đi. Vương vấn làm gì. Mà anh cũng cần phải về gấp xem cửa
nhà, xem còn gì không cho ngày mai sống tiếp chứ. Với xem xem liệu có
còn ai đó chờ đợi mình không? Biết đâu đấy'

- Nhưng, sẽ gặp lại nhau chứ?

-
Đời hòa bình biết nông sâu thế nào mà lường, anh. Có phải là còn chiến
tranh, còn trong bộ đội đâu mà bảo rằng sẽ một điều gì. Thôi, mai rày có
nhớ nhau thì cứ cậy vào run rủi...

Một mình Hiền quay đi, khó
nhọc lết tới cửa ga. Hai vai cô tỳ lên hai chiếc nạng gỗ. Thân hình mềm
mại hơi lệch nghiêng, phướn lên, cô đu người tới trước từng đoạn, bả vai
nhô cao. Gần khuất sau cổng kiểm soát đông nghịt người, Hiền chợt ngoái
đầu lại chăm chú nhìn Kiên lần cuối. Đôi mắt đen trong sáng nhưng sâu
thẳm nỗi buồn và tâm trạng tan hoang bi đát. Cô loạng choạng, lúng túng
cất một bàn tay lên vẫy vẫy Kiên, gượng một nụ cười, rồi quả quyết quay
đi biến mất. Từ đấy về tới Hà Nội đầu tàu như không ngừng hân hoan thúc
lên hồi còi reo vui lanh lảnh: Hạnh phúc, hạnh phúc... Và các đầu dập
nối toa rầm rầm nhắc lại:

Hạnh phúc, hạnh phúc... Càng về tới gần
Hà Nội đầu óc Kiên càng thêm choáng váng, đê mê một cơn sốt nhẹ nhàng,
tim đập rộn lên bởi bao dự cảm mơ hồ, dịu ngọt và khó tin. Xúc cảm bình
yên làm mắt anh mờ lệ. Khi từ ga Hàng CỎ về đến nhà thì trời đã tối
khuya.

Phố phường im ắng. Anh bước vào trong sân. Ngôi nhà tối
sẫm. Các gia đình có lẽ đã ngủ cả nhưng cánh cửa đầu cầu thang không
hiểu hôm ấy sao không cài then như để hé đấy chờ anh về. Đúng là không
ai chờ đợi anh, không ai cả, Kiên biết... nhưng biết đâu đấy! Kiên bước
lên cầu thang lòng thắt lại trong linh cảm về một sự bất ngờ đang lặng
nín đón rình anh. Dưới ánh sáng của ngọn đèn vàng vọt, hành lang mờ tối
cánh cửa căn phòng của cha con anh vẫn nguyên màu nâu thùa xưa, vẫn tấm
biển đồng nhỏ khắc tên cha anh. Mờ mịt, chao đảo, Kiên đứng cơ hồ không
vững, hai tay mỗi lúc một run. Hạnh phúc và nước mắt thầm lặng dào tuôn.
Chợt có tiếng cửa kẹt mở. Từ căn hộ giáp phòng anh một người phụ nữ
thân hình dong dỏng, bận chiếc áo ngủ sáng màu bước nhẹ ra hành lang.
Nàng nhìn anh. Một tiếng kêu câm lặng trong ánh mắt. Kiên rùng mình.
Toàn thể cảm giác của anh như thể bị xô nghiêng đi. Năm tháng rất dài
lâu của đời người vụt thu lại trong chớp mắt này. Nàng bứt khỏi ngưỡng
cửa, ngả người, bước lướt tới. Kiên hơi cúi xuống. Rất nhanh, mềm mại,
tuyệt trần, hai cánh tay nàng choàng quấn lấy cổ anh.

- Kiên!

- Phương... Em!

Mười
năm trời ấy một cái hôn dài. Cái hôn bất tuyệt thấu vào tim, cái hôn mà
mãi mãi mỗi người trong họ còn phải nhớ bởi chưa bao giờ và sẽ không
bao giờ cả hai còn được hưởng một cái gì tột đỉnh cuộc đời đến như thế
nữa. Nàng khẽ cọ má vào môi anh, rồi lặng lẽ áp mặt vào ngực áo bộ đội
thô ráp của anh.

- Phương ơi... Vậy mà, - Kiên thì thào - Mười năm qua anh nghĩ em không còn sống.

- Vậy ra... chúng mình đã thành luồn ma trong nhau. . . bởi e ai cũng nghĩ thế. . .

Nhưng, thôi thế là từ nay không bao giờ chúng mình rời xa nhau nữa, phải không em?

