Phần III- Hồi 4
Hồi 4: Cuồng phong giông tố
Tư Mã Khôi tự biết mạng sống của mọi người giờ đây mong manh tựa ngàn cân treo sợi tóc, nên cũng không dám giải thích dài dòng, chỉ cầm một trái trứng mãng xà đặt xuống phía trước, lần lượt huơ huơ trước mũi hội La Đại Hải, Tuyệt, Ngọc Phi Yến. Trong giây lát, mọi người đều ngửi thấy một luồng khí thanh thoát thơm nồng quyện vào tận tim phổi, không thể tả hết cảm giác dễ chịu thoải mái, ai nấy không nhịn nổi càng kỳ lạ thắc mắc: “Trứng mãng xà Miến Điện sao lại có mùi thơm kỳ diệu đến thế nhỉ?”
Chẳng kịp đợi mọi người hiểu rõ, Tư Mã Khôi liền đập vỡ từng quả, đùn thành một đống nhầy nhụa trên mặt đất. Một mùi hương kỳ lạ, đậm đặc lập tức lan tỏa khắp không gian, khiến ai nấy không cưỡng nổi, định bò xuống đất liếm đám lòng trứng. May mà nhận thức của Tư Mã Khôi còn vô cùng tỉnh táo, anh là người đã được luyện khí công, khả năng định thần hơn hẳn người khác. Anh đứng bên ngăn cản hành vi của mọi người, không để bọn họ tiếp cận đám trứng vỡ.
Khoảng nửa phút sau, mọi người đều cảm thấy có một vật lạ ngọ ngoạy nhúc nhích trong cổ họng, buồn buồn ngứa ngứa không thể chịu nổi, gã Gấu trắng người Nga và Thảo Thượng Phi khô quắt, vàng vọt như cương thi là hai kẻ không chịu nổi trước tiên, bọn họ cùng lúc “ọe” lên một tiếng, mỗi người đều nôn ra một con đỉa ký sinh, dài gần hai mươi mấy centimet, thân thể trong suốt, vằn vện những vạch đỏ au au, to như cánh tay trẻ con, toàn thân chi chít giác hút rỏ máu ròng ròng, bọn chúng nhào xuống đám dịch lỏng dấp dính, thân đỉa cuộn lại quét một đường đã hút hết một nửa lòng trứng trên mặt đất.
Mấy người còn lại kẻ trước người sau đều nôn ra con đỉa ăn thịt người ký sinh trong cơ thể, chỉ thấy sau khi đỉa chúa hút sạch đám trứng mãng xà trên mặt đất chẳng bao lâu, thì trở nên cứng đờ, nằm im bất động, rồi hóa thành một đống máu đặc. Lúc này, mọi người lại ngửi đám vỏ trứng còn sót lại trên mặt đất, chỉ cần hơi lại gần một chút là một mùi khí tanh nồng lộng vào tận óc, ghê tởm, khó ngửi vô cùng, chẳng còn cảm giác thanh ngọt, thơm ngon như lúc trước nữa.
Mọi người sống sót sau kiếp nạn, người nào người nấy mặt trắng bệnh như giấy, thở dốc một hồi lâu, các giác quan dần dần khôi phục, càng nghĩ càng cảm thấy rùng rợn. Cả đội vốn nghĩ phen này chắc chết không còn nghi ngờ, may mà Tư Mã Khôi nhanh trí nghĩ ra cách giải quyết thần kỳ trong lúc nguy cấp, mới nhặt được mạng sống trở về, nếu chỉ chậm trễ thêm vài phút nữa, để con đỉa trong cơ thể kịp thành hình, thì e rằng bây giờ tất cả đã vạn nạn rũ áo về trời.
Lúc đầu, Tư Mã Khôi cũng không dám chắc chắn một trăm phần trăm, nhưng giờ đây nhìn kế sách cứu mạng quả đúng có thể thông hành, trong lòng cảm thấy bội phần may mắn. Anh còn muốn cứu những tên lính vũ trang Miến Điện tháo chạy khi trước, bèn kéo Karaweik chạy ngược về sau đuổi theo. Chỉ cần ven theo khe cốc tìm kiếm khoảng mấy dặm, đã phát hiện mười mấy tên lính vũ trang Miến Điện đang bị lạc đường bởi hơi thở của rừng sâu, không những vậy, bọn họ chạy chẳng bao xa, cũng moi ra mấy quả trứng mãng xà trong huyệt đá, hốc cây gần đó. Sau khi nuốt chửng vào bụng, đỉa chúa trong cơ thể càng lớn nhanh gấp bội, chẳng bao lâu đã rít hết não tủy và tinh huyết quanh người.
Tư Mã Khôi nhìn thấy cảnh chết của mấy tên Miến Điện, thực sự cảm thấy trấn động kinh tâm, núi Dã Nhân hiểm nguy mai phục tứ bề, tuy rằng bản thân đã thoát khỏi kiếp nạn này, nhưng không biết có bao nhiêu hung hiểm đang chờ đợi ở phía trước. Anh lo lỡ lạc mất mấy kẻ sống sót trong đội thám hiểm, chẳng thể bận tâm đến mấy xác chết ấy thêm nữa, liền vội vã quay đầu trở lại tìm hội Tuyệt và La Đại Hải, đồng thời thuật lại tóm tắt kết quả của đám lính Miến Điện cho Ngọc Phi Yến nghe.
Ngọc Phi Yến liệu định trước, sau khi mấy người Miến Điện kia bị trúng ngải đỉa, chắc chắn không thể sống mà chạy thoát khỏi núi Dã Nhân, nên chẳng hề ngạc nhiên trước kết cục này. Có điều cô ả lại đặc biệt trăn trở trước sự thành bại, đồng thời tự đánh giá mình rất cao, không bao giờ chịu gục ngã, giờ đây đã chấp nhận phi vụ mạo hiểm này, thì cho dù có gặp sóng gió nguy hiểm lớn hơn nữa cũng vẫn vọng đồ tiếp tục dấn thân vào sâu trong khe cốc khổng lồ của núi Dã Nhân.
Ngọc Phi Yến vẫn nhớ, khi nhìn thấy bức màn sương mù mỏng tang ở nơi sâu trong sơn cốc, cũng chính là khi có thể bắt gặp di hài voi rừng bất cứ lúc nào, chỉ cần đi theo dấu tích ấy mà tìm “huyệt động ma mút” sẽ đồng nghĩa với việc tiếp cận khu vực nơi chiếc máy bay vận tải không quân Anh bị mất tích. Giờ đây đã giải trừ được hiểm họa đỉa Campuchia ăn thịt người, thì làm gì có chuyện cô ả chịu đứt gánh giữa đường.
Có điều, tuy rằng thuộc hạ Thảo Thượng Phi của Ngọc Phi Yến đã bảo toàn được tính mạng nhưng lại trở thành phế nhân, đội thám hiểm trước mắt ngoại trừ thủ lĩnh là cô ả ra thì chỉ còn lại một mình gã Gấu trắng người Nga kia mà thôi, nhưng tay ngoại quốc này lạnh lùng tàn nhẫn, trở mặt thất thường, không đáng tin cậy chút nào. Ngọc Phi Yến đã chứng kiến bản lĩnh của Tư Mã Khôi, cảm thấy con người này quả thực tuyệt luân vô song, nhiều điểm hơn người, nếu có thể biến anh ta thành người của mình, thì “hàng” trong chiếc tiêm kích vận tải kia coi như đã nằm trong tầm tay, nghĩ đến đây, cô ả liền quay sang ngọt nhạt với Tư Mã Khôi: “Ơn cứu mạng, tôi không dám nói bằng lời…”
Chưa nghe xong, Tư Mã Khôi đã vội vàng từ chối: “Tàu hỏa có chạy nhanh cũng là do đầu tàu kéo. Cô là thủ lĩnh của chúng tôi, tôi cứu cô là lẽ đương nhiên, không cần phải cám ơn. Cho dù cô tình nguyện mang thân ra đáp đền, tôi đây cũng chẳng dám nhận”.
