Chuyện tình vịnh Cedar (Tập 4) - Chương 10 - 11
10
Grace dứt khoát xỏ tay vào đôi găng bảo hộ và bước ra khu vườn sau nhà để trồng những cây phong lữ Oa-sinh-tơn. Chị chẳng hứng thú gì với việc vun xới vào một chiều thứ sáu thế này, nhưng không lẽ lại ngồi rầu rĩ trong nhà. Buttercup đứng đợi chủ ở cửa bếp, đuôi ngoáy tít. Bây giờ chúng ta sẽ trồng những cái cây kia và xem liệu sáng mai có thể tìm thêm được gì ở Chợ của Những người nông dân không nhé? Mày nghĩ thế nào?”. Việc nói chuyện với con chó đã từng giúp Grace khuây khỏa, nhưng bây giờ cũng chính điều này lại khiến chị cảm thấy cô đơn vô cùng.
Phiên chợ bắt đầu vào thứ Bảy đầu tiên của tháng Năm. Mặc dù thời điểm này chỉ có vài loại rau đầu mùa nhưng Grace vẫn thích đi, bởi đó là dịp chị có thể gặp được vài người bạn, thậm chí cả mấy cô con gái.
Tiếng chuông điện thoại làm Grace giật mình. Chị tuốt găng tay phải ra và với cái điện thoại treo trên tường.
“Alô”, Grace cố lấy giọng vui vẻ và mong mỏi rằng đó là Cliff. Anh đã khiến nỗi nhớ trong chị càng thêm da diết kể từ hôm đầu tuần, khi họ chạm trán nhau ở nhà hàng Hải Đăng. Chị hy vọng Cliff cũng cảm thấy nhớ mình, dù chỉ bằng một nửa nỗi nhớ của chị thôi cũng được.
“Stanley Lockhart đây. Grace, em khỏe không?”.
Grace cảm thấy chán nản và thất vọng. “Chào Stan”. Do không muốn nói chuyện với chồng cũ của Olivia, chị cố giữ giọng lạnh lùng. “Tôi khỏe.”
“Anh cũng vậy. Em có muốn dùng bữa tối nay với anh không?”. Grace liếc nhìn hộp sô-đơ(1) trai của bữa tối. Nhưng chị thà ăn xúp một mình còn hơn là phải ngồi ăn với Stan Lockhart.
“Xin lỗi! Tôi có kế hoạch cho tối nay rồi”.
“Em có thể thay đổi mà”. Stan gắng thuyết phục bằng giọng ngọt ngào đầy kiên nhẫn.
“Không”. Grace phát bực. Anh ta cần có người ăn tối cùng và anh ta đã chọn chị. Thật nực cười?
“Nếu anh ghé qua muộn hơn một chút thì sao?”. Stan lại nhiệt tình mời mọc. “Rất quan trọng đấy”.
“Cũng không được”. Grace chẳng hình dung nổi có chuyện gì khiến Stan nôn nóng muốn gặp chị như vậy. Chị những mong anh ta hiểu được tâm trạng khó chịu của mình, khổ nỗi Stan không thuộc dạng tinh tế đến thế. Tuy nhiên tính lịch sự bẩm sinh không cho phép Grace nói thẳng với người chồng cũ của bạn mình rằng chỉ muốn tránh mặt anh ta. Đường dây lặng đi chốc lát, hẳn là Stan đang ngẫm nghĩ về lời từ chối của chị. “Anh biết”, cuối cùng anh nói, giọng rất buồn. “Gracie, em nghe này, anh không muốn quấy rầy em đâu, nhưng anh muốn bộc bạch một chuyện, xem chúng ta có thể giải quyết được không?”. Grace nghiến răng. Hồi còn đi học, chị đã rất ghét bị gọi là Gracie. Stan không hề liên lạc lại từ sau bữa tối hôm nọ, bây giờ thì lại thế này đây. Chị thậm chí không thể đoán nổi điều anh ta đang nung nấu.
“Anh cứ nói luôn xem anh cần gặp tôi vì việc gì?”.
Stan ngập ngừng. “Gặp trực tiếp thì tốt hơn. Chúng ta đi đâu đó để nói chuyện được không? Đi uống à phê chẳng hạn? Em ấn định địa điểm và thời gian đi, anh sẽ lập tức có mặt tại đó”. Giọng anh ta có vẻ rất nài nỉ. Grace biết rằng cuộc hôn nhân thứ hai của Stan mới tan vỡ. Anh ta có vẻ đang bị khủng hoảng vì chuyện này. Grace thông cảm với tâm trạng của Stan, nhưng chị không muốn liên quan gì đến anh ta.
