Nỗi buồn chiến tranh - Chương 18
Khi leo gần tới bờ khe, thình lình Tâm xoài người tới, túm lấy chân tên lính dù lực lưỡng, giật thật lực.
Một tràng "cực nhanh!' cướp cò bắn rét lên trời. Tâm và tên địch cùng lộn nhào xuống lòng con mương xói.
- Chạy... Thịnh, Kiên! Chạy đi...?
Lý
ra phải cưỡng lại tiếng thét thất thanh ấy của Tâm và nhảy xuống hợp
lực hạ thủ tên địch và cầm lấy vũ khí thì Kiên lại nhún người vọt lên bờ
khe. Nhác thấy một toán áo rằn đang rẽ rừng đổ xô tới, Kiên và sát sau
anh là Thịnh ''nhớn" lập tức vùng chạy thục mạng dọc theo bờ mương xói.
Năm, sáu họng tiểu liên bắn rê theo. Kiên rạp lưng xuống, chạy dịch dắc.
Đạn cày bên trái, bên phải. bấm sát gót, lia rát ràn rát
mang tai, đỉnh dầu.
-
Ối - Thịnh hộc một tiếng, nhảy dựng lên húc đầu vào không khí, vật sấp.
Kiên lượn ngoằn ngoèo, mất hút sau các lùm bụi ken dày. Bọn dù nã cối
cá nhân truy theo nhưng chệch hẳn hướng chạy của anh.
- Thoát
chết! Thoát chết! Thoát chết rồi-ồi-ồi...! - Mất trí đi vì sợ, vì đau
đớn và bại hoại tinh thần, Kiên đâm đầu chạy cho đến lúc quỵ liệt, ngã
khuỵu gối. Nhưng từ đấy ý thức của anh vẫn không ngừng thổn thức rền rĩ
lên nỗi vui mừng xấu xa gần như là một sự hài lòng hiểm độc vì rằng rốt
cuộc mình vẫn là còn sống, còn sống. . .
Tuy nhiên, kỷ niệm bi thảm, thương tâm và hiểm nghèo nhất trong ký ức chiến tranh của Kiên dĩ nhiên là kỷ mềm về Hòa.
Bấy
giờ là thời kỳ bất hạnh, vô cùng cay đắng trong thoái trào của tấn công
Mậu Thân. Những ngày ấy, trước mắt những người lính thường như Kiên
ngay cả trời cao cũng đã thành ngõ cụt. Rút lui, ôm đầu máu, khiêng cõng
nhau, lê lết luồn rừng, chạy về phía Tây. Trong không đầy nửa tháng mùa
khô, hai lần bị bao vây, hai lần liều mạng mở đường máu, đơn vị Kiên
tan nát, vụn ra từng tốp, vừa đánh vừa chạy. Kiên cùng ba chiến sĩ nữa
trong đại đội hợp thành một nhóm vượt qua sông Pô-cô, rồi lách ngang
vùng Đồi Đen bị B52 chần ra bột, nhằm hướng mặt trời lặn mà tháo thân.
Ngang qua vùng rừng trũng dưới chân Ngọc Bơ Rây bọn anh gặp một đoàn
chừng hai chục cáng thương đang trên đường lánh sang đất Miên, bên kia
sông Sa Thầy. Đã gặp thì phải nhập vào với họ chứ thực tình Kiên chẳng
muốn chút nào. Lực lượng này đã quá tơi tả. Đạn dược thiếu, lương thực
cần nhẵn. Sức cùng lực kiệt. Và mặc dù họ có một giao liên dẫn đường
nhưng lại là nữ giao liên, mà gái Bắc chứ không phải gái Thượng.
Tứ
bề toàn lính Mỹ, khắp các góc rừng họ đều có thể đụng phải chúng hoặc
gặp dấu vết chúng vừa đi ngang. Ở các nguồn nước còn sót lại trong các
vạt rừng trơ trụi và xác xơ của mùa khô đểu có nguy cơ sa vào phục kích.