Ngọc Phi Yến đang định mở lời, thì bị Tư Mã Khôi chặn họng làm cho ê mặt, cô ả không nén được cảm giác vừa thẹn vừa giận, liền nạt nộ: “Anh muốn chết thế nào?”. Nhưng chuyển ý niệm nghĩ lại: “Gã này đối xử với ai mà chẳng ngang ngược, vô lại như thế, bây giờ là lúc mình đang cần dùng người gấp, thôi thì cứ tạm thời nén giận mà bỏ qua cho hắn”. Thế là cô ả cố gắng áp chế lửa giận, nhỏ giọng nói: “Anh đã coi tôi là thủ lĩnh, vậy hẹn ước ban đầu của chúng ta, anh còn giữ lời hay không?”
Tư Mã Khôi nghe mấy lời này, thì biết Ngọc Phi Yến chưa chịu nhụt chí từ bỏ, mà vẫn muốn tìm tông tích của chiếc máy bay tiêm kích, trong lòng thầm nghĩ: “Tôi cứ tưởng mình chính là một kẻ liều mạng, ai ngờ cô còn bất cần mạng hơn cả tôi. Phi vụ này hung hiểm quá lớn, chi bằng nhân lúc sớm nhận ra tử khí u ám, mình nhanh chóng xù nợ cho xong”. Nhưng Tư Mã Khôi lại nghĩ đến hoàn cảnh trước mắt, quả thực chẳng còn đường lui mà thoát thân, do tình thế thúc ép, cũng đành chui vào đường chết, chỉ hi vọng Ngọc Phi Yến có thể mang theo Karaweik rời khỏi biên giới Miến Điện. Nếu được như vậy, thì bất luận đối phương tiến hay lùi, anh cũng cam tâm tình nguyện dùng tính mạng đền đáp, có điều anh vẫn có ý muốn bàn bạc kỹ lại với hội La Đại Hải rồi mới quyết định.
Tư Mã Khôi dứt lời, liền đi xem tình hình phía La Đại Hải và Tuyệt, hai người bọn họ cũng giống anh, đều chẳng gặp trở ngại gì lớn lắm, chỉ là mất chút máu, cảm thấy tinh thần kiệt quệ, trên người dường như không còn sức lực.
La Đại Hải nhìn thấy Tư Mã Khôi đi đến, thì than thở: “Hôm qua tớ còn hoài niệm mãi về món trứng xào cà chua ở khách sạn Lục Quốc chỗ mình, nhưng bây giờ nghĩ đã thấy tởm, chắc suốt quãng đời còn lại, tớ chẳng dám động đến cái món đó nữa”.
Tư Mã Khôi cũng xoa đầu an ủi bạn: “Thực ra tớ thấy món trứng cũng chẳng có gì ngon bổ mấy, chẳng qua nó chỉ là vật bị gà mẹ xảy thai tọt ra mà thôi, từ trước đến nay tớ chả bao giờ thèm động động đũa”.
Lúc này, Tuyệt vẫn chưa hồi tâm định thần nổi, cô run giọng nói: phen này may mà có Tư Mã Khôi, tôi còn nhớ trong một cuốn sách y học có nói: ‘Ăn lông uống máu vốn là phong tục của người thượng cổ. Giờ đây, người hiện đại chúng ta đã quen với việc ăn chín uống sôi, nếu không trong bụng tất sẽ nảy sinh giun sán, nhẹ thì tổn hao huyết khí, nặng thì mất cả tính mạng’. Hai năm trước, khi tôi theo nhóm đặc vụ hành nghề ở Mandalay, từng chữa trị cho một thiếu niên mười mấy tuổi người bản địa. Thiếu niên đó thân hình gầy như que củi, chỉ có hộp sọ và bụng là phình to khác thường. Khi cậu bé bước đến trước mặt tôi thì đột nhiên đi hơi gấp một chút, rồi đầu cậu bé tự dưng từ cổ lăn lông lốc xuống đất, điều kỳ lạ là chẳng hề thấy máu chảy ra. Tôi lại gần kiểm tra thi thể, mới phát hiện trong cổ họng cậu bé bò lổm ngổm cơ man nào là đỉa, phần bụng và sọ não còn nhiều hơn. Lúc đó tôi vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra, sau đó dò hỏi mọi người xung quanh mới hay, thì ra cậu bé thường ăn ốc vớt được dưới sông, nhưng do nấu không kỹ, cho nên đỉa ký sinh trong con ốc đều chui vào cơ thể cậu bé. Hoặc giả lúc đầu liều mạng mà cho cậu bé uống chút thuốc độc vừa phải, may ra còn có thể cứu chữa, nhưng chỉ cần đỉa chui vào não hoặc thành hình trong bụng, thì cho dù ngay cả Hoa Đà có tái thế sống lại, cũng đành bó tay.
Tư Mã Khôi không đề cập đến việc mình sử dụng huyền thuật “tướng vật” của tổ tiên truyền lại, chỉ nói tôi đây chẳng qua là hạng gà mờ, tay chiêu, những loại tà thuật cài đặt khắp nơi ở Thái, Lào, Campuchia v.v… tuy rằng đồn đại nghe có vẻ vô cùng quái dị, kinh khủng nhưng chỉ cần lật tẩy căn nguyên, tìm được cách khắc chế đối ứng, thì trong đó chẳng còn gì đáng gọi là bí mật nữa.
Tuyệt nghe xong, vẫn thán phục không ngớt, cô hiểu tập tính ký sinh của loài đỉa hút máu, nên nói với Tư Mã Khôi, những người từng bị đỉa chúa ký sinh trong cơ thể, khí huyết suy tổn nặng nề, nhưng cũng chính vì vậy, chỉ cần trục xuất con đỉa Campuchia ăn thịt người đang ký sinh ra ngoài, thì nội trong mấy ngày gần đây, không cần lo sợ trong bụng lại nở ra đỉa, giờ đây những vũng tù trong rừng rậm không còn uy hiếp chúng ta được nữa, nhưng cơn bão nhiệt đới Buddha có thể ập đến bất cứ lúc nào, nếu còn chần chừ ở lại trong núi, thì sớm muộn cũng bị nước lũ nuốt chửng, tiếp sau đây nên đi đâu về đâu, phải mau chóng quyết định mới được.
Tư Mã Khôi gật đầu nói, tiêu trừ được đỉa Campuchia ăn thịt người chẳng qua là tạm thời khắc chế một trong số vô vàn hung hiểm tiềm ẩn ở núi Dã Nhân. Chỉ riêng hiểm họa này cũng đủ khiến hơn tám mươi phần trăm thành viên của đội thám hiểm phải bỏ mạng, nếu tiếp tục truy lùng tông tích chiếc máy bay không quân Anh dưới vực sâu khổng lồ, e rằng sẽ còn phải trả giá đắt hơn, nhưng hiện nay thời tiết chuyển biến ác nghiệt, môi trường cũng càng ngày càng trở nên phức tạp, cho dù có quay về theo đường cũ thì cũng không chắc an toàn thoát thân, chỉ còn cách chặt đứt đường lui, quyết tâm tiến lên phía trước, liều mạng sống chết một phen, may ra mới có cơ hội thành công.
La Đại Hải cũng nói: “Mấy năm ở Miến Điện, chỉ dặt làm mấy việc thất đức đốt nhà, giết người, chưa từng chính thức giúp đỡ bất cứ ai, bây giờ gặp cơ hội hiếm có, ông Hải đây đương nhiên chẳng còn lời nào phải bàn thêm”.
Sau khi ba người đã quyết định đâu vào đấy, Tư Mã Khôi liền đi đến nói với Ngọc Phi Yến: “Bốn người bọn tôi đều là những kẻ một thân một mình, chẳng có ai phiền lụy, níu kéo, thôi thì cứ theo cô đi một hơi đến tối cho xong”.
Ngọc Phi Yến liền cất lời cảm tạ: “Cám ơn các vị không chê cười và cũng cảm ơn tấm thịnh tình sâu sắc của quý vị. Chỉ có điều hi vọng các vị quân tử nhất ngôn, về sau không được thay đổi, trở mặt. Từ giờ phút này, chúng ta là những kẻ cùng hội cùng thuyền, hoạn nạn có nhau”. Cô ả thấy con đường phía trước ngập tràn chông gai, hung hiểm, nên không dám lơ là, đoạn lệnh cho mọi người mau chóng chỉnh đốn hành lý còn sót lại. Khi đi vào núi, đội thám hiểm mang theo lượng lớn trang thiết bị, nhưng trong lúc hỗn loạn, tan rã đã thất lạc không ít, điện đài cũng bị bình phun lửa thiêu hỏng. Giờ đây chỉnh đốn hành lý, thì chẳng còn mấy chân khuôn vác người Miến Điện, nên mọi người đành cố gắng mang càng nhẹ càng tốt, những gì có thể bỏ lại đều đem vứt hết.
Gã Gấu trắng người Nga tự chất lên vai một túi to, nhét đầy “dây dẫn nổ, ngòi nổ, thuốc nổ, khoan hơi”, Tư Mã Khôi cảm thấy dưới lòng đất trong khe cốc sâu có sương khí che chắn tầm nhìn, những thiết bị chiếu sáng là vật không thể thiếu, nên nhặt thêm mấy cái đèn Halogen, đèn pin tụ quang, pin đèn, pháo tín hiệu, pháo sáng v.v… nhét vào túi, những người còn lại đều chỉ mang những loại vũ khí cần thiết và lương khô dạng bánh.
Ngọc Phi Yến bảo La Đại Hải mang nốt chiếc bình phun lửa còn lại để đề phòng bất trắc. Nhưng La Đại Hải một mực không chịu, nói là các ông đây “lúc đánh Lashio, khi xuống Lalaung, đột phá vòng vây ở Ayeyarwady, tắm máu Mandalay”, có trận đánh lớn nào chưa từng gặp qua? Trong rừng sâu tuy đầy hung hiểm nhưng chỉ cần dựa vào bản lĩnh chính mình và dao súng trong tay, cũng đủ để đối phó với chúng, chứ cần gì đến bình phun lửa. Hơn nữa, nếu lỡ ra món đồ chơi ấy mà phát nổ, thì Hải ngọng tôi chẳng phải số xui tận mạng hay sao? Cô cứ nhìn mấy vị bị nó thiêu sống thành tro lúc nãy mà xem, đến hình hài cũng chẳng còn, e rằng xuống tới âm tào địa phủ, ngay cả Diêm Vương cũng chẳng thể nhận ra họ là ai. Nếu cô còn cứ khăng khăng bắt tôi vác nó, thì chẳng thà cứ cho đạn lên nòng “pằng” một cái là xong, bắn vài phát cùng lắm trên người cũng chỉ mọc thêm vài cái lỗ, chết như vậy tôi còn thấy nhanh gọn hơn nhiều. Ngọc Phi Yến không ngờ lại bị đáp trả lắm điều như thế, đành phải gạt bỏ ý niệm ấy đi.
Lúc này Thảo Thượng Phi nằm trên mặt đất đã khôi phục lại một chút thần trí, sau khi hỏi rõ tình hình, gã biết nếu bị bỏ rơi một mình ở nơi rừng sâu núi thẳm này thì khó mà tránh khỏi cái chết, gã lật bật cầu xin van nài thủ lĩnh, gắng sức vắt ra vài chữ từ kẽ hai hàm răng: “Cầu xin thủ lĩnh, xin người mở lòng từ bi, cho tôi bảo toàn cái mạng già này…”
Tuyệt không nỡ bỏ rơi Thảo Thượng Phi lại, mặc kệ gã tự sinh tự diệt, không đợi Ngọc Phi Yến đưa ra quyết định, cô đã tự mình dùng dao cắt hai đoạn dây rừng, tận dụng áo mưa và dây thừng, chế thành chiếc cáng tạm thời. Cô cùng Karaweik, hai người khiêng hai đầu cáng nhấc bổng Thảo Thượng Phi lên, xong xuôi mọi việc mới chịu khởi hành.