“Sẽ không mất nhiều thời gian của em đâu, anh hứa đấy”.
Grace ngập ngừng, chị lo ngại rằng anh ta sẽ tiếp tục quấy rầy cho tới khi nào chị đồng ý. “Tôi dự định sáng mai sẽ có mặt ở phiên Chợ của những người nông dân”.
“Tuyệt”. Anh ta tỏ vẻ vui mừng, “Anh sẽ gặp em ở đó. Mấy giờ chúng ta có thể gặp nhau nhỉ?”.
“Phiên chợ bắt đầu vào lúc chín giờ.”
“Muộn hơn đi. Chín giờ hơi sớm đối với anh”.
Anh ta còn muốn thay đổi thời gian biểu ngày thứ bảy của chị cho phù hợp với anh ta nữa cơ đấy. Sự cảm thông của Grace dành cho Stan mau chóng tan biến. “Tôi sẽ có mặt ở đó lúc chín giờ Stan ạ. Anh đồng ý thì chúng ta sẽ gặp nhau vào lúc đó, còn không thì thôi”.
“Thôi được rồi. Được rồi. Anh sẽ cố gắng đến đó vào lúc chín giờ. Em nên nhớ là anh phải đi từ Seattle đấy”.
Grace quên mất rằng anh ta phải đi một quãng đường xa mới đến được phiên chợ, nhưng chị quyết định không thay đổi; anh ta là người cần gặp chị cơ mà. Sáng thứ bảy, Grace cho Buttercup vào trong xe và lái tới Chợ của những người nông dân. Buttercup là con chó rất biết ứng xử và thích quanh quẩn bên con người. Ủy ban Bảo vệ động vật đã chọn một khu ở trung tâm chợ để tổ chức các hoạt động tình nguyện. Thứ bảy nào họ cũng mang những con mèo vô chủ tới đây. Mỗi tháng, Grace phải đứng trông gian hàng một lần. Cả người lớn và trẻ em đều thích gian hàng này. Buttercup giằng dây xích ra, cuống cuồng chạy đến lũ mèo con và Grace nghiêm giọng bắt cô nàng quay trở lại vị trí than, nhưng trong đầu đã nghĩ đến việc nhận nuôi một con mèo để nó làm bạn với Buttercup. Chị cảm thấy không nên để Buttercup buồn bã ở nhà cả ngày, cần có một con mèo vui đùa với cô nàng.
“Mẹ”.
Grace quay lại. Maryellen đang đẩy Katie trong xe nôi và đằng sau thì chất đầy đồ đạc. “Thật ngạc nhiên là con lại được gặp mẹ ở đây”. Grace cúi xuống hôn Katie. Trong vòng tay bà, cô bé thích thú mở to mắt nhìn mọi thứ xung quanh. Maryellen rạng ngời hạnh phúc và Grace rất mừng vì điều đó. Con gái chị đã trở nên tự tin, thoải mái và bớt thận trọng hơn trước đây. Điều quan trọng nhất là Katie sẽ được lớn lên trong tình yêu của cả cha và mẹ. “Sao con ra ngoài sớm thế?”, Grace hỏi.
“Hôm nay Jon phải làm việc đến chiều tối mẹ ạ”, Maryellen trả lời. Như vậy có nghĩa là con rể chị đang loanh quanh đâu đó ở Oa-sinh-tơn để chụp ảnh cây cối và chim chóc hay những thứ đại loại như vậy. “Con rất yêu cuộc sống gia đình”, Maryellen thốt lên. “Ôi mẹ ơi, sao con lại có thể ngốc đến thế chứ? Jon là một người chồng và người cha tuyệt vời.”
“Con yêu, mẹ rất mừng cho con”.
“Con phải về nhà rồi. Con vừa mua ba pao(2) trai tươi và con cần phải cho chúng vào tủ lạnh”.
“Mẹ không ngờ là con lại thích trai đấy.”
“Con thì không nhưng Jon lại rất thích mẹ ạ”.
Maryellen thường kể Jon rất chiều chuộng cô, nhưng qua sau hôm nay, Grace nhận thấy con gái mình cũng biết chiều chồng chẳng kém. Grace mua cho mình một pao trai và một bình mứt cam tự làm của Carol rồi liếc quanh. Không thấy Stan đâu cả. Chị tự nhủ rằng thế là tốt nhất, đoạn đẩy xe sang một lối đi khác, và quay về phía bãi đỗ xe.