Bom pháo tơi bời, và trực thăng. Và thám báo hoành hành. Sau những cuộc
chạm súng bất ngờ thương binh đông lên mà tải thương ít dần. Bây giờ cứ
phải ba người khiêng hai cáng. Thế mà trầy trật, rồng rắn mãi vẫn chưa
nghe thấy tiếng Sa Thầy reo, vẫn cứ quẩn quanh dưới Ngọc Bơ Rây. Kiên tỏ
ý ngờ là đã lạc lối song Hòa, cô giao liên một mực quả quyết là không
thể đi sai đường được. Không có bản đồ, không có địa bàn nên Kiên cũng
đành nhắm mắt phó mặc hướng hành trình cho cô gái. Nhưng tới buổi sáng
của ngày đường thứ ba thì tình hình trở nên tuyệt vọng: đáng lẽ là bờ
Đông Sa Thầy thì trước mặt họ trải rộng ra một đầm lầy không thể có cách
nào vượt qua.
- Chết rồi - Hòa buột thốt lên - Hồ Cá Sấu?
Kiên
đứng lặng trên bờ cỏ ở mép hồ nhìn làn hơi thối hoắc bốc lên, quánh
lại, dập dờn phủ lên các vạt lau lách. Đây đó mấy con cá sấu giương
nhũng cặp mắt không mi thao láo trên váng nước xanh lè.
- HỒ Cá
Sấu à? Thì ra cái hố hôi thối này là nơi cô muốn đưa chúng tôi đến để
vãn cảnh phải không? - Kiên hất hàm hói: giọng khản đặc, hung dữ.
- Em có lỗi! - Hòa cúi mặt xuống, nói nhỏ.
-
Không phải lỗi lầm mà là một tội ác! - Kiên tàn nhẫn dằn giọng - Cần
phải xử bắn cô. Hiểu chưa! Nhưng vì đạn chẳng còn nhiều...
Hòa ngẩng lên, cặp mắt to rân rấn lệ, môi run run nói:
- Tôi sẽ chuộc tội, tôi xin chuộc tội này... Tôi sẽ tìm thấy đường. . .
- Cô sẽ cho anh em thương binh tắm bùn chứ?
-
Không. Hồ Cá Sấu. nghĩa là cũng rất gần bờ sông. . . Đồng chí cứ để tôi
đi lần lại đường. Sẽ tìm thấy ngay thôi... Giờ thì ta tạm lui về ẩn
dưới cái khe cạn vừa vượt qua khi nãy. Cho tôi thời gian xác định lại
lối ra bờ sông. Rồi đến lối sẽ hành quân tiếp.
L-19 lượn vòng rất
thấp trên mái rừng. Đạn pháo như tiếng nấc nghẹn chụp xuống một loạt ở
bên kia hồ. Rồi một loạt nữa. Một loạt nữa cấp tập. Mặt đất xóc lên.
Sóng nổi làm mặt hồ buồn thảm phù nề nhăn nhúm lại.
- Tôi sẽ chuộc
lỗi các đồng chí ạ - Hòa nhắc lại, nôn nóng - Ngay bây giờ tôi sẽ...
Nhưng ta cần đưa thương binh về náu dưới khe.
Không tin tưởng Hòa,
không muốn nghe theo cô nhưng Kiên thấy chẳng còn cách nào khác. Mấy
chục người, cả thương binh cả tải thương, đều đã kiệt quệ. Tất cả đều là
những thân hình rách rưới, sạm đen, đầy thương tích; rộc rạc vì đói
khát, lả di vì cực nhọc sau bao nhiêu ngày liên miên xuyên rừng.
Họ
rút khỏi bờ hồ, lùi về cái khe cạn lổng chổng đá hộc ở góc rừng tre gai
khô xác. Buổi xế trưa nắng chói chang, lòng rừng hầm hập hơi nóng.
Nhưng yên ắng lạ lùng, đáng sợ và khó hiểu. Không nghe thấy đại bác nã.
Không có tiếng rú rít của trực thăng. Chỉ còn vẳng lại tiếng súng trường
lẻ loi ở đâu đó và tiếng lép bép từ những đám cháy bên kia khu rừng.