Tuy
nhiên không hiểu sao ngay lúc đó, anh đã cảm thấy những xung động rối
ren giữa niềm hạnh phúc vô bờ lẫn cùng sự hoang mang bấn loạn từ tấm
thân yêu kiều trong vòng tay của mình. Anh cắn răng lại, anh nghe dường
như có những bước chân rón rén nào đó và có một ai đó đang chứng kiến
anh với Phương gặp gỡ nhau. Phương mở cúc áo. Chiếc chìa khóa của phòng
anh đính vào sợi dây chuyền, lấp lánh như một cây thập ác nhỏ trên ngực
nàng để hở. Mắt mờ đi, Kiên mở khóa và đẩy cửa ra. Bầu không khí trong
căn phòng đã nhiều năm trời hầu như thường xuyên khép kín ùa ra, bao bọc
lấy anh như làn hơi thở cuối cùng của cuộc đời yêu dấu xa xưa. Đột
nhiên, Kiên chộp lấy khuỷu tay Phương, như thể chực dùng sức du nàng vào
trong cửa. Anh đã thoáng thấy một bóng người đứng ở bên trong cánh cửa
phòng Phương hé mở. Gương mặt Phương trắng bệch, cái nhìn như lả đi.
Nàng bước theo anh. Nhưng chỉ một bước thôi, một giây thôi, Kiên cảm
thấy Phương đang trì ngón phân xuống ngưỡng cửa. Anh buông nàng ra. Cúi
xuống, anh nhặt cái ba lô ở ngạch cửa rồi một mình bước vào phòng. Khép
cửa lại.

Chao ôi! Như vậy đấy: Hòa bình, hạnh phúc, ánh huy hoàng
của chiến thắng, ấn tượng êm dịu của ngày trở về niềm tin đầy đắc thắng
về tương lai... Tội nghiệp thằng bé. Mỗi lần nhớ lại đêm đầu tiên của
cuộc đời mới sau chiến tranh lòng dạ anh đau nhói, chua xót, không thể
rên lên.

Kiên vùng bật dậy, không ngừng đi đi lại lại trong phòng.
Cuộc chiến tranh thần thánh rốt cuộc đã bù đắp những mất mát anh đã
phải chịu bằng một thứ đời sống như ngày hôm nay đây. Sau cuộc chiến
tranh ấy chẳng còn gì nữa cả trong đời anh. Chỉ còn những mộng mị

hao
huyền. Sau cuộc chiến tranh ấy anh dường như chẳng còn ở trong một
"kênh" với mọi người. Càng ngày Kiên càng có cảm giác rằng không phải
mình đang sống mà là đang bị mắc kẹt lại trên cõi đời này. Thẫn thờ, anh
ngồi xuống ghế. Bao nhiêu hình ảnh dồn dập kế tiếp nhau. Không. Cứ nói
rằng số phận không cho một lời mách bảo nào sau khi chiến tranh kết
thúc, song, cái đêm đầu tiên ấy chẳng là lời mách bảo hay sao? Nhưng cả
anh và cả Phương đều đã cưỡng lại. Để làm gì cơ chứ?

Ngay đêm hôm
ấy, Phương sang lại với anh. Người đàn ông mà nàng đang chung sống và đã
định với nàng một lễ cưới bỏ ra đi lập tức. Mù quáng biết chừng nào,
anh và Phương?

Dù đã dầm mình trong rượu, dù đã hàng trăm lần tự
cầu xin lòng mình hãy lặng yên đi cho, thì trong tâm trí anh vẫn không
ngừng nhói đau những hồi tưởng tan nát về thời gian sống cùng nhau sau
chiến tranh của anh và Phương. Mảnh đời còn lại sau mười năm bị lửa đạn
của chiến tranh vằm xé lại bị móng vuốt của tình yêu xéo nát. Cuộc chung
sống làm đổ bể tâm hồn nhau và cuộc đời nhau mới chấm dứt cách đây
không lâu. Trong một cuộc xô xát ở quán rượu Kiên đã đánh trọng thương
một người tình cũ của Phương. Từ đồn công an, nơi mà người ta tưởng anh
là thằng điên, Kiên mò về gặp Phương. Anh chẳng nói được gì hết, chỉ
trào nước mắt. Ký ức chẳng buông tha. Chúng mình đã lầm tưởng rằng có
thể vượt qua được một hạt sạn.

- Phương nói với anh khi bỏ ra đi -
Không phải là hạt sạn mà là một quả núi. Lẽ ra lần ấy em nên chết đi...
Như thế thì chí ít em vẫn là cái gì tốt đẹp trong trắng đối với anh.
Còn bây giờ em sống, sống cạnh anh nhưng em là vực thẳm xấu xa và đen
tối của đời anh. Phải không Kiên?

Khi Phương bỏ đi, Kiên không
cản. Anh cũng nghĩ là nên như thế. Song có thái độ cứng rắn trong chốc
lát là chuyện dễ, duy trì được thái độ đó khó hơn nhiều. Một tuần, hai
tuần, rồi hàng tháng đã trôi qua. Anh không thể đến nổi trường đại học.
Không biết ngồi thế nào, nằm thế nào, nhìn về đâu, đi về đâu. Một khi có
tiếng giầy cao gót lên cầu thang, tim anh ngừng đập. Giờ này qua giờ
khác anh đứng bên cửa sổ mắt nhìn đăm đăm xuống đường. Đi dọc phố chốc
chốc anh ngoái đầu nhìn lại đằng sau với nỗi hồi hộp lố bịch nhất đời.
Và đôi khi giữa đêm, lòng tràn tuyệt vọng anh nấc lên, nước mắt giàn
giụa, phải thúc mặt vào gối cho đến kỳ ngạt thở...

Anh biết chỉ có
biện pháp duy nhất để thoát khỏi tình trạng yếm thế thê thảm này là
Phương trở về, là anh lại được nhìn thấy nàng, để lại cùng nhau lặp lại
nỗi thống khổ...

Trong phòng ẩm ướt, dường như càng lúc càng lạnh
hơn. Gió cào trên ô cửa. Trên bàn, một ấm trà đã pha mà chẳng uống nguội
lạnh, mấy cuốn sách, một tập giấy, cây bút, lọ mực, cái gạt tàn và bình
hoa với mấy bông hồng đã nguội ngắt hương thơm. Và, chính một đêm như
thế vào mùa xuân năm ấy anh đã cảm nhận được thiên mệnh của đời mình:
sống ngược trở lại, lần tìm trở lại con đường của mối tình xưa, chiến
đấu lại cuộc chiến đấu. Tất nhiên anh chưa nghĩ ngay rằng đấy là một
thiên mệnh, anh nghĩ đấy là một lối thoát. Kể lại, viết lại làm sống lại
những linh hồn đã mai một, những tình yêu đã phai tàn, bừng sáng lại
những giấc mộng xưa. Đó là con đường cứu rỗi của anh. Kiên nghĩ. Nhưng
cho đến tận bây giờ và có thể là mãi mãi Kiên cũng không thể cắt nghĩa
được vì sao mà vào cái đêm lạnh giá ấy, đứng trước cửa sổ nhìn màn mưa
mỏng đang chầm chậm tràn ngang qua bầu không khí xanh xám run rẩy, uốn
ngả theo chiều gió đông bắc, lòng đăm đắm nhớ tới Phương, anh lại chợt
nhìn thấy mùa mưa Cánh Bắc, nhìn thấy Ngọc Bơ Rẫy, truông Gọi Hồn. Vì
sao? Lại gương mặt của từng anh em trong trung đội hiện lên. Và phép mầu
nào ngay sau đấy đã đẩy lùi thời gian về xa hơn, dựng lại trước mắt anh
trận đánh ghê rợn đã xóa sổ tiểu đoàn 27 của anh?

Không khí trong
căn phòng này khi đấy thật kỳ lạ, như thể bị hút vào trường hấp dẫn của
quá khứ: cũng rung lên, xô giật, đập thình thình vì sóng xung kích của
hàng trăm trái đạn pháo dội cấp tập xuống lòng truông Gọi Hồn. Và tường
vách căn phòng rầm rầm rung lên trong tiếng động cơ máy bay bổ nhào.
Kiên giật mình bật lùi khỏi cửa sổ.

Hồn phách xiêu lạc, ý thức mờ
mịt, lú lẫn, mê mẩn Kiên đi đi lại lại, ký ức lóe chớp. Loạng choạng
ngồi xuống bên bàn, mộ t cách máy móc anh cầm lấy bút, và thay vì viết
thư, anh viết một cái gì hoàn toàn khác. Suốt đêm ấy, đến sáng, giữa mớ
đồ đạc và bàn ghế tồi tàn, giữa bốn bức tường tróc lở, những sách những
báo chồng đống trên sàn nhà bụi bặm, nứt nẻ, những vỏ chai lăn lóc, cái
tủ đầy gián, chiếc giường xiên vẹo bừa bãi chăn màn xơ xác anh đã viết
một mạch trọn vẹn với thần hứng không bao giờ còn có lại - thiên truyện
đầu tiên trong đời, làm sống dậy một cách đặc biệt tàn nhẫn trận tử
chiến truông Gọi Hồn với những diễn biến nặng nề của nó và số phận bi
thảm của tiểu đoàn anh. Tay mỏi tê, run lên, tim như rách dần, cả hai
buồng phổi nghẹt khói thuốc, miệng khô đắng, cổ tắc lại nấc, anh cắm đầu
viết. Quanh anh, tiếng kêu, tiếng la hét đau đớn, tiếng đạn ríu rít sát
mang tai, tiếng gầm giật dội của những chùm rốc két vọt từ trực thăng
xuống. Các nhân vật của anh cứ nối nhau gục ngã. Và cho tới lúc nhân vật
chính, một trong những người trụ lại đoạn hậu cho cuộc rút lui đã hóa
thành một đống giẻ nát nhừ vắt mình trên bờ công sự mà chết thì ngày
xuân trên thành phố đã vào đến góc tối nhất trong phòng. Tác giả đã cạn
sức. Chếnh choáng, anh lần ra khỏi nhà, lê bước trên vỉa hè, xiên đảo,
mê tơi như thể một cô hồn lang thang đi phơi nắng. Khối cảm giác nóng
bỏng căng nhức hồi đêm dẫu dịu dần nhưng tâm trạng Kiên hình như không
thể bình quân lại được nữa. Anh có cảm giác giống như khi bị thương mất
nhiều máu, ngất đi, vừa hồi tỉnh lại ngay trên bãi chiến trường.