“Grace”, Stan gọi, tay vẫy rối rít. Anh ta đứng ở lối đi vào bến du thuyền. “Anh ở đây”.
Grace bước tới gần, Buttercup phi như bay bên cạnh chị.
“Seth gợi ý anh ngủ trong thuyền của nó”, Stan giải thích. Trông anh ta như thể đang chuẩn bị đi đánh tennis, mình vận chiếc quần soóc trắng và áo len trắng viền đỏ đen.
“Mọi thứ thế nào rồi?”, Stan cố giữ tư thế thoải mái, anh ta nhìn Grace với ánh mắt thăm dò như thể không biết nên bắt đầu từ đâu.
“Tốt”. Grace trả lời qua quýt vì muốn cuộc nói chuyện này trôi qua thật nhanh. “Tôi có thể làm gì giúp anh?”.
Anh ta cười gượng. “Em biết đấy, từ khi Marge chia tay anh còn Olivia lấy chàng phóng viên, anh chẳng làm nổi việc gì nữa cả”.
Grace không thích nghe những điều đó. Chị không biết anh ta có định lái câu chuyện theo hướng mời chị đi chơi không, dẫu sao thi chị cũng không thích ý tưởng đó, và cần phải nói rõ với Stan trước khi anh ta tiến xa hơn nữa. “Stan, tôi nghĩ rằng anh hẳn phải rất cô đơn…”.
“Cô đơn”, anh ta nhắc lại và lắc đầu, vẻ bối rối hiện trên khuôn mặt. “Không, không phải thế. Anh muốn gặp em không phải vì chuyện này. Anh đã nghe về cuộc đấu giá Chó và Những người đàn ông độc thân”. Grace mất một thoáng để ghép nối các chi tiết lại với nhau. Rồi chị tự trách mình sao mà chậm hiểu đến thế. “Anh muốn làm một trong số những gã độc thân tình nguyện đó”, Stan háo hức nói.
Đáng ra chị phải đoán trước được điều này chứ. Stan luôn thích là trung tâm của mọi sự chú ý. Ý tưởng về những người phụ nữ đặt giá cho mình có lẽ sẽ thật tuyệt với Stan. Công bằng mà nói, anh ta làm một việc tốt giống như cuộc hẹn hò vào một buổi tối nào đó cho dù người giành được anh ta biết trông chờ vào điều gì.
“Đây là một hoạt động từ thiện phải không?.”
“Để gây quỹ bảo vệ động vật”, Grace giải thích.
“Ừ, em biết anh yêu động vật thế nào rối đấy”. Stan gật đầu, Grace gật theo mặc dù chị chưa bao giờ thấy anh ta tỏ thái độ quý mến bất cứ một con vật nào cả. “Anh sẵn sàng tham gia hoạt động tình nguyện này”, Stan tiếp tục, “vì anh có khả năng, ừ, tại sao lại không nhỉ?”.
Anh ta nở một nụ cười lấy lòng. “Anh nghĩ là anh có thể xứng đáng với giá vài đôla”.
“Nhưng anh không sống ở vịnh Cedar”.
“Em nói đúng, nhưng anh đã từng sống ở đây và mọi người đều biết rõ anh. Thật đấy, tình nguyện là việc ít nhất anh có thể làm để góp sức cho hoạt động chung của cộng đồng. Anh rất tin tưởng em nên mới nói chuyện này với em.”
“Thực ra, có hai người phụ nữ khác làm nhiệm vụ tập hợp tên các anh chàng độc thân, nhưng tôi sẽ rất vui được giới thiệu anh”.
Stan cười xòa, vẻ mặt rất cảm kích. “Cảm ơn em. Anh biết là mình có thể trông cậy vào em mà”.
Buttercup vẫy đuôi và ngước lên, ngóng chờ sự chú ý của Stan. Tuy nhiên anh chàng yêu động vật này chẳng thèm liếc cô nàng lấy một cái. “Em đã vào chợ chưa?”, Stan hỏi.
Những cái túi trong tay Grace phải giúp anh ta nhận ra rằng chị đã đi rồi chứ nhỉ?
“Anh sẽ mời em một tách cà phê và em sẽ cho anh biết thông tin chi tiết về cuộc đấu giá nhé. Biết đâu em sẽ giúp anh vạch ra một chiến lược nào đó.”
“Một... chiến lược?”.
“Đúng, em biết đấy. Làm thế nào để những người phụ nữ đặt giá cao cho mình. Mà sẽ có bao nhiêu phụ nữ tham dự cuộc đấu giá này nhỉ?.”