Tiếng thương binh rên rỉ vì đau đớn và vì khát. Không khí nóng hổi đè
lên gáy. Một vòm trời dường như mặn chát. Nóng, ngột ngạt và khát. Kiên
cau có sẵng giọng bảo Hòa:
- Gần hay xa gì thì trước tối nay đồng chí phải tìm được đường tới bờ sông. Nếu không thì... Có hiểu không?
- Hiểu ạ Em xin đi ngay bây giờ đây.
Kiên kéo khẩu AK ra khỏi vai đặt vào lòng một lính tải thương đang ngồi co ro dưới đất, rồi nói với Hòa:
-
Khẩu AK của đồng chí cũng để lại cho anh em phòng khi bọn Mỹ ập đến.
Đạn gần hết cả rồi. Tôi, quả lựu đạn này là đủ. Còn đồng chí thì súng
ngắn đây cầm lấy! Còn bốn viên đạn đấy.
Kiên rút khẩu K59 cồm cộm trong túi quần ra đưa cho Hòa:
- Phải tránh giao chiến! Nhiệm vụ của tôi và đồng chí là tìm lối thoát chứ không phải là bắn nhau, hiểu chưa?
Hòa để tiểu liên lại, cầm lấy súng lục. Cô nhìn Kiên, ngập ngừng nói:
- Cứ để em đi một mình cũng được... Anh nên nghỉ cho lại sức.
- Không, tôi sẽ cùng đi với đồng chí.
- Em cam đoan sẽ tìm ra đường mà. Hay anh không tin em?
-
Tôi không tin - Kiên chau mày - Tôi không biết là có thể tin cậy đến
mức nào vào những lời nói, dù là lời cam đoan. Tôi chỉ tin vào những
điều tôi trông thấy. Với lại, đây là tính mạng của thương binh. Tôi và
đồng chí có nhiệm vụ phải thực hiện là: Bằng mọi giá phải tìm được đường
ra sông. Đấy, tôi biết như thế thôi.
- Em hiểu! - Hòa thở dài buồn bã và cụp mắt xuống.
Hai
người quay về dải rừng trũng ở ven hồ Cá Sấu để định lại hướng. Họ đi
qua một tảng đá hình đầu người nổi lên giữa một cái tràng mọc đầy những
cây bổi thấp lè tè.
- Đúng rồi, đi phía này! - Hòa nói và trỏ một bìa rừng thẫm đen bất động như một bức tường đá.
- Có đúng không? Kiên ngờ vực.
- Xin anh cứ tâm niệm cho em cái khối đá thằng người này - Hòa quả quyết - sắp tới đường giao liên rồi.
Họ
đi chệch lên hướng Tây-bắc và tìm thấy dấu một đường giao hên đã bỏ hóa
luồn dưới đáy những lạch suối đã tắt ngấm mạch nước. Vừa chạm vào đường
giao liên đã có thể cảm thấy hơi hướng của dòng sông. Rừng có vẻ xanh
tươi hơn. Không khí như có chút hơi mát. Từ đây Hòa có vẻ chắc chắn là
mình không lạc đường nữa. CÔ dẫn Kiên di chuyển một cách tự tin qua các
vùng ánh sáng và bóng tối, vùng khô chát và ẩm ướt, vùng nồng nặc hơi
thở rữa nát của nhưng hố lầy lớn nhỏ và vùng ngào ngạt hương thơm của
các tráng cỏ đỏ ối những hoa là hoa. Đường giao liên không rõ nét dưới
những thảm cỏ đã hóa mùn. đôi lúc lặn mất tăm. Nhưng dòng trôi trầm trầm
của Sa Thầm mỗi lúc một rõ. Hai người đi ngang qua một nương sắn đã bỏ
hoang lút cỏ dại và dừng lại trước một con đường dốc có xẻ bật dẫn xuống
một vực sâu màu lục.
- Dòng sông! - Hòa nói, tươi hẳn nét mặt lên nhìn Kiên.
Giữa
lòng thung sâu. Sa Thầy hiện lên thấp thoáng dưới mái rừng. Mặt nước
sáng bạc lấp lánh ánh nắng phản chiếu không ngừng uốn lượn và gấp khúc.
Dòng sông cất giọng thì thầm: trầm và sâu, thấp hơn tiếng cây cối thì
thào một âm bậc.
