Chuyện tình vịnh Cedar (Tập 1) - Chương 01 phần 1

1

Cecilia Radall đã nghe kể về những người, mà nếu cho họ một điều ước, họ sẽ muốn sống lại chính cuộc đời của mình. Nhưng cô thì không muốn như vậy. Cô hài lòng với giai đoạn mười hai tháng kể từ khi cô bước sang tuổi hai mươi hai.

Mười hai tháng đã trôi qua.

Tháng Giêng vừa rồi, ngay sau Tết, cô đã gặp Ian Jacob Randall, một anh chàng hải quân, một thủy thủ tàu ngầm. Cô đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng - đó là để mình dính bầu. Rồi cô làm rối tung mọi chuyện lên bằng một sai lầm nữa, là làm đám cưới với anh chàng này.

Đó là lỗi thứ ba và từ đó, cô ngày càng lún sâu hơn vào những sai lầm nối tiếp nhau. Cô thật ngốc nghếch, ngây thơ trong tình yêu - và tệ hơn cả - là cô quá lãng mạn. Bởi thế mà anh chàng hải quân và cuộc sống của anh ta đã nhanh chóng hấp dẫn cô.

Cô con gái nhỏ Allision Marie của họ bị sinh non trong khi Ian đang công tác ngoài biển. Đã thế cô bé còn bị chứng tim bẩm sinh. Đến khi Ian trở về, Allision Marie đã qua đời. Lúc người ta hạ chiếc bình đựng tro hỏa táng nhỏ xíu của con gái mình xuống đất ướt lạnh lẽo của vùng Tây bắc Thái Bình Dương, Cecilia cô đơn đứng nhìn, gió mưa không ngớt táp vào mặt cô rát buốt. Cô buộc phải có những quyết định giữa sự sống và cái chết mà chẳng có lời khuyên nào của gia đình hay sự động viên an ủi của chồng mình. Mẹ cô sống ở vùng bờ biển phía Đông và vì có một cơn bão tuyết nên bà không thể bay tới Oa-sinh-tơn. Cha cô ủng hộ cô theo cách của ông - và nó quá ít ỏi. Ý tưởng “có mặt ở chỗ con gái” của ông chỉ là gửi cho cô tấm thiệp, và viết vài dòng bày tỏ sự cảm thông sâu sắc trước nỗi mất mát lớn lao của cô. Biết bao đêm cô thẫn thờ choáng váng và khóc ròng bên chiếc nôi trống của con, cô yêu đứa con bé bỏng tội nghiệp của mình biết bao. Những người vợ hải quân khác cố an ủi cô nhưng Cecilia không cảm thấy thoải mái với người lạ. Cô từ chối sự cảm thông giúp đỡ và tình bạn của họ. Vì mới ở vịnh Cerda trong một thời gian ngắn nên cô chưa kịp có bạn bè thân thiết. Do đó cô càng cảm thấy mình cô đơn trống vắng hơn.

Khi Ian trở về, anh cố giải thích sự chậm trễ của mình là do các thủ tục trong ngành hải quân. Nhưng Cecilia đã quá mệt mỏi rồi. Chỉ có một hiện thực đau đớn tồn tại trước mắt cô: con gái cô đã chết. Chồng cô không thể biết và không thể cảm nhận được những gì cô đã phải chịu đựng trong một thời gian anh đi vắng. Vì anh ở trên một chiếc tàu ngầm hạt nhân nên trong suốt thời gian làm nhiệm vụ, tất cả các cuộc liên lạc chỉ được giới hạn trong những chữ “các bức điện từ gia đình”. Nhưng cũng chẳng thể làm được gì vì đúng thời điểm đó, con tàu lại bị kẹt dưới một mỏm băng. Cô đã báo cho anh về sự ra đời và cái chết của Allison. Cô đã viết về nỗi đau giằng xé trái tim mình trong những tin nhắn ngắn ngủi đó mà chẳng hề biết rằng chúng bị nhân viên hải quân kiểm soát chặt chẽ. Vì vậy mà mãi đến khi chuyến đi mười ngày kết thúc, viên sỹ quan trên tàu mới chuyển thông tin đến anh. Anh không biết, Ian khẳng định nhiều lần như thế. Chắc chắn là cô không thể buộc anh phải chịu trách nhiệm rồi. Tuy nhiên cô vẫn nghĩ là anh cũng có lỗi trong tất cả mọi chuyện. Mặc dù có thể điều đó là không công bằng, nhưng Cecila không thể tha thứ cho anh.

Bây giờ cô muốn chấm dứt. Chấm dứt cuộc hôn nhân của cô, chấm dứt những cảm giác tôi lỗi và hối tiếc, chỉ duy nhất là chấm dứt. Cách trốn thoát duy nhất là ly dị Ian. Ngồi ở hành lang gần phòng xử, cô cảm thấy quyết tâm của mình mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Chỉ cần một nhát búa dứt khoát của người thẩm phán là cô có thể bỏ lại sau lưng cơn ác mộng đã qua. Và cuối cùng, cô sẽ quên rằng cô từng gặp Ian Randall.

Allan Harris, luật sư của Cecilia bước vào phòng giải lao bên ngoài phòng xử án hạt Kitsap. Cô thấy anh nhìn quanh cho tới lúc bắt gặp cô. Anh giơ tay ra chào rồi bước tới chỗ cái ghế gỗ nơi cô đang ngồi và ngồi vào chỗ trống bên cạnh.

“Hãy cho tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra”, cô hỏi bởi muốn chắc chắn rằng cuộc đời mình sẽ thay đổi, chí ít cũng trở về gần như cách đây một năm. Allan đặt chiếc va li của anh lên đùi. “Chúng ta hãy chờ tới khi thông báo. Thẩm phán sẽ hỏi xem chúng ta đã sẵn sàng chưa. Tôi sẽ nói là chúng ta đã sẵn sàng và chúng ta sẽ được cấp số.” Cecilia lặng người đi, cô chậm rãi gật đầu.

“Chúng ta có thể được cấp một con số bất kỳ giữa số một và số năm mươi”, luật sư của cô tiếp tục. “Rồi chúng ta đợi đến lượt mình.”

Cecilia lại gật đầu và cô hy vọng sẽ không bị kẹt ở tòa án cả ngày trời. Phải ở đây đã là tệ lắm rồi, tệ hơn nữa là cả Ian cũng có mặt. Cô vẫn chưa nhìn thấy anh. Có thể là anh đang gặp gỡ luật sư của mình ở đâu đó để bàn về chiến lược - cô không muốn anh chống lại việc ly dị. “Sẽ không có vấn đề gì chứ?”. Lòng bàn tay cô ẩm ướt và trán lạnh toát mồ hôi. Cô muốn sự việc này nhanh chóng kết thúc để cô có thể sắp xếp cuộc sống của mình. Cô tin là chỉ khi đã hoàn tất thủ tục ly hôn, cô mới có thể làm được điều gì đó. Và chỉ đến khi đó, nỗi đau đớn trong cô mới dần tan biến.

“Tôi không thấy có gì vướng mắc, đặc biệt là khi cô đã đồng ý chia sẽ tất cả các khoản nợ”. Allan hơi nhíu mày. “Năm trước cô đã ký thỏa thuận”. Cecilia cảm thấy hơi nhói đau ở bụng và cô ôm cái túi vào lòng thật chặt. Cô tự nhủ, chẳng bao lâu nữa, chẳng bao lâu nữa cô có thể bước ra khỏi những cánh cửa này và bắt đầu một cuộc sống mới.

“Đó là một thỏa thuận hơi…bất thường”, Allan lẩm bẩm. Nghĩ lại, thỏa thuận đó lại là một phần của rất nhiều sai lầm mà cô đã mắc phải trong năm ngoái, nhưng theo luật sư, cô có thể dễ dàng sửa lại. Trở lại thời gian một năm trước, việc ký thỏa thuận này của họ đã rất có ý nghĩa. Để cố gắng chứng mình lòng chân thành, họ đi đến một thống nhất là người nào muốn ly dị thì sẽ phải thanh toán không chỉ chi phí tại tòa mà còn phải trang trải tất cả nợ nần trong suốt quá trình hai người chung sống. Bản thỏa thuận này có thể được xem như một cách trừng phạt hoặc ngăn cản việc ly hôn, nhưng giờ đây nó đã gây ra nhiều phiền toái hơn. Cecilia tự trách mình đã ký vào bản thỏa thuận ấy. Lúc ký nó, cô muốn chắc chắn rằng Ian không lấy cô vì bắt buộc.