“Tôi không biết. Vẫn chưa bán vé mà”.
“Anh nghĩ thế này”. Stan thẳng thắn, có vẻ rất tự tin về bản thân mình. “Anh nghĩ rằng nếu phụ nữ ở thành phố này biết rõ những ai tham gia vào cuộc đấu giá họ sẽ mua vé nhiều hơn phải không?”.
Grace ngẫm nghĩ một lúc rồi gật đầu. “Có thể”.
“Thế nếu chúng ta in tên những anh chàng độc thân lên vé thì sao nhỉ? Như thế sẽ khiến mọi người quan tâm hơn đấy, em có nghĩ vậy không?”. Rõ ràng là Stan có rất nhiều ý tưởng. “Tôi sẽ báo lại với Ủy ban những gợi ý đó”, chị lẩm bẩm.
“Tốt”, mắt Stan sáng lên và Grace thấy rằng anh ta khá quan tâm tới cuộc đấu giá đàn ông độc thân. Trong bữa ăn tối lần trước, Stan đã khóc sướt mướt và đắm chìm trong sự thương cảm chính bản thân mình. Anh ta thoát khỏi những nỗi đau nhanh thật, Grace nghĩ.
“Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để đảm bảo tên anh được đưa vào danh sách”. Grace nói và vội vàng đi về.
“Cảm ơn Gracie. Anh nghĩ rằng chúng ta là những người bạn thân”. Grace không coi mình là một người bạn của anh ta, nhưng chị mặc kệ điều anh ta vừa nói. Mặc kệ cả cái cách Stan gọi mình là Gracie. Chị lôi Buttercup đi về hướng chị để xe, trong bãi đỗ xe phía sau thư viện.
“Rất vui được gặp lại em, Grace”.
“Chúc anh vui vẻ, Stan”.
“Ôi, Grace?”. Anh ta tiến nhanh vế phía Grace. “Liệu em có đề cập tới ý tưởng in những cái tên...”.
“Có chứ”.
“Hãy nói với họ đó là ý tưởng của anh nhé”.
“Tất nhiên”. Grace ra lệnh cho Buttercup ngồi xuống. Chị buông dây xích để đổi những chiếc túi nặng từ tay này sang tay kia.
“Nếu đó là ý tưởng của anh...”, Stan ngừng lại và cười khoái trá”... thì anh nghĩ rằng phải cho tên anh vào danh sách mới công bằng chứ”.
“Tôi sẽ làm cho mọi người hiểu được điều này.”
“Tuyệt”. Stan đặt tay lên vai chị và siết nhẹ.
Rồi như vừa nghĩ ra điều gì đó, anh ta hỏi. “Anh có thể giúp em điều gì không?”.
“Không đâu”. Grace trả lời quả quyết và rất ngạc nhiên trước câu hỏi đó.
“Em chắc chứ?”. Tay anh ta nấn ná trên vai chị.
“Chắc chắn”.
Thình lình Grace bắt gặp hình ảnh một người đàn ông đội mũ cao bồi phía sau Stan. Không, làm ơn, Grace nguyện thầm, cầu cho đó không phải là Cliff. Chị sợ rằng Cliff đã nghe mọi người bàn tán về buổi hẹn ăn tối của mình với Stan và sẽ coi thường mình vì đã dính dáng với chồng cũ của Olivia. Stan lầm bầm rằng cần phải gặp một người bạn nào đó. Grace chưa kịp phản ứng thì anh ta đã vội vàng ôm chị thật nhanh rồi bước đi.
Grace nhìn chằm chằm vào người đàn ông đội chiếc mũ cao bồi. Khi Stan quay đi và không còn chắn tầm nhìn nữa, Grace gần như chắc chắn người kia là Cliff. Anh đứng đó nhìn chị và dù ở khoảng khá xa, Grace vẫn nhận ra là anh đang nhíu mày. Chị muốn thanh minh rằng mọi chuyện không phải như những gì anh đang nhìn thấy, rằng chị không hề dính dáng gì đến Stan cũng như không bao giờ mong muốn điều đó. Sau một thoáng ngờ vực, Cliff công nhận sự có mặt của Grace bằng cách đưa tay chạm lên vành mũ. Rồi anh quay đi ngay lập tức.
Grace muốn lao tới chỗ anh và giải thích mọi chuyện. Nhưng chị biết rằng hành động ấy thật lố bịch. Với trái tim nặng trĩu, Grace quay về nhà.