Mọi người tiếp tục tiến về con đường ngoằn nghoèo tựa mê cung ở phía trước sơn cốc, từ xưa đến nay, không biết bao nhiêu con voi rừng Miến Điện từng đặt dấu chân qua nơi này để bước vào huyệt động vùi xương của tổ tiên, trong đó có nhiều con vì năm dài sức yếu, hoặc bị hại trong rừng nên đã gục ngã giữa đường, những hóa thạch xương cốt còn sót lại chính là những tấm biển chỉ đường liên tục cho đội thám hiểm lần mò đến vị trí động huyệt ma mút.
Hội Tư Mã Khôi lần theo dấu vết của di hài voi rừng, đi khá sâu vào trong sơn cốc, đột nhiên từng cơn gió núi âm u lạnh buốt thổi đến. Ngọc Phi Yến tự lẩm bẩm trong miệng: “Bão nhiệt đới đến rồi…”, chỉ thấy màn sương mờ trong khe núi vén ra một nửa, tầm nhìn trở nên khoáng đạt hơn nhiều, mọi người dừng bước thăm dò tứ phía, nom trong lòng núi có rất nhiều huyệt động liên thông với nhau, trong động chất chồng cơ man nào là xương voi, chúng đè lên nhau tầng tầng lớp lớp, đống xương voi đó đã tích tụ bao đời, cao ngất ngưởng như những ngọn đồi gò, xương và ngà đan cài, xen lấn.
Nơi sâu nhất trong động huyệt ẩn chứa cửa đá, địa đạo, mặt đá được mài nhẵn nhụi, bằng phẳng như loại đá Đại Lí, gần như tất cả mọi nơi đều trang trí bằng những bức phù điêu, từ những vết tích dây leo và rễ cây xâm thực vào khe nứt của bức tường, có thể thấy nó đã có từ hàng ngàn năm trước, nhưng không rõ vì nguyên do gì mà tất cả những bức phù điêu đó đều bị phá hủy hoàn toàn, chẳng hề lưu lại chút thông tin nào cho hậu thế đọc hiểu. Những bộ phận bị cố ý phá hại, hủy hoại dường như là một bức bình phong dày dạn chắc chắn, gạt không đi, chùi không sạch, ngầm che giấu những “bí mật” vô cùng vô tận của núi Dã Nhân.
Con đường địa đạo ăn thông ra ngoài núi, tận cùng là một cánh cửa bằng đá đã bị sụp mất một nửa, phía ngoài mọc đầy cây cối um tùm, những cây cổ thụ không hoa không trái cao to lừng lững một vòng tay ôm không xuể, tán lá rủ xuống đất, tứ phía sương khí quánh đặc bay là là, khiến tầm nhìn bị hạn chế nội trong vòng mười bước. Đứng giữa mê cung thiên nhiên này, bạn dễ nảy sinh cảm giác không biết mình đang ở chốn nào. Nghe tiếng sấm rền nổ ì ùng giao hòa lẫn nhau, thì biết cơn bão nhiệt đới Buddha đã bắt đầu những đợt tấn công đầu tiên. Màn sương mù dày đặc bao trùm khắp núi Dã Nhân cũng bị cơn cuồng phong thổi cho tan tác, không gian xung quanh liền chìm vào màn đêm đen thui như ngày tận cùng của thế giới. Tuy những rặng núi nhấp nhô cuối cùng cũng phải tạm thời trút bỏ tấm mạng trắng huyền bí ra khỏi gương mặt nhưng thay vào đó lại bị mảnh vải đen dày bì nặng nề che phủ kín mít.
Mọi người đành phải giơ tay ra sờ sệt trong bóng tối, dò dẫm từng bước lên chỗ cao hơn, đúng lúc đợi lên chỗ cao để nhìn xuống xác định vị trí khe cốc khổng lồ trong núi Dã Nhân, chẳng ngờ vừa định với tay lên sườn núi, thì đột nhiên “xoẹt” một dải trắng sáng như băng tuyết, một lằn chớp ngoằn nghoèo như rắn lượn vụt lóe lên phía đường chân trời.
Mọi người đều bị giật mình bởi tia sét, bất giác ngẩng đầu nhìn lên, không ngờ lại thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải bay rè rè ngay sát khoảng không trên đỉnh đầu, khoang máy tối hù hù, không một tia sáng, động cơ ở cánh máy bay đã ngừng hoạt động, cả chiếc máy bay giống như một “chiếc bóng đen” im hơi tịnh tiếng. Trong cơn cuồng phong vần vũ dưới tầng mây đen, chiếc máy bay điềm nhiên bay lượn với độ cao rất thấp đến mức không thể thấp hơn được nữa.
Đây quả thực là cảnh tượng ngoài sức tưởng tượng, dưới điều kiện thời tiết khắc nghiệt như vậy, tuyệt đối không thể có tay phi công nào đủ gan dạ lái máy bay phi hành qua khu vực này, ngoài ra chiếc phi cơ từ trong ra ngoài chẳng hề có ánh sáng, ngay cả tiếng quay của động cơ cũng hoàn toàn ngưng bặt, tất cả đều đen thui, im lìm như thể bên trong khoang chẳng hề có người sống.
Chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi như điện giật, trong ánh sáng chói lòa, trắng bệnh của những đường chớp, mọi người thấp thoáng nhìn thấy biểu tượng rắn đen trên thân máy bay. Sấm chớp trườn qua vòm trời cũng chỉ trong thời gian nháy mắt, nên cho dù muốn phân biệt rõ ràng hơn chút nữa, thì xung quanh lại một lần nữa chìm vào màn đêm đen như mực. Chiếc bóng máy bay ma quỷ giống như oan hồn kia cũng vụt biến mất vào bóng tối mênh mông.
Mọi người quá bàng hoàng trước những gì vừa nhìn thấy, ai nấy kinh ngạc đến mức miệng không khép lại được, nửa phút sau mới có thể định thần trở lại, chẳng ai hẹn ai mà người người nào người ấy đều giơ tay dụi mắt, còn cho rằng lúc trước chắc mình bị hoa mắt. Chiếc máy bay tiêm kích vận tải vừa lượn vèo qua đầu khi nãy, trên thân có khắc biểu tượng con rắn đen với hình thù quái dị, rõ ràng nó hoàn toàn trùng khớp với chiếc máy bay trong ảnh. Nếu phán đoán theo lẽ thường, thì chiếc tiêm kích vận tải rắn đen của không quân Hoàng gia Anh áng chừng đã mất tích ở núi Dã Nhân vào năm 1948, cách biệt một khoảng thời gian hai mươi mấy năm, làm sao nó có thể tiếp tục bay lượn giữa không trung trong khu vực núi cho đến tận hôm nay?
Khu vực lân cận phần đa đều là những vùng “sơn địa thấp” nhấp nhô, bị rừng rậm che phủ, theo độ cao phi hành khi nãy của chiếc máy bay, thì có lẽ nó phải bị va quệt vào những đỉnh núi, sau đó rơi xuống rừng rậm mới đúng, nhưng nhìn chăm chú một hồi lâu, phía trước vẫn chỉ là màn đêm u tịch, chẳng thấy xuất hiện âm thanh vang trời và ánh lửa ngùn ngụt bốc cháy do chiếc máy bay rơi phát nổ, nó như thể chưa từng thực sự tồn tại, trong bóng tối chỉ nghe thấy tiếng sấm kinh thiên động địa, rền vang khắp núi Dã Nhân.