Vâng, có thai là chuyện ngoài kế hoạch, nhưng cô sẽ sẵn sàng và thoải mái khi tự mình nuôi nấng đứa con. Cô thích điều này hơn là bị mắc kẹt trong một cuộc hôn nhân bất hạnh - hoặc bắt Ian phải ở trong một mối quan hệ mà anh không muốn.

Tuy nhiên, Ian rất kiên quyết. Anh đã thề rằng anh yêu cô, yêu đứa con chưa ra đời của họ và muốn cưới cô.

Lúc lên mười tuổi, cả thế giới của Cecilia tan nát khi cha mẹ cô ly dị. Cô không muốn làm thế với chính đứa con của mình. Trong suy nghĩ của cô, hôn nhân là vĩnh viễn, vì vậy, cô muốn họ phải xác định rõ ràng trước khi cam kết sống với nhau cả đời. Giờ thì cô nghĩ là mình thật ngây thơ. Thật ủy mị. Thật lãng mạn. Ian cũng nói rằng anh muốn cuộc hôn nhân của họ sẽ là mãi mãi nhưng một năm vừa qua, đã cho thấy điều đó chỉ là ảo ảnh mà thôi. Anh nói Cecilia cần tin anh, tin vào sức mạnh của tình yêu, tin rằng tình yêu đó sẽ giúp cô vượt qua đớn đau.

Cuối cùng, mờ mắt trước niềm tin vào một người chồng sẽ hoàn toàn gắn bó với mình và hy vọng vào một cuộc sống hạnh phúc, Cecilia đã kết hôn - với một quy định. Đó là một thỏa thuận. Vì nghĩ rằng cuộc hôn nhân của mình sẽ kéo dài đến chừng nào cả hai còn tồn tại, nên họ soạn ra một thỏa thuận nhằm giúp cả hai cùng giữ đúng lời thề hẹn của mình. Trước hôn lễ, họ soạn xong bản hợp đồng và đem đi công chứng. Cô đã quên khấy bản hợp đồng này và đến khi hẹn gặp Allan Harris, anh hỏi trước đám cưới có ký thỏa thuận nào không, cô mới nhớ. Rõ ràng đó không phải là loại tài liệu chuẩn, nhưng Allan cho rằng họ vẫn cần đưa nó ra cho tòa xem xét.

Cuộc hôn nhân của cô đáng ra sẽ không kết thúc thế này, nhưng sau khi đứa con qua đời, dường như mọi thứ đều bị vỡ nát. Nỗi mất mát đã xóa nhòa tình yêu mãnh liệt của hai người. Đáng ra đứa trẻ không chết - dù là đẻ non. Mọi cảm giác về sự công bằng và đúng đắn dường như biến mất khỏi thế giới của Cecilia. Cuộc hôn nhân vốn giúp cô duy trì cuộc sống lại trở thành cội nguồn của tội lỗi và đau khổ. Kinh nghiệm đã dạy cô rằng cô chỉ nên sống một mình.

Cô không thể nghĩ về chuyện này thêm một chút nào nữa. Cô buộc mình hướng suy nghĩ vào việc khác.

Các luật sư đang tụ tập bàn bạc với thân chủ của mình, và cô nhìn quanh, hy vọng tìm thấy Ian. Cô cố gồng mình lên để sẵn sàng với cuộc đối đầu không thể tránh khỏi này. Trong bốn tháng qua, cô không hề nhìn thấy hay nói chuyện với anh mặc dù luật sư của họ thường xuyên liên lạc với nhau. Cô ngạc nhiên không biết liệu có phải tất cả những người này đều ở đây vì những lý do buồn chán như nhau không? Hẳn phải như vậy rồi. Nếu không thì ai ra tòa làm gì chứ? Không thực hiện lời hứa, không đúng thỏa thuận. Và rất nhiều nguyên nhân khác.

“Thẩm phán Lockhart sẽ xử vụ của chúng ta”, Allan cắt ngang dòng suy nghĩ của cô.

“Bà ta là người thế nào?”

“Chị ấy rất công bằng.”

Cecilia chỉ cần có thế. “Đây chỉ là một nghi thức phải không?”

“Phải rồi”. Allan mỉm cười động viên cô.

Cô xem đồng hồ. Kết luận của tòa dự kiến sẽ được công bố vào lúc chín giờ và chỉ còn năm phút nữa. Ian vẫn chưa có mặt ở đây.

“Nếu như Ian không tới thì sao?”, cô hỏi.

“Thì chúng ta sẽ đề nghị kéo dài thêm.”

“Ồ”. Đừng có trì hoãn thêm nữa, cô thầm cầu nguyện.

“Anh ấy sẽ đến.” Allan khẳng định. “Brad bảo tôi rằng Ian cũng muốn sớm kết thúc như cô thôi”

Tim cô lại nhói đau. Điều này sẽ rất dễ dàng thôi, cô tự nhủ để trấn an mình.

Cô đã trải qua phần khó khăn nhất - sự cô đơn và đau đớn, sự khổ sở và thất vọng về một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Tòa xử chỉ là hình thức. Allan đã nói vậy. Chừng nào hủy bỏ được thỏa thuận đó, vụ ly dị này sẽ nhanh chóng được giải quyết và cơn ác mộng sẽ lùi lại phía sau cô.

Rồi Ian xuất hiện.

Cecilia cảm nhận thấy sự hiện diện ấy trước khi nhìn thấy anh. Cô cảm nhận được cái nhìn của anh lúc anh lên cầu thang và vào phòng giải lao. Cô quay lại. Ánh mắt họ bất chợt gặp nhau rồi cả hai vội vã quay đi.

Gần như đúng lúc anh đến thì cửa phòng xử án bật mở. Mọi người đứng dậy, hối hả tràn vào trong bất chấp mọi lời giải thích. Allan bước bên cạnh Cecilia qua cánh cửa đó. Ian và luật sư của anh theo sau. Họ ngồi ở phía đối diện của phòng xử.

Ngay lập tức, chấp hành viên bắt đầu đọc tên những người tham dự phiên tòa. Mỗi khi đọc đến ai thì người đó trả lời và ký nhận số. Mọi việc diễn ra nhanh đến mức Cecilia gần như không nghe thấy chính tên mình.

“Radall”.

Đến lượt mình, cả Allan Harris và Brad Dumas đều trả lời rất to. Cecilia không nghe thấy số của họ.

Khi Allan ngồi xuống cạnh cô, anh viết con số ba mươi lên tờ giấy vàng.

“Ba mươi?”, cô thì thầm, ngạc nhiên khi nhận ra rằng trước cô người ta đã xử hai mươi chín vụ.

Anh gật đầu. “Đừng lo, sẽ nhanh thôi mà. Có lẽ chúng ta sẽ ra khỏi đây trước mười một giờ, Tùy vào việc tòa quyết thế nào”.

“Tôi có phải ở đây không?”

“Không cần thiết. Cô có thể chờ bên ngoài nếu cô muốn.”

Cô chọn phương án chờ. Căn phòng tạo ra cảm giác ức chế không thể chịu nổi. Cô đứng dậy, ra khỏi phòng xử và vội vã bước vào căn phòng trống như muốn trốn chạy.

Chỉ còn hai bước trước khi bước vào phòng nghỉ, cô sững lại - chỉ để tránh không đâm sầm vào Ian.

Cả hai đều chôn chân tại chỗ, họ trân trối nhìn nhau. Cecilia chẳng biết nói gì; Ian cũng vậy. Trông anh rất đẹp trai trong chiếc áo xanh hải quân, điều này khiến cô nhớ lại lần đầu tiên gặp gỡ. Anh cao, dáng người thon chắc và có đôi mắt xanh mê hoặc nhất mà cô đã từng thấy. Cecilia nghĩ rằng nếu Allison Marie còn sống, hẳn con bé cũng sẽ có đôi mắt giống bố.

“Sắp xong rồi.” Ian hạ giọng nói và cố giấu cảm xúc của mình.

“Vâng”, cô đáp lại. Sau một thoáng im lặng, cô nói thêm. “Em không đi theo anh ra đây”. Cô muốn anh biết điều đó.

“Anh cũng đoán vậy”.

“Em cảm giác như những bức tường đang khép lại với em”.

Anh chẳng nói gì và thả mình xuống một trong những chiếc ghế gỗ chạy dọc tường bên ngoài phòng xử. Anh cúi về phía trước, tay ôm lấy gối. Cô ngồi ở đầu kia của ghế, cảm thấy cực kỳ khó chịu. Những người khác rời khỏi phòng xử đông đúc. Họ biến mất hoặc tìm một góc khuất để trao đổi với luật sư của mình. Tiếng thì thào của họ vọng vào tường đá.

“Anh biết là em chẳng tin anh nhưng anh xin lỗi đã để sự việc đến thế này,” Ian bảo cô.

“Em cũng vậy”. Rồi cô nói với anh, “nhưng cần phải thế”.

“Anh đồng ý với em”. Anh ngồi thẳng dậy, khoanh tay trước ngực, lưng anh thẳng tắp. Anh chẳng hề nhìn lại cô.

Tệ thật - cả hai lại ngồi đây trong hoàn cảnh này. Nhưng nếu như anh có thể giả vờ là cô không ở đó thì cô cũng có thể làm tương tự. Mệt mỏi, cô tựa lưng vào ghế. Sẽ phải chờ lâu đây.

“Chào ông”, Charlote Jefferson vui vẻ chào khi bước vào căn phòng riêng ở Trung tâm An dưỡng vịnh Cedar.

“Tôi biết ông là người mới đến.” Ông già tóc bạc trắng vươn người ra từ trong xe lăn và nhìn bà bằng đôi mắt nâu. Mặc dù tuổi cao và bệnh tật nhưng bà vẫn có thể nhận ra đây từng là một người đàn ông đẹp trai. Dáng người ông không thể lẫn vào đâu được.

“Ông không cần trả lời đâu”, bà bảo ông. “Tôi biết ông là một bệnh nhân đột quỵ. Tôi chỉ muốn tự giới thiệu. Tôi là Charlotte Jefferson. Tôi ghé qua đây để xem có thể giúp gì dược ông thôi”.

Ông chậm rãi ngước lên nhìn bà rồi cố hết sức lắc đầu.

“Ông không cần phải nói tên. Tôi đã đọc ngoài cửa rồi. Ông là Thomas Harding”, bà ngừng lại.

“Janet Lester - người phục vụ ở đây đã nhắc tới ông cách đây vài ngày. Tôi rất thích cái tên Thomas”, bà vui vẻ. “Tôi đoán bạn bè gọi ông là Tom”.

Một nụ cười yếu ớt hiện ra chứng tỏ bà đã đoán đúng.

“Là tôi nghĩ vậy thôi”. Charlotte không có ý tự đề cao, nhưng bà biết chắc chắn cái cảm giác một mình đến thành phố lạ, lại chẳng quen biết ai, thì một trái tim đơn lẻ sẽ rất cô đơn. “Tôi có người bạn thân ở đây đã nhiều năm và thứ năm tuần nào tôi cũng đến thăm bà ấy. Nó đã trở thành một thói quen. Đến mức sau khi Barbara lên thiên đàng, tôi vẫn tiếp tục thói quen ấy. Tuần trước, Janet bảo tôi là ông vừa tới. Vì vậy tôi quyết định hôm nay tới đây để giới thiệu bản thân mình với ông”.

Ông cố nhấc tay phải của mình mà không được.

“Ông muốn lấy gì để tôi giúp ông?” bà ân cần hỏi.

Ông lại lắc đầu rồi run rẩy chỉ vào cái ghế đối diện với ông.

“À, tôi hiểu rồi. Ông đang muốn bảo tôi ngồi xuống”.

Ông cố mỉm cười, mặc dù rất khó khăn.

“Vâng. Mấy con chó này đang sủa đấy”.

Bà nói đùa một cách hài hước, rồi ngồi xuống ghế và chỉ vào đế giày của mình nơi phát ra những tiếng kêu cót két.

Tom theo dõi bà, mắt ánh lên vẻ thích thú.

“Tôi đoán ông muốn biết một chút về vịnh Cedar. Ơn Chúa là ông được chuyển đến đây. Janet bảo ban đầu ông đề nghị được chuyển đến vịnh Cedar nhưng lại bị đưa đến Trung tâm ở Seattle. Tôi đã nghe về những gì xảy ra ở đó. Tôi chỉ có thể nói là thật đáng xấu hổ”.

Theo Janet, Trung tâm An dưỡng trước của Tom đã bị đóng cửa vì một số vi phạm nghiêm trọng. Các bệnh nhân, hầu hết là những người được bảo trợ, đã được chuyển đến một số đơn vị chăm sóc nằm rải rác ở Oa-sinh-tơn.

“Tôi rất mừng vì ông đã đến vịnh Cedar này - đó là một thị trấn nhỏ rất thú vị Tom à”, bà cố nhắc đến tên ông. Bà muốn ông có cảm giác mình được công nhận. Ông đã phải chịu đựng một thời gian ở cơ sở điều trị không đạt tiêu chuẩn. Thực ra, Janet đã bảo bà rằng đội ngũ nhân viên ở đó rất tắc trách. Charlotte thấy giật mình, bà không thể hiểu nổi điều đó. Không thể tưởng tượng được người ta lại có thể đối xử tồi tệ với một người dễ bị tổn thương như Tom. Không thể tưởng tượng được người ta lại có thể sao nhãng với ông, để ông nằm cả ngày trên một cái giường bẩn thỉu và chẳng ai nói chuyện cho ông khuây khỏa.

“Từ đây, ông có thể ngắm bến du thuyền”, bà nói hết sức nhiệt tình. “Chúng tôi rất tự hào về bến cảng này. Mùa hè, sẽ có một lễ hội tuyệt vời. Còn tất cả các ngày thứ bảy lúc nào cũng vậy khu “Hội chợ nông dân” gần thư viện kín đặc xe đỗ. Thuyền đánh cá neo đầy cầu tàu để bán hàng. Ôi! Tôm ở kênh đào Hood khi còn tươi rói trên thuyền ngon cực kỳ! Chẳng thể có gì sánh được!”

Thấy Tom có vẻ đang lắng nghe, bà dấn thêm: “Nào! Tôi biết bắt đầu kể từ đâu cho ông nghe về vịnh Cedar nhỉ!”, bà có vẻ hơi lúng túng. “Đây là một thị trấn nhỏ. Dân số có lẽ chưa đến năm nghìn người. Chồng tôi, Clyde, và tôi đều đến từ vùng Yakiama ở phía Đông của bàng này và chúng tôi chuyển đến đây sau chiến tranh Thế giới thứ hai. Lúc đó, vịnh Cedar là nơi duy nhất trong hạt có đèn giao thông. Đó là cách đây năm mươi năm”. Năm mươi năm rồi. Sao ngần ấy thời gian có thể trôi qua nhanh thế nhỉ?

“Vịnh Cedar đã thay đổi đôi chút nhưng vẫn giữ được những nét đẹp ban đầu”, bà nói. “Rất nhiều người ở đây làm việc cho xưởng đóng tàu Bremerton từ những năm bốn mươi. Và lẽ dĩ nhiên, nghành hải quân có tác động lớn lên kinh tế của thị trấn.

Hẳn là Tom cũng đoán thế khi xưởng đóng tàu Bremerton của Hải quân nằm phía bên kia cũng đoán thế khi xưởng đóng tàuBremerton của Hải quân nằm phía bên kia của vịnh. Hàng loạt tàu hàng không mẫu hạm 1 khổng lồ xếp hàng ở bến cảng và cả các dãy tàu ngầm nữa chứ. Những chiếc tàu ngầm hạt nhân đỗ ở khu tàu ngầm ngoài khơi Bangor. Vào những ngày trời u ám, đội tàu nhỏ màu xám như hòa quyện với màu đen xám của bầu trời.

Tom để tay phải lên trái tim mình.

“Ông từng ở trong quân đội à?” Bà hỏi.

Người đàn ông yếu ớt gật đầu.

“Chúa ban phước cho ông”, Charlotte thốt lên. “Người ta bảo rằng chúng ta là thế hệ vĩ đại nhất khi đã sống qua thời kỳ suy thoái và chiến tranh. Và ông biết không? Họ nói đúng. Giới trẻ ngày nay chẳng biết ý nghĩa của từ hy sinh là gì. Chúng có mọi thứ quá dễ dàng, nhưng mà này, đó chỉ là quan điểm của tôi thôi”.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3