- Không cần phải xuống tận nơi đâu, anh ạ. Đường
thế là rõ rồi. Ta về đưa mọi người đi ngay thôi. Về tới khe cạn chắc
cũng vừa tối.
- Ừ. Nhưng ngồi nghỉ một lát đã.
- Vâng. Em cũng hết cả hơi rồi.
Họ
ngồi xuống cạnh nhau trên đỉnh dốc. Dưới xa dòng sông. Mãi tới lúc này
Kiên mới nhìn Hòa. Anh muốn khen ngợi cô, muốn xin lỗi vì đã nặng lời
nhưng không biết nên nói thế nào.
- Anh hút thuốc không?
- Đào đâu ra mà hút?
- Em có một điếu đây. Nhặt được khi nãy ở ngoài tràng ấy anh không để ý à? Một bao Salem nhưng còn được một điếu.
Cô moi trong túi ra một điếu thuốc, bật bật lửa và rít một vài hơi cho đầu điếu thuốc đỏ rực rồi đưa cho Kiên.
- Nghĩa là bọn Mỹ không xa đây - Kiên thở khói trầm ngâm
- Cũng chưa chắc. Có khi lính mình hút. Nhưng đúng ra em và anh nên mang theo một AK.
-
Ừ nhưng tôi lo khi ta đi vắng bọn Mỹ sục tới. Anh em thương binh chỉ
còn cách bắn trả chứ chạy đi đâu dược nữa. Mà đạn thì cạn cả rồi...
Không mang khí giới, tôi với Hòa càng phải thận trọng hơn để tránh chạm
địch. Nhiệm vụ của chúng mình là êm thấm đưa được cả đoàn sang bên kia
sông. Hiểu không?
Hòa gật đầu và đưa tay ra xin điếu thuốc. Kiên đưa điếu thuốc vào tận môi cô.
- Hòa hút thuốc à?
- Không. nhưng hút với anh cho vui. Với lại chẳng hiểu sao cứ bứt rứt hồi hộp thế nào ấy.
- Hòa chiến đấu lâu chưa?
-
Em vào B năm 66. Hai năm rồi, nhưng chủ yếu ở dưới cánh trung. Vùng này
em không thạo lắm. Mà cũng chưa bao giờ phải trải qua tình cảnh khó
khăn như lần này. Cảnh này có lẽ còn kéo dài anh nhỉ?
- Khó khăn chung của toàn chiến trường. Có thể chỉ mới bắt đầu.
Xa xa đại bác âm ỉ. Đâu đó phành phành tiếng trực thăng.
- Anh nhớ đường cho chắc nhé - Hòa bỗng nói.
- Ừ. Nhưng Hòa còn nhớ chắc hơn chứ.
- Vâng. Nhưng mà nhỡ ra em lại mắc lỗi gì, anh tử hình em thì sao?
- A, nhắc gì chuyện dó nữa, Hòa! Nóng giận lên ấy mà. Kể gì.
-
Không, em biết tội em chứ. Những lúc sợ lên em hay quên mất lối. Với
lại cảnh rừng thường làm em lú lẫn. Vì em quê miền biển, quê Hải Hậu.
Thế mà lại làm giao liên đường rừng thì anh bảo... Lúc nãy lúc cùng anh
rời khỏi khe em hãi lắm; không dám thú nhận là đã quên tiệt đường đi lối
lại. May sao mà chạm được cái khối đá hình thằng người là vật chuẩn để
nhớ em mới lại hồn mà định hướng được.
- Hồi đi B Hòa bao nhiêu tuổi?
- Mười tám. Hai năm rồi, thế mà vẫn chưa sao quen được.
- Ai mà có thể quen nổi, - Kiên thở dài, dụi điếu thuốc xuống đất rồi bảo:
-
Bây giờ Hòa ở lại đây chờ. Mình mình quay lại đón mọi người thôi. Hòa
ngồi chờ ở đây, tranh thủ mà nghỉ đi. Đường còn xa, còn vất vả lắm.
- Không. Sao lại thế. Em là giao liên cơ mà. Với lại ngồi một mình thế này em kinh lắm. Và, em muốn đi với anh, Kiên ạ!
-
Thế thì ta đi đi - Kiên nói khẽ và quàng tay ôm lấy vai Hòa. Trìu mến
dịu hiền Hòa từ từ ngả đầu vào vai anh. Họ ngồi tựa vào nhau như thế một
lúc nữa, một lúc lâu. Tiếng ù ù của chiếc AD6 bay tuần tra triền sông
kéo họ ra khỏi thoáng êm đềm. Miễn cưỡng Kiên đỡ Hòa đứng dậy. Trên
đường về cả hai đều rảo bước. Bóng của họ ngả dài. Trên rặng Ngọc Bơ Rây
ánh tà nhuộm đỏ các đỉnh núi. Cảnh rừng trong bóng chiều im lặng nặng
nề. Một nỗi căng thẳng khó chịu cứa vào tâm trạng hai người. Họ đi mau.
không trò chuyện.
Tiếng gió lào xào và tiếng cành khô gãy. Một con
rắn hổ mang lướt nhanh qua lối mòn. Gió từ mạn hồ Cá Sấu thổi tới mùi
bùn nồng nặc. Chỉ còn một đoạn mười phút nữa là về tới khe cạn chỗ anh
em thương binh đang đợi. Họ đã vượt qua tảng đá hình đầu người và bắt
đầu đi vào rừng tre gai. Chim chóc từ rừng bay ra gặp hơi nóng ngoài
trảng liền bay lộn vào kêu inh ỏi. Mới đi qua mấy lùm tre chằng chịt ở
bìa rừng Kiên sững lại. Nghẽn trong cổ họng một tiếng kêu. Kiên tái mặt
kéo Hòa ngồi thụp xuống. Bọn Mỹ!
Chẳng hiểu sao chỉ cách vài bước
chân. vướng một lùm cây mà bọn địch không kịp phát hiện ra Kiên và Hòa.
Chúng cũng vừa tiến vào khu rừng này nhưng theo một hướng khác, cắt một
góc hẹp với hướng đi của hai người. Chỉ chậm một loáng nữa thôi thì họ
đã chạm phải tên Mỹ đi đầu. Thực ra Kiên trông thấy trước tiên là con
chó. Con vật nhô ra khỏi lùm tre ken dày như bức tường phía tay trái anh
cách qua một bãi cỏ hẹp. Con vật to tày con bê, lông xám với những đốm
vá bên sườn. Cái mũi rất thính lia trên mặt đất, con béc-giê thong thả
chạy chếch lên phía lùm cây trước mặt Kiên. Tên Mỹ đi đầu xuất hiện ngay
sau con chó là một tên lính da đen mặc áo giáp, đầu đội sắt bọc lưới,
chân dận bốt đờ xô, tay nắm dầu sợi dây da dài bị con chó săn kéo căng
ra. Theo sau hắn, cũng một tên da đen, cởi trần, những băng đạn vắt kín
đôi vai lực lưỡng. Rồi tên thứ ba, tóc vàng hoe, cũng gần như trần
truồng, to cao, khỏe như vâm, tiểu liên lăm lăm trong tay. Tên thứ tư...
Kiên thấy loáng thoáng bóng những tên khác sau lùm tre, không rõ có bao
nhiêu tên. Chúng tiến hàng dọc, giãn cách thưa, cao lớn âm thầm, bước
mau nhưng rất nhẹ chân, gần như không có tiếng động, dáng dấp tàn ác và
gian manh của những con sói.
Con chó béc giê to lớn dừng lại ở bụi
cây phía trước Kiên hít hít một vật gì đó. Tên quản chó bước tới đưa
mũi súng khều vật ấy lên. Co rúm người lại, mắt mở trừng trừng, Kiên
nhận ra ở mũi khẩu M 16 một dải băng trắng. Kiên xiết chát quả lựu đạn,
lòng tê bại, thấp thỏm. Miễn sao con chó không bắt được hơi của anh và
Hòa, miễn sao những thằng Mỹ không nảy ra ý định lục soát xung quanh
đây, Kiên run rẩy nghĩ, nhưng anh không hề thoáng nghĩ rằng bọn lính
đang lần theo dấu vết của đoàn tải thương để lại trên đường di chuyển từ
hồ Cá Sấu về khe cạn. Thậm chí anh không để ý rằng, Hòa đã lẳng lặng
trườn xa chỗ anh nấp. Những tên Mỹ còn khuất trong lùm tre phía bên trái
cất tiếng làu nhàu. Chắc là chúng chửi rủa. Tên quản chó giật giật sợi
dây da. Con chó lại dí mũi xuống sát đất ngoắt ngoắt đuôi, nhanh nhẹn
chạy chếch lên phía trước theo hướng mục tiêu mà nó bắt được trong thính
giác. Kiên kín đáo thở phào. Đúng giây lát đó, thình lình vang lên một
phát súng lục Tiếng súng ngắn nhưng làm bầu không khí lặng phắc của rừng
chiều giật nảy lên. Con chó săn hộc một tiếng kêu đau đớn. Bọn Mỹ phản
ứng cực nhanh, nằm rạp xuống và lăn tản ra. Tên quản chó buông sợi dây
da. Phát K59 thứ hai vang lên. Bây giờ Kiên mới kịp hiểu là Hòa đã bắn,
anh choáng hồn. Con chó có lẽ đã trúng đạn nhưng nó hăng lên, hung dữ
như cọp, hú lên, rẽ ngang lao dạt tới nơi phát ra tiếng súng. Sau một ụ
mối chếch bên tay mặt Kiên chừng chục bước chân, Hòa nhô hẳn người lên.
Mặt trời xuống thấp lùa ánh sáng qua cửa rừng. Những làn ánh sáng cuối
cùng trong ngày, đỏ thẫm như máu. Hòa đứng hơi nghiêng trước nắng tà nên
thân hình mảnh mai nổi lên đậm nét với những đường cong sẫm tối và
những vệt da bắt sáng. Mái tóc xõa trên vai. Cái cổ cao yếu ớt, áo cộc,
quần đùi, đôi chân trần dày vết gai cào. Con chó lao xộc tới. tung mình
chồm lên, hứng gọn hai phát đạn, bật lộn ra sau như bị đá thốc vào ngực.
Tất cả diễn ra trong chớp mắt. Hòa quăng khẩu súng hết đạn về phía bọn
Mỹ đang chồm dậy, và xoay người chạy lao ra khỏi rừng băng vào trong
trảng. Bọn Mỹ không bắn, rầm rập đuổi theo. Tên xông qua gần chỗ Kiên
nhất đế giày như suýt đạp vào tay anh. Chừng hơn chục tên, phần đa là Mỹ
da đen, nhanh nhẹn và cực khỏe. Chúng lao như gió. Có lẽ ngay lập tức
đã đuổi kịp Hòa. Chúng reo ồ lên. Tuy nhiên hướng chạy của Hòa kéo chúng
ra xa Kiên, đồng thời cũng hút chúng lệch khỏi vệt đường có thể dẫn tới
khe cạn.
Trườn theo các lùm cây, Kiên men tới cửa rừng và len lén
anh nhổm lên, quỳ một chân, nhìn ra trảng. Quả lựu đạn đã rút chốt như
chỉ chực rớt ngay xuống chân Kiên. Tay anh lạnh ngắt, các ngón run và
toàn thân anh tròng trành, đầu óc chao đưa hầu như không còn tự chủ được
nữa. Ngợp trước mắt anh. Ở ngoài tráng, trên đám những cây bổi bị giẫm
nát ngay sát tảng đá rêu mốc chơ vơ hình đầu người, kín nghịt một đống
kinh khủng đen ngòm, lấp loáng mồ hôi và phì phò hơi thở rốc. Không nghe
thấy tiếng Hòa kêu, nhưng mà có thể cảm thấy tiếng kêu ấy.
Bọn Mỹ
dồn cục lại. nhưng chỉ có vài tên còn dang đứng và đều xây lưng lại
phía Kiên. Chúng không hò hét, không rống cười. không quát tháo. Sự thể
ghê rợn bày ra: quằn quại trong yên tĩnh man rợ. Chỉ trong tầm ba chục
thước không hơn, Kiên đủ sức "cả cái" trái cầu thép này vào giữa đám,
quét đi ít nhất là non nửa số Mỹ đang chất đống. Nhưng nín lặng, gần như
nín cả thở nữa, Kiên cứ như thế quỳ mãi, náu kín mình sau lùm cây ở bìa
rừng. Đã đến lúc phải cắt ngang cận cảnh dã man này, phải đánh dấu chấm
hết lên đầu bọn khỉ đột, song cái dấu chấm hết ấy vẫn bị giữ lại khư
khư trong lòng bàn tay Kiên. Hoàng hôn trùm lấp anh. Sương mù dâng cuồn
cuộn và muỗi đàn đàn bu tới. Trong những tia hồi quang mờ lụi của phút
tận chiều nhá nhem, Kiên như càng thấy rõ hơn cảnh tượng rùng rợn. Vậy
mà lẳng lặng anh tra lại chốt cho quả u ét rồi từ từ bò lui. và cùng với
bóng tối đang buông xuống rừng từng đợt anh êm thấm trở về chỗ khe cạn.
Đoàn
tải thương lập tức dắt díu, khiêng cáng nhau di chuyển. Và mặc dù đêm
tối trời đen đặc lại phải đi tránh khỏi cái tráng có tảng đá hình đầu
người dùng làm vật chuẩn, Kiên vẫn định được hướng. Trong đêm theo lối
mòn Hòa đã tìm thấy khi chiều. anh dẫn cả đoàn tiếp cận bờ sông và vượt
sang ngang trót lọt. Do không chạm dịch nên Kiên không phải dùng tới
trái lựu đạn. Cả đêm anh giữ nó lăm lăm trong tay, làm
nóng lớp vỏ
thép. Sau đấy chẳng thấy ai hỏi gì anh về Hòa cả. Anh cũng chẳng kể,
rồi cũng bẵng quên. Có lẽ, đức hy sinh sự quên mình là cái gì quá giản
dị, dễ hiểu, dễ nhớ dễ quên. Một người ngã xuống để người khác có thể
sống chuyện đó quá thông thường. Phải rất nhiều năm sau, nhờ tham gia
vào đội thu nhặt hài cốt tử sĩ của sư đoàn, Kiên mới có dịp trở lại vùng
hồ Cá Sấu. Tất nhiên anh nhớ ngay tới Hòa và
muốn đi tìm lại đoạn
đường rừng ngày trước. Nhưng cái trảng trống ấy không hiểu sao chẳng
còn dấu vết. Tảng đá hình đầu người, chứng tích duy nhất như thể đã bị
nhòa trong thời gian. Chỉ còn lại đó ngàn cây âm u, những thảm lá mục
nát lấp lên đáy rừng, các khe cạn, tiếng chim chóc, tiếng gió, tiếng
những nguồn nước thì thầm xa xôi và hương thơm hoa chạc chậu hoa vòi
voi, hòa quện vào nhau gợi nhớ và lưu giữ một điều gì đấy thầm lặng, mơ
hồ, phảng phất đâu đây.
Ngồi xuống ở một bìa rừng trong bóng hoàng
hôn, nhắm mắt lại dõi nhìn vào cõi xa khuất, lặng lẽ Kiên trông thấy
toàn cảnh của những gì mà trí nhớ đã lảng tránh suốt bao năm từ bấy đến
giờ. Anh cảm thấy lại cả trái lựu đạn đã rút chốt mà không dám phát nổ
của mình buổi chiều hôm đó đang nằm nằng nặng trong lòng bàn tay. Tuy
nhiên, bao nhiêu sợ hãi và đau đớn, uất giận và căm hờn, những trạng
thái tinh thần bạo liệt đã co giật và giằng xé trong lòng anh khi ấy
trước tình cảnh kinh khủng quá sức chịu đựng ấy, không còn có thể trỗi
dậy cùng với hồi tưởng. Bây giờ đây chỉ có nỗi buồn, mênh mang nỗi buồn - nỗi buồn được sống sót, nỗi buồn chiến tranh - tràn phủ tâm hồn anh.