Thế
giới trước mắt anh cơ hồ đã đổi khác. Chỉ sau một đêm thôi nhưng là một
đêm kỳ ảo chóng vánh dài dặc mà giờ đây... đường Nguyễn Du sắc nét và
trang nhã của anh, hồ Thuyền Quang trong lành êm ả và thân thuộc từ tấm
bé không còn hẳn như ngày hôm qua nữa. Cả tâm hồn của anh, anh cũng
không còn nhận ra nổi. Và bầu trời buổi sớm và những cụm mây lững thững
trôi từ miền đông bắc quang đều như nhuộm một sắc màu khác biệt. Những
nóc nhà vốn xám xỉn, lóng lánh trong màn nắng mai nom như vừa được vớt
lên từ dưới nước. Suốt cả ngày chủ nhật hôm ấy, như thành người ngây,
Kiên lang thang trong phố. Một niềm vui buồn thảm tựa như một buổi bình
minh pha trộn ánh hoàng hôn soi chiếu những suy nghĩ của Kiên. Toàn bộ
cuộc sống bấy lâu nay được rọi sáng trong luồng tâm tưởng ngược chiều
thời gian. Những mối bận tâm, những niềm đau khổ, những xót xa cay đắng
trong lòng những năm gần đây đã trở nên tầm thường, nhợt nhạt và lúc đó
Kiên nghĩ, chúng chẳng còn nghĩa lý gì đối với mình. Kiên tin rằng anh
đã phục sinh, nhưng là một sự phục sinh lùi về sâu xa. Sẽ mỗi ngày một
lùi xa hơn, sẽ không ngừng phục sinh trong chuỗi dài tái hiện. Có vẻ như
anh đã tìm ra cuộc đời mới của mình: đấy chính là cuộc đời đã qua, là
tuổi trẻ đã mất đi trong nỗi đau buồn chiến tranh.

Buổi chiều vào
công viên, anh đi dọc theo những lối sỏi hai bên um tùm cỏ và hoa, bước
qua những bụi cây đọng nước tìm tới một ghế đá bỏ trống gần nơi trai gái
đang tình tự, và ngồi im cả giờ nghe gió thầm thổi qua hồ. Con người
nội tâm trong anh cô quạnh, âu sầu không hề cảm thấy gió lạnh chiều tà,
lặng lẽ đưa mắt nhìn vượt khỏi tầm mắt, vươn tới cõi xa xăm bên ngoài
biên giới của tư duy, đạt đến cõi hòa đồng người sống và người chết,
hạnh phúc và khổ đau, hồi ức và ước mơ. Mênh mang trời nước. Mênh mang
hương sặc mùa xuân tươi sáng đượm sầu xao xuyến truyền lan theo sóng hồ.
Và, trên vùng không gian tinh thần ấy Kiên thấy hiện lên rõ một cách bí
ẩn, khó giải thích một đoạn đời, một phong cảnh, một hình ảnh, một
gương mặt mà đã từ lâu rồi anh quên lãng. Và sau đó lại những đoạn đời
khác, những kỷ niệm khác, lần lượt kế tiếp nhau, âm thầm chậm rãi duyệt
lại quá khứ... ký ức về một trưa mùa khô rực rỡ nắng, hoa nở đầy trong
những khoảnh rừng thưa... Ký ức một ngày mưa gian truân bên bờ Sa Thầy
vào rừng hái măng đào củ... những bờ suối, bãi lau, buôn nhỏ hoang
tàn... những gương mặt đàn bà mến thương xa lạ gợi niềm nhớ nhung âu yếm
. . . mềm đau của mối tình . . . Ký ức xa vời, trập trùng và lặng lẽ,
khắc nghiệt và thẳm sâu như rừng như núi trong lòng anh chiều ấy, một
chiều xuân lạnh lẽo sáng trong bên lề trống không của trời nước một mầu
làm cho tâm hồn từ đấy không còn có thể dừng mắt ở điểm nào nữa trên cõi
không cùng của quá khứ.

 

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3