Đời ảo - Chương 22 - 23
22
Hắn chớp mắt và tiếp tục trân trối. Có phải hắn đã thấy tôi cài đặt thiết bị đó không? Và rồi một ý nghĩ khác cũng phát ốm như thế nắm lấy tôi: có phải hắn đã để ý thấy tên của Nora trên cửa? Chẳng lẽ hắn lại không tự hỏi tại sao một gã đàn ông lại ở trong phòng làm việc của phụ nữ mà lật giở hồ sơ?
Tôi liếc lên bảng tên trên cánh cửa mở ngay phía sau tên bảo vệ. Nó ghi N. SOMMERS. N. SOMMERS có thể là bất cứ ai, nam cũng như nữ. Nhưng biết đâu đấy, có khi hắn đã đi tuần qua những hành lang này mòn ra rồi, và hắn với Nora là chỗ quen biết cũ.
Tên bảo vệ vẫn đứng ở cửa, chặn lối ra. Giờ thì tôi biết làm cái quái gì đây? Tôi có thể thử bỏ chạy, nhưng đầu tiên tôi phải vượt được qua hắn đã, cũng có nghĩa là tôi phải bổ nhào vào và vật hắn xuống sàn, gạt hắn ra khỏi đường. Hắn to lớn nhưng đã già, chắc không còn nhanh nhẹn; có lẽ tôi sẽ làm được. Vậy thì chúng ta đang nói gì đây, tấn công và hành hung? Với một lão già? Chúa ơi.
Tôi nghĩ thật nhanh. Tôi có nên nói mình là người mới không? Cả loạt giải thích lướt qua đầu: Tôi là trợ lý mới của Nora Sommers. Tôi báo cáo trực tiếp lên mụ - xem nào, tôi đang - làm muộn theo chỉ thị của mụ. Gã này thì biết gì chứ? Hắn chỉ là một tên bảo vệ đáng nguyền rủa mà thôi.
Hắn bước vài bước vào văn phòng và lắc đầu. “Trời, thế mà tôi nghĩ mình cái gì cũng đã thấy rồi chứ.”
“Nghe này, chúng tôi có một dự án lớn hết hạn vào sáng mai...” tôi lên tiếng, ra vẻ bị xúc phạm.
“Anh có một chiếc Bullitt. Đúng là Bullitt thật.”
Rồi tôi thấy cái hắn đang nhìn và bước tới gần. Đó là một tấm ảnh màu lớn trong khung bạc treo trên tường. Bức ảnh chụp chiếc xe cơ bắp cổ điển được phục chế rất đẹp. Hắn hướng tới nó với vẻ mê mẩn, như thể hắn đang đi về phía Chiếc Rương Thánh Tích. “Khỉ thật, chà, đây đúng là một con Mustang GT ba chín mươi ra năm 1968.” Hắn thở như thể vừa được thấy dung nhan Chúa.
Adrenaline tan đi và từ các lỗ chân lông thoát ra sự nhẹ nhõm. Lạy Chúa.
“Đúng rồi,” tôi tự hào nói. “Rất tốt.”
“Trời, nhìn xem chiếc ‘Stang này. Con ngựa hoang này là một chiếc GT xuất xưởng?”
Tôi thì biết cái quái gì được? Tôi còn không phân biệt nổi Mustang với Dodge Dart nữa. Với tôi mà nói thì đó hẳn có thể là ảnh của một chiếc AMC Gremlin. “Chắc chắn rồi.”
“Ngoài kia nhiều đồ giả lắm, anh biết đấy. Anh đã bao giờ kiểm tra dưới đệm ghế sau chưa, xem nó có tấm kim loại phụ không, đồ bổ sung cho ống xả đôi ấy?”
“À, rồi,” tôi ung dung nói. Tôi đứng dậy và chìa tay ra. “Nick Sommers.”
Hắn bắt tay hờ hững, bàn tay to bè bao lấy tay tôi. “Luther Stafford,” hắn nói. “Trước đây tôi chưa bao giờ thấy anh quanh đây.”
“Ờ, tôi chẳng bao giờ ở đây buổi đêm cả. Cái dự án chết tiệt này - luôn luôn là ‘Chúng tôi cần nó trước chín giờ sáng, gấp lắm đấy’, cứ nhanh lên và đợi đi.” Tôi cố tỏ ra tự nhiên. “Thật vui là tôi không phải người duy nhất làm khuya.”
Nhưng hắn không chịu thôi chuyện cái xe. “Chà, tôi không nghĩ mình từng thấy một chiếc mui dốc thẳng về phía sau ở Highland Green. Ý tôi là trừ phi thấy trong phim. Nó trông giống hệt cái mà diễn viên Steve McQueen đã sử dụng để đuổi theo chiếc Dodge Charger màu đen hắc ám ra khỏi đường và phi vào trạm xăng. Mâm xe văng khắp nơi.” Hắn cười lặng lẽ, vui vẻ, khàn khàn kiểu như vừa uống whiskey vừa hút thuốc. “Bullitt. Phim tôi thích nhất. Tôi hẳn phải xem nó cả nghìn lần rồi.”
“Ờ,” tôi nói. “Tôi cũng vậy.”
Hắn tiến gần hơn. Bất chợt tôi nhận ra có bức tượng vàng lớn trên giá cạnh tấm ảnh khung bạc. Khắc trên đế tượng là dòng chữ màu đen to đùng ghi: NGƯỜI PHỤ NỮ CỦA NĂM, 1999. DÀNH CHO NORA SOMMERS. Tôi vội vã bước tới sau bàn, lấy thân che không cho tên bảo vệ thấy giải thưởng, làm ra vẻ tôi cũng đang quan sát kỹ tấm ảnh.
“Có cánh gió sau và bao nhiêu thứ nữa,” hắn tiếp tục. “Ống xả đôi hả?”
“Ồ, phải.”
“Có cả viền gợn chứ?”
“Chắc chắn rồi.”
Hắn lại lắc đầu. “Chà. Anh tự phục chế nó à?”
“Không, giá mà tôi có thời gian.”
Hắn lại cười, điệu cười trầm vang. “Tôi hiểu ý anh.”
“Tôi mua nó từ một người trước để nó trong nhà kho.”
“Con ngựa hoang này ba trăm hai mươi mã lực?”
“Phải,” tôi nói như thể mình biết lắm.
“Hãy nhìn cái mui có đèn xi nhan trên em này xem. Tôi từng có một chiếc mui cứng 68, nhưng tôi phải bỏ nó đi. Vợ tôi bắt thế sau khi chúng tôi có con đầu lòng. Tôi vẫn thèm khát nó mãi tới bây giờ. Nhưng chiếc GT Bullitt Mustang mới cứng kia thì tôi thậm chí sẽ không dám mơ tới, không đâu.”
Tôi lắc đầu. “Không thể nào.” Tôi chẳng biết hắn đang nói về cái quái gì. Bộ ai trong cái công ty này cũng điên lên vì ô tô sao?
“Thứ lỗi nếu tôi nói sai, nhưng có vẻ anh có lốp GR cỡ bảy mươi trên vành Torque Thrust của Mỹ cỡ mười lăm trên bảy, đúng không?”
Trời ạ, chúng ta có thể thôi chủ đề này đi được không? “Thật ra, Luther à, tôi chẳng biết cái gì về mấy cái xe Mustang. Tôi thậm chí chẳng đáng có một chiếc. Vợ tôi mua cho tôi làm quà sinh nhật. Dĩ nhiên tôi mới là người phải trả tiền vay trong bảy mươi lăm năm tới.”
Hắn lại cười. “Tôi biết rồi. Trước tôi cũng thế.” Tôi thấy hắn nhìn xuống bàn và nhận ra hắn đang xem cái gì.
Đó là một chiếc phong bì giấy thô trên đề tên Nora bằng chữ hoa to đậm, viết bằng bút đánh dấu Sharpie mực đỏ. NORA SOMMERS. Tôi nhìn quanh bàn tìm thứ gì đó kéo lên nó, che nó đi, may ra hắn chưa kịp nhìn thấy cái tên đó, nhưng Nora giữ bàn mình không chút bừa bộn. Cố tỏ ra tự nhiên, tôi giật lấy một trang trên tập giấy ghi chép và yên lặng xé nó ra, để nó rơi xuống mặt bàn và hất nó lên phong bì bằng tay trái. Thật bình tĩnh, Adam. Tờ giấy vàng đã có vài chữ viết tay của tôi, nhưng người khác có nhìn cũng sẽ thấy chúng là vô nghĩa.
“Nora Sommers là ai?” hắn hỏi.
“À, vợ tôi ấy mà.”
“Nick và Nora à?” Hắn cười nắc nẻ.
“Ờ, lúc nào chúng tôi cũng bị cười thế.” Tôi cười ngoác miệng. “Vì thế mà tôi mới lấy cô ấy. Mà giờ tôi phải quay lại với các hồ sơ này đây, không thì tôi ở lại cả đêm mất. Rất vui được gặp anh, Luther.”
“Tôi cũng vậy, Nick.”
Tới lúc tên bảo vệ bỏ đi thì tôi căng thẳng tới mức không làm được gì ngoài sao chép nốt các lá thư, rồi tắt đèn và khóa cửa văn phòng Nora lại. Khi tôi quay đi trả chùm chìa khóa lại lô của Lisa McAuliffe, tôi thấy có người đang đi cách đó không xa lắm. Tôi đoán chắc lại là Luther. Hắn muốn gì chứ, nói tiếp chuyện Mustang? Tất cả những gì tôi muốn là thả chìa khóa lại mà không bị ai thấy, và rồi cuốn xéo khỏi đây.
Nhưng đó không phải là Luther; đó là một gã bụng phệ với kính gọng sừng và tóc cột kiểu đuôi ngựa.
Người mà tôi không mảy may nghĩ sẽ thấy tại nơi làm việc lúc mười giờ đêm, nhưng nói gì thì nói, bọn kỹ sư cũng hay làm việc vào những giờ kỳ quặc.
Noah Mordden.
Gã có thấy tôi khóa cửa phòng Nora lại không, hay thậm chí là ở trong đó? Hay mắt gã không tinh đến thế? Có lẽ gã còn chẳng để ý; biết đâu gã chỉ ở trong thế giới riêng - nhưng gã làm gì ở đây?
Gã không nói gì, không chào tôi. Tôi thậm chí không chắc gã nhận ra mình đang ở đây nữa. Nhưng tôi là người duy nhất ở gần, và gã không mù.
Gã rẽ vào lối đi giữa các lô tiếp theo và để một chiếc cặp giấy xuống lô của ai đó. Giả vờ tự nhiên, tôi đi qua lô của Lisa và thả chùm chìa khóa lại xuống cái cây, ngay trong khoảng đất mà tôi đã tìm thấy nó, một cử chỉ nhanh chóng, rồi tôi tiếp tục đi.
Tôi đi được nửa đường tới thang máy thì nghe thấy tiếng gọi, “Cassidy.”
Tôi quay lại.
“Thế mà anh cứ ngỡ chỉ có kỹ sư mới là sinh vật ăn đêm chứ.”
“Tôi chỉ cố bắt kịp thôi,” tôi đáp một câu chán ngắt.
“Anh hiểu,” hắn nói. Cách hắn nói khiến tôi lạnh sống lưng. Rồi hắn hỏi, “Chuyện gì vậy?”
“Xin lỗi?”
“Cậu bị cuốn vào chuyện gì vậy?”
“Tôi không chắc là mình hiểu anh nói gì,” tôi nói, tim đập thình thịch.
“Cố mà nhớ ra điều đó.”
“Anh nói lại được không?”
Nhưng Mordden đã bước về phía thang máy, và gã không trả lời.
PHẦN 3
ỐNG DẪN
Ống dẫn: Biệt ngữ tình báo chỉ các tài sản mang tính chất hỗ trợ như trạm an toàn, nơi thả hộp chết, v.v... của một cơ quan tình báo bí mật.
- Từ điển tình báo quốc tế
23
Khi về đến nhà người tôi tã cả ra, thậm chí còn tệ hơn lúc trước. Tôi không hợp với loại công việc này. Tôi muốn ra ngoài và lại say bí tỉ, nhưng tôi phải lên giường, ngủ một chút.
Căn hộ của tôi dường như nhỏ bé và dơ dáy hơn bao giờ hết. Tôi đang kiếm được mức lương sáu con số, vậy nên đáng ra tôi có thể chi trả một trong những căn hộ tại các tòa nhà cao tầng mới gần cầu tàu. Chẳng có lý do gì để tôi tiếp tục ở trong cái lỗ đáy địa ngục này trừ việc nó là cái lỗ đáy địa ngục của tôi, lời nhắc nhở rằng tôi thực sự là thằng vô công rồi nghề hạng bét không làm nên cơm cháo gì chứ không phải là gã màu mè ăn mặc tươm tất tôi đã biến thành. Thêm nữa tôi không có thời gian đi tìm chỗ ở mới.
Tôi bấm công tắc đèn cạnh cửa và phòng vẫn tối om. Chết tiệt. Thế có nghĩa là bóng trong cái đèn bàn lớn xấu xí ở bên ghế trường kỷ, nguồn sáng chính trong phòng, đã bị cháy. Tôi luôn để đèn bàn sáng để mình có thể bật tắt đèn ở cửa. Giờ tôi phải loạng choạng đi qua căn hộ tối mò để tới cái tủ nhỏ chứa bóng đèn thay thế và những đồ lặt vặt. Thật may mắn là tôi biết từng góc nhỏ trong căn hộ bé xíu này, thật vậy đấy, ngay cả khi mắt nhắm tịt. Tôi sờ soạng trong hộp giấy các tông nhăn nhúm tìm bóng đèn mới, hy vọng nó là một trăm oát chứ không phải hai nhăm hay tương tự như thế, rồi tìm đường qua phòng tới bộ trường kỷ, vặn đui đèn ra, tháo bóng và lắp cái mới vào. Vẫn không có ánh sáng. Mẹ kiếp: đúng là cái kết hoàn hảo cho một ngày tồi tệ. Tôi tìm đến nút bật nhỏ trên bệ đèn rồi bật, phòng sáng bừng lên.
Tôi đang đi được nửa đường ra phòng tắm thì chợt nghĩ: Sao cái đèn lại bị tắt? Tôi chưa bao giờ tắt nó đi - chưa bao giờ. Tôi mất trí ư?
Có phải đã có người ở trong căn hộ không?
Cảm giác rùng mình, thoáng qua chút gì như hoang tưởng. Ai đó đã ở đây. Nếu không thì làm sao mà đèn lại bị tắt bằng công tắc trên bệ chứ?
Tôi không có bạn ở chung, không có bạn gái, và chẳng ai khác có chìa khóa cả. Cái công ty quản lý tệ hại trông coi tòa nhà cho lão chủ cũng tệ hại và luôn vắng mặt của khu ổ chuột này không bao giờ tới các phòng. Thậm chí ngay cả khi bạn van nài họ cho người tới sửa lò sưởi cũng không. Chẳng có ai từng ở trong này ngoài tôi.
Tôi nhìn qua máy điện thoại ngay bên dưới đèn bàn, cái điện thoại Panasonic màu đen cũ kỹ kết hợp chức năng trả lời cuộc gọi, chức năng đó tôi giờ không còn dùng đến nữa vì đã có dịch vụ thư thoại của công ty điện thoại. Tôi thấy có điều không ổn. Dây điện thoại đen nằm vắt qua các phím, ngay phía trên thay vì cuộn lại ở một bên như mọi khi. Được rồi, quả thực chúng chỉ là những chi tiết vụn vặt, nhưng bạn sẽ để ý tới chúng khi sống một mình. Tôi cố nhớ mình gọi điện lần cuối khi nào, mình đã ở đâu, mình đã làm gì. Tôi đãng trí tới mức gác máy lệch đi ư? Nhưng tôi chắc chắn là điện thoại không như thế này khi tôi rời nhà sáng nay.
Chắc chắn đã có người ở đây.
Tôi nhìn lại chiếc điện thoại kiêm trả lời cuộc gọi và nhận ra còn có điểm bất thường khác, và nó thậm chí còn chẳng khó thấy. Máy ghi cuộc gọi mà tôi không dùng bao giờ có hệ băng kép, một băng cát xét nhỏ cho cuộc gọi đi và một cho cuộc gọi đến.
Nhưng băng cát xét thu âm cuộc gọi đến không còn nữa. Có người đã bỏ nó ra.
Tôi đoán đó là người muốn có bản sao chép những cuộc gọi của tôi.
Hay là - đột nhiên tôi nảy ra ý nghĩ - người muốn chắc chắn rằng tôi đã không dùng máy ghi âm để lưu lại bất cứ cuộc gọi nào tôi nhận. Hẳn phải là thế. Tôi đứng lên rồi tìm máy ghi âm dùng băng duy nhất tôi còn lại, một loại cát xét nhỏ tôi mua hồi còn ở đại học, vì sao tôi chẳng còn nhớ nữa. Tôi nhớ mang máng là vài tuần trước đã thấy nó ở ngăn bàn dưới cùng, lúc đi tìm bật lửa. Tôi kéo ngăn đáy bàn ra, lục lọi nhưng không thấy. Cũng không thấy nó trong ngăn kéo nào khác. Càng tìm, tôi càng chắc chắn là đã từng thấy nó nằm ở ngăn đáy. Khi tìm lần nữa, tôi thấy nguồn điện AC đi kèm, khẳng định nghi ngờ của mình. Máy ghi âm cũng không cánh mà bay.
Giờ thì tôi chắc chắn rồi: người lục lọi căn hộ muốn tìm tất cả các loại băng ghi âm tôi có thể đã lưu lại. Câu hỏi là, người đó là ai? Nếu là người của Wyatt và Meacham thì rõ là thật điên tiết và xúc phạm người ta.
Nhưng nếu không phải bọn họ thì sao? Nếu là Trion thì sao? Điều đó đáng sợ đến mức tôi thậm chí không muốn nghĩ về nó nữa. Tôi nhớ lại câu hỏi không biểu cảm của Mordden: Cậu bị cuốn vào chuyện gì vậy?