Nếu
không nhờ có Hòa cùng biết bao đồng đội thân yêu ruột thịt, vô số và vô
danh, những người lính thường, những liệt sĩ của lòng nhân, đã làm sáng
danh đất nước này và đã làm nên vẻ đẹp tinh thần cho cuộc kháng chiến,
thì dối với Kiên, chiến tranh với bộ mặt gớm guốc của nó, với những móng
vuốt của nó, với những sự thật trần trụi bất nhân nhất của nó sẽ chỉ
đơn thuần có nghĩa là một thời buổi và một quãng đời mà bất kỳ ai đã
phải trải qua, đều mãi mãi bị ám ảnh, mãi mãi mất khả năng sống bình
thường, mãi mãi không thể tha thứ cho mình. Bản thân anh nếu không nhờ
được sự che chở đùm bọc, được cưu mang và được cứu rỗi trong tình đồng
đội bác ái thì ắt rằng đã chết từ lâu, không vì bị giết chết cũng sẽ tự
giết mình bằng cách nào đó để thoát khỏi gánh nặng chém giết, gánh nặng
bạo lực mà thân phận con sâu cái kiến của người lính phải cõng trên lưng
đời đời kiếp kiếp.
Bây giờ thì đã qua cả rồi. Tiếng ồn
ào của những cuộc xung sát đã im bặt. Gió lặng cây dừng. Và vì chúng ta
đã chiến thắng nên đương nhiên có nghĩa là chính nghĩa đã thắng, điều
này có một ý nghĩa an ủi lớn lao, thật thế. Tuy nhiên, cứ nghĩ mà xem,
cứ nhìn vào sự sống sót của bản thân mình; cứ nhìn kỹ vào nền hòa bình
thản nhiên kia và nhìn cái đất nước đã chiến thắng này mà xem: đau xót,
chua chát và nhất là buồn xiết bao.
Một người ngã xuống để
những người khác sống, điều đó chẳng có gì mới, thật thế. Nhưng khi anh
và tôi thì sống còn những người ưu tú nhất, tất đẹp nhất, những người
xứng đáng hơn ai hết quyền sống trên cõi dương này đều gục ngã, bị
nghiền nát, bị cỗ máy đẫm máu của chiến trận chà đạp, đày đọa, bị bạo
lực tăm tối hành hạ, làm nhục rồi giết chết, bị chôn vùi, bị quét sạch,
bị tuyệt diệt, thì sự bình yên này, cuộc sống này cảnh trời êm biển lặng
này là cả một nghịch lý quái gở.
Chính nghĩa đã thắng, lòng nhân đã thắng nhưng cái ác, sự chết chóc và bạo lực phi nhân cũng đã thắng.
Cứ nhìn mà xem, cứ ngẫm nghĩ mà xem sự thực là như thế đấy. Những tổn
thất, những mất mát có thể bù đắp, các vết thương sẽ lành đau khổ sẽ hóa
thạch nhưng nỗi buồn về cuộc chiến tranh thì sẽ càng ngày càng thấm
thía hơn, sẽ không bao giờ nguôi.
Chính là từ chuyến đi tảo mộ năm
ấy, trên con đường hành hương xuyên giữa rừng rậm chằng chịt những sự
tích bị lãng quên, qua hồ Cá Sấu với Hòa, qua Truông Gọi Hồn với anh em
trong trung đội trinh sát mà Kiên đã bắt đầu quá trình lâu dài cảm nhận
lại chiến tranh dưới làn ánh sáng chậm rãi của nỗi buồn.
Từng bước
một, từng bước một, từng ngày, từng sự kiện được tái hiện trong lòng
anh một cách trầm tĩnh và u buồn. Ánh sáng của nỗi buồn soi về quá khứ,
ấy cũng là ánh sáng thức tỉnh, ánh sáng cứu rỗi của đời anh. Bằng sự
trầm mình sâu xa trong hồi tưởng, trong nỗi đau buồn chiến tranh không
bao giờ nguôi mà anh sẽ tồn tại đến trót đời với thiên chức là một cây
bút của những người đã hy sinh, là nhà tiên tri những năm tháng đã qua
đi, người báo trước thời quá khứ.