11
Khi cuộc họp kết thúc, Bob Beldon rời khỏi nhà hát trên phố Heron. Hồi còn đi học, anh đã rất tích cực trong các hoạt động của nhà hát. Anh thích đóng kịch và đã vào vai trong một số vở kịch của trường. Nếu không vì phải tham gia vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam và không vướng bận bởi những gì xảy ra sau đó thì có lẽ anh đã thành danh trên sân khấu. Hiện tại, Bob đang tham gia diễn các vở kịch do địa phương dàn dựng, đồng thời còn giữ một chân trong Ban Giám đốc. Họ đang lên kế hoạch cho một số vở kịch sẽ được diễn vào năm tới. Bob vẫn thường tự gọi vui vị trí mình đảm nhiệm trong nhà hát là “vị trí gian khổ”.
Lúc lái xe trên con đường gồ ghề dẫn về Cranberry, Bob vẫn miên man nghĩ tới thành công của vở Thành phố chúng ta chống lại bà mối. Huýt sáo bài “Hello, Dolly”, Bob tiếp tục lái xe và thoát khỏi gánh nặng đang đè lên vai mình. Chính vì thế anh rất yêu nghề diễn kịch. Anh có thể đắm mình trong một vai diễn và gạt bỏ mọi phiền toái sang một bên. Bạn bè trong Hội Những người cai rượu gọi đó là sự chối bỏ thực tại, nhưng Bob thì lại coi đó là đam mê nghệ thuật.
Chắc hẳn Peggy đã chuẩn bị sẵn một bữa tối ngon lành và đang chờ anh ở nhà. Hôm nay là thứ Hai, nên Bob đoán là vợ mình sẽ làm món tiêu xanh hoặc món thịt tuyệt vời. Món nào cũng khiến anh chảy nước miếng khi nghĩ đến. Bob vừa huýt sáo vừa lái xe trên con đường dẫn vào nhà. Anh nhận ra rằng vợ mình đang tưới cây trong vườn. Peggy luôn thích thú với việc chăm sóc khu vườn yêu quý. Cái tên nhà nghỉ Thyme và Tide cũng được lấy cảm hứng từ biển, bờ vịnh và vườn cây của Peggy. Khi không có khách, họ cùng nhau tận hưởng sự rảnh rỗi và thanh bình, cho dù rất hiếm hoi. Tiền nong của họ không mấy dư dả gì, nhưng Peggy là người vợ rất biết cách chi tiêu. Bob thì không có khiếu trong việc quản lý tiền nong, may mà anh có Peggy ở bên. Bob lái xe vào ga-ra rồi bước ra với vợ. Chị cầm vòi nước, miệng mỉm cười nhìn anh bước lại gần. Mặt trời vẫn tỏa ánh nắng chói chang mặc dù đã gần sáu giờ. Theo lịch, mùa hè sẽ chính thức bắt đầu vào cuối tháng. Nhưng cũng như mọi năm, phải sáu tuần nữa hè mới thực sự đến trên vùng đất Tây Bắc Thái Bình Dương. Kết đó là tháng Tám và tháng Chín sẽ dễ chịu với những làn mưa bụi lất phất.
“Chào em yêu”, Bob dừng lại ở rìa vườn. Mấy khóm thì là đang nở hoa, tỏa hương hăng hăng man mát. Từ dưới lớp đất màu mỡ, những cây mùi tây đang nảy mầm, khoe các chồi non xanh ngọc trên mặt đất.
“Tối nay chúng ta sẽ ăn gì nhỉ?”.
“Bánh mì thịt. Cuộc họp thế nào anh?”.
“Tuyệt”. Bob không kìm nổi nụ cười rạng rỡ.
“Tại sao anh cười? Anh đang giấu em chuyện gì à?” Peggy giơ cái vòi về phía chồng, giả vờ hăm dọa.
“Đời nào có chuyện anh giấu giếm em”. Bob lúng búng và giơ hai tay lên như đầu hàng. “Anh chỉ cười vì tối nay chúng ta sẽ được ăn bánh mì thịt, thế thôi”.
Peggy bước về phía ngôi nhà và tắt vòi nước. “Em xong rồi”. Bob gật đầu.
“Nếu anh có thời gian, em muốn nói chuyện một chút”. Anh ngập ngừng, Peggy chỉ sử dụng lối nói ấy khi gặp chuyện không ổn. “Có vấn đề gì chăng?”.
“Không hẳn thế”.
Chị có vẻ bí mật. Điều này tạo cho Bob cảm giác hơi bất an. Khi quan sát kỹ Peggy, