Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông - Chương 06 (phần 1)
Chữ bay
1.
Hôm đó, chúng tôi vào nhà sách và Linh đã bất ngờ tru lên những hơi dài, khiến cho đám nhân viên bản vệ đến tóm cổ nó quăng ra ngoài như quăng một con nhái bén, mặc dù tôi hết lời cố giải thích rằng: Linh không phải là người điên.
Nằm dưới gốc cây trứng cá với vài vệt xước ở khuỷu tay, nó vẫn thất thần: “Tao thề là tao thấy chữ bay!”. “Hả? Mày điên à? Mắt mày bị gì vậy?”... “Không, tao thấy thật mà. Mày coi kìa...” - Nó chỉ tay vào trong nhà sách. Một vài người đứng quanh tò mò cũng đổ dồn mắt vào cánh cửa và dãy hành lang kính sáng bóng trùng trùng những kệ sách rồi lại nhìn nhau. Họ lắc đầu, “Tôi không thấy gì. Tôi đâu thấy gì...”. “Tất cả mọi người ở đây nào thấy gì! Bộ mọi người đui chắc? Mày làm sao vậy chứ?”. “Không. Mọi người bị gì vậy chứ? Chữ bay từng đàn. Đó, nó chao lượn qua cánh cửa. Nó bay tràn ngập không gian. Kìa!”
Lần đó, Linh vào nhà thương điên theo nguyện vọng của chính nó. “Chắc tao bị tâm thần. Tại sao tao lại thấy sự vật thế giới khác với mọi người nhỉ? Vậy là tao không bình thường rồi. Hoặc giả mọi người đều trở nên bất thường giống nhau. Dù sao, nhà thương điên cũng chỉ dành cho những kẻ cá biệt, không thuộc về đám đông, không chắc rằng hắn ta có vấn đề. Mà sao tao lại biết là tao đang không bình thường? Khi đặt câu hỏi ấy có nghĩa là tao đã xác định về sự trục trặc của mình. Một suy tư triết học đó à?” Tôi bưng đầu, bịt tai: “Thôi, mày đừng lý luận kiểu đó nữa. Tao nổ não bây giờ. Vào đó, cố tụ tập một thời gian rồi trở về lấy vợ cho nó xong. Chắc mày bị rối loạn thần kinh. Mày bỏ bớt sách vở đi được không Linh?”
Linh gật đầu và bước chầm chậm vào trong khuôn viên xanh, nơi có nhiều người mặc pijama trắng đi lại lừ đừ như những bóng ma. Rồi dường như những câu hỏi luẩn quẩn vẫn còn vòng vo trong đầu của nó, nó quay lại cười: “Mày vẫn không tin là có chữ bay hả Tự? Chữ bay thật đó. Chính tao thấy. Tao không nói dối đâu.”
Tôi nhìn nụ cười lạc thần của nó, rồi đáp: “Không. Tao không tin. Chào mày!”
Linh mặc một bộ pijama và đi lại cùng với những cái bóng trong khuôn viên xanh có mấy bờ cỏ và một số ghế đá cũ. Mày cứ về trước đi. Tao ở vài hôm tĩnh lặng rồi quay về coi mọi thử có khác hay không. Tôi hỏi với theo: “Mày liệu có bỏ được sách không? Nếu chịu không nổi thì cứ điện cho tao. Còn mấy cuốn triết bữa hôm tao mượn của mày, Hình như là Martin Heklegger?”. “Không. Tao sẽ bỏ được sách - nó dứt khoát, sự dứt khoát hiếm thấy với sách “đừng nói chuyện sách với tao. Thật hãi hùng”. Tôi nghĩ: “Nó dứt khoát với sách như thế thì cũng yên tâm rồi! Thật đáng thương!”
Tòi thấy nó bước hẫng chân qua một lối đi trống trái. Rồi từ cái ghế đá thứ ba bên vạt cỏ có vài chậu kiểng, một đám đông vài ba người mặc pijama trắng tụ tập chỉ tay lên trời như thể có kẻ trong số họ đang rao giảng về một điều gì đó cao siêu nào đó đang hiện hữu trên những vầng mây - có thể là một thứ tôn giáo mới mà cả nhóm đều nhận thức, xác tín, hướng lên, rồi tất thảy cùng chỉ tay theo. Tôi thấy Lính tẩn ngần, lướt qua vạt cỏ. Đến gần họ. Rồi vài ba con người trong nhóm ấy cũng bay theo nó.
Trong khuôn viên bệnh viện tâm thần. Những bộ pijama trắng đi không chạm đất. Họ bay. Lạ thay. Trong khi bay, họ sẽ cùng chỉ ngón tay trỏ vào bất cứ đâu họ muốn.
Ai tin thì tin.
2.
Năm đó, chúng tôi mười tám tuổi.
Tôi được đẻ ra trước nó tám tháng.
Ba tôi và mẹ nó xưa là đồng nghiệp làm chung ở thư viện huyện. đâu ngày trước hai người cũng có quen nhau, lúc định lấy nhau thì ba tôi lỡ làm cho một độc giả nữ xinh đẹp có bầu. Độc giả nữ xinh đẹp ấy chính là mẹ tôi sau này. Buồn tình, sau khi chia tay ba tôi ít lâu, cô thủ thư nhu mì, có đời sống âm thầm buồn tủi đã đi đến hành vi quan hệ tình dục trong công sở (cụ thể là dưới giá sách triết học chính trị, ở chính vị trí mà cô và người tình cũ thường cuồng nhiệt trong những giờ vắng độc giả) với một ông thanh tra văn hóa. Có lẽ cô vẫn chọn tư thế đứng khi đồng ý thực hiện hành vi tế nhị đó, dưới ánh sáng tự nhiên của buổi chiều mùa đông hiu hắt xuyên qua những lá chắn mỏng tanh của cái cửa sổ đầy mạng nhện. Và cũng phải nói rằng, về mặt tâm lý tình dục thì cô thủ thư dịu dàng chính là kẻ động tình, quyến rũ trước. Còn gã thanh tra văn hóa chỉ là một kẻ đáp ứng trong bị động, một nô lệ hiền lành trong vụ bê bối này. Ba tôi nói, cô ấy có mùi chồn hương ở dưới nách. Và trong một số bối cảnh, cái mùi ấy có thể khiến cho những thằng đàn ông chung thủy nhất với vợ cũng phải trật quần phạm tội. Mà cũng chẳng phạm tội gì. Đàn ông đàn bà và bối cảnh ái ân luôn là một chuyện tự nhiên, khó cắt nghĩa ở phạm trù đạo đức học.
Hành vi bùng phát ẩn ức ấy đã bị ba tôi bắt quả tang. Sau khi làm một tờ đơn kiểm điểm dài ba trang tường thuật lại vụ việc gởi cho giám đốc thư viện (cũng là chính ba tôi) xem xét, thì cô thủ thư sắp bước qua tuổi ham muốn và ẩn ức ấy bước vào thời đoạn chẳng mấy huy hoàng: làm mẹ - có thai, sinh ra thằng Linh.
Nhưng không được ồng thanh tra kia cưới. Đơn giản là vì đàn ông chẳng ai bỏ qua cơ hội được sung sướng khi mọi thứ dâng sẵn ngập mặt. Cái gì cúng thì cúng, cái gì ăn thì ăn, đâu ra đó; đánh đổi thực tế thì không dễ dàng chút nào. Hắn, kẻ bị động truyền giống trong vụ này đã có vợ hiền con ngoan. Hắn thề rằng, nếu vụ việc vỡ lở thì không phải chỉ hắn mất chức mà cả cuộc đời cô thủ thư cũng chẳng ra cơm cháo gì. Thế nên, sự việc luôn dừng lại ở hướng xử lý nội bộ. Dĩ nhiên là với sự mã thượng của một giám đốc, ba tôi sẽ tha thứ và coi như đây là cái cách mà ông lấy lại hình ảnh với người tình mình từng bỏ bê và phản trắc trắng trợn trong quá khứ.
Chuyện dài dỏng, éo le là thế. Nhưng nó được kể tóm tắt khoảng bốn câu. Sau ròng rã mười tám năm trời, vụ việc được tóm tắt trong bốn câu không mang một màu sắc hay gợi lên cảm giác tréo ngoe nào:
“Con với nó hãy xem nhau như anh em. Vì ba từng yêu cô ấy. Mẹ từng cướp ba từ hốc nách có mùi chồn hương của cô ấy. Và ba từng giằng cô ấy ra khỏi tay thằng cha thanh tra văn hóa phì nộn kia...”
Chỉ có thế. Thật bình thản. Từ khi li dị với mẹ, ba tôi vẫn thường sang nhà thằng Linh uống nước trà. Khi ấy tôi đang ngồi ngoài vườn nói chuyện triết học. Nó thích Jiddu Krishnamurti. Tôi thích Edgar Morin. Nó thích chiêm nghiệm và khám phá sự tĩnh lặng của nội tâm. Tôi lại thích những vấn đề thuộc về tầm nhìn thế giới, một thứ triết học phức hợp liên ngành đầy mới mẻ. Khi chúng tôi đang nói về việc xây dựng một mặt đất con người sống chung bằng tình yêu và sự tha thứ, tôn trọng những khác biệt văn hóa và nhất là biết chăm chút cho sự giàu có nội tâm của mình thì bất giác thằng Linh nói: “Mày hãy nhìn lên chùm phong linh trên nóc nhà kìa. Ông già mày và bà già tao đã làm cho chúng giãy giụa khủng khiếp bên trong! Hãy nghe, họ đang làm trò mèo với nhau. Tại sao lại như thế nhỉ? Tại sao sự ham muốn lại bùng phát ở bối cảnh này nhỉ?”. Mắt nó hoang mang. Tôi trấn an nó: “Có thể là do sức đẩy của cái... siêu tôi. Mà này, nói một cách không cần tiến triết học thì, rất có thể tình hình này mày với tao là anh em!”. “Điều đó không là quan trọng. Tao lấy làm lạ là ở tuổi đó, họ còn sung sức và rất tập trung cho những mục tiêu rất cụ thể. Còn tao với mày chỉ biết đọc sách và ngẫm ngợi, chả có mục tiêu đéo gì trong cuộc đời. Mày nghe xem, họ đang trút bỏ phạm trù nội dung của ý thức, trút bỏ cái tôi để yêu trong tánh không. Họ đang thiền một cách vô úy theo lý thuyết của Kris...” Thằng Linh nói, mắt vẫn nhìn lên chùm phong linh đang kêu ling đing, ling đing, bí mật. Tôi thấy nóng ở trong quần. Tôi nghĩ Edgar Morin có lý khi cho rằng, với cả con người đập phá siêu hình thì vấn đề hang động (dĩ nhiên, hang động ở đây nên hiểu trong viễn tượng Platon) vẫn còn dó.
Tôi và thằng Lĩnh đánh trần, nằm ôm nhau ngủ dưới gốc cây trứng cá. Thi thoảng, bàn tay những ngón lùn của hắn vuốt trên da lưng nhẫy mồ hôi của tôi. Tôi vẫn khéo lo gỡ bàn tay của nó bỏ xuống chim của mình. Và nó cứ để yên ở đó. Chúng tôi chẳng biết làm gì với sự xao xuyến và chút thèm muốn len đi trong cơ thể. Cổ họng tôi nóng bỏng, lắng tai nghe buổi chiều trôi qua như một giấc mơ. Một giấc mơ chung của hai đứa con trai mười tám tuổi không nghề ngỗng sự nghiệp gì ở một thị trấn được bao bọc bởi bốn bề là núi. Thì lạ gì những giấc mơ không hình hài. Chúng để lại trong trí nhớ những cảm giác mơ hồ hiu hắt khó định danh.
Chúng tôi đã gần gũi với nhau như có một sự định đoạt nào đó. Trong giai đoạn mà thực tế tình cảm giữa ba tôi và mẹ nó đang diễn ra rất phức tạp.
Mẹ tôi vài lần trở về nhà và thấy trên tường treo một bức ảnh thời con gái của cô thủ thư xinh đẹp, bà đã lẳng lặng rót nước lạnh uống mấy ngụm, xong tự tạt chỗ nước còn lại trong ly vào giữa mặt mình. Và tôi đồ rằng trong đám nước bám đầy da mặt bự phấn son của bà, đã không có giọt nước mắt nào hòa lẫn. Tất cả đã muộn rồi. Mẹ tôi đã đâm đơn ly dị trước và tôi đau đớn biết chừng nào khi nghĩ rằng, bà không còn chung thủy với cha con tôi nữa.
Nhưng phạm trù chung thủy thật mơ hồ. Đó là điều mà hầu hết các học giả đều chấp nhận đời sống khổ hạnh, có thể phung phí trong trải nghiệm tình dục nhưng keo kiệt trong việc đi đến hôn nhân. Họ thật sáng suốt khi chọn lựa chung thủy với chữ nghĩa học thuật chứ không chọn chung thủy với người khác giới, cụ thể là đàn bà. Ba tôi không phải là một người sáng suốt. Mẹ tôi đã có một mục tiêu thực dụng nào đó. Đồng lương giám đốc thư viện mười chín năm nay của ba tôi vẫn thế. Luôn ở mức rón rén với thời giá dù nền kinh tế đang lạm phát hay dễ thở, đóng cửa kín bưng hay mở cửa toanh hoanh tới cỡ nào. Ba tôi vẫn co người về phía trước, đạp xe từ nhà vượt mấy con dốc đến công sở. Mười chín năm với thứ nhịp chậm đều, nhịp chuẩn tempo giusto trên khuông nhạc bát nháo thanh âm những động cơ, những phương tiện di chuyển đã lên đời bóng loáng. Mặc. Dường như ông không thèm nghe, không thèm nói, không thèm thấy xung quanh. Con đường từ nhà tôi đến thư viện ngày trước ếch nhái kêu oăng oẳng nay đã phong tỏa bởi những tòa cao tầng, phố mới, trụ sở tập đoàn. Ông giám đốc thư viện vẫn chẳng hề hấn bận tâm. Trong khi đó, những dãy xanh dãy đỏ trên thị trường chứng khoán đã biến mẹ tôi thành một người lao vào cuộc sống ảo. Nơi vận mệnh, túi tiền của chính mình không được quyết định bởi mình mà bởi những nhà chính trị, thương gia, những tay tư bản bên kia bán cầu. Mẹ tôi nhìn cái cảnh các sàn chứng khoán phố Wall bên Mỹ người ta gào thét ôm nhau hay vò đầu bứt tai trên bàn tin tài chính thời sự với một trái tim phập phồng đầy cảm hứng. Còn ba tôi thì cười khẩy vô cảm: “Sao thiên hạ điên quá? Rồi họ sẽ chết sặc vì màu cua những con số sao?”
Ba và mẹ tôi đã không gặp nhau trên một hệ thời gian.
Suốt mười tám năm trời, ba tôi nuôi bảy con vẹt. Và bảy con vẹt rốt cục đều giống nhau ở một điểm: chúng để lại một tiếng kêu thất thanh: “An! An...” - tên của mẹ thằng Linh trước khi bị vặt lông bởi bàn tay móng nhọn Hoạn Thư của mẹ tôi. Nghĩa là khi chúng đã biết há những chiếc mỏ đỏ kêu gào tên người đàn bà ấy, thì mẹ tôi trở thành kẻ phản Phật sát sinh. Tôi và ba đã bảy lần nâng niu xác chim ngồi nhìn nhau khóc nhưng rồi đâu lại vào đó. Và sau cái chết của con vẹt thứ bảy thì ba nói với tôi: “Không nhất thiết phải nuôi chim. Tiếng nói giấu trong nội tâm là tiếng nói chẳng bao giờ bị giết chết được. Nó vượt lên trẽn sự dã man của sức mạnh cơ bắp và hận thù!”. Ba tôi trầm ngâm, nhắm mắt, hít một hơi thở dài. Khuôn mặt tĩnh như một đạo sư vừa truyền trao bí kíp gì đó cho kẻ đồ đệ ngu muội nhưng được cái nhiệt tình. Và tôi hiểu rằng, trong trái tim ba tôi vẫn còn những tiếng kêu tên “An! An…’’ của con vẹt thứ bảy.
Sau mỗi con vẹt bị giết, tôi vẫn phải giải thích với mẹ rằng, loài chim vô tri, chẳng biết hận thù nơi người, cũng chẳng biết sự ghen tuông của chúng ta. Sao mẹ không nghĩ rằng đang kêu lên “Ăn! Ăn…”. Sao mẹ lại giết nó? Mẹ tôi xù lên như một con gấu rừng già nhiệt đới: “Cha con nhà mày coi tao chẳng ra gì. Chuyện kệch cỡm lố bịch trước mắt như thế mà mày còn bênh ổng. Mày có thấy mẹ khổ không Tự? Mười mấy năm nay, ông cứ sống trên mây. Ngày thì ở thư viện với bà An. Tối về lại dạy con chim gọi tên người ta như vầy... Con đờn bà nào chịu được! Tao biết cả vị trí dưới cái kệ sách nào họ chùng lén vụng trộm với nhau nữa là. Mày cứ lớn lên đi rồi hiểu nỗi lòng của mẹ. À, mà thôi, mày cũng là đàn ông con ơi. Đàn ông bọn mày đều chẳng bao giờ chịu hiểu một cái gì ngoài cái thói hở đâu rậm rật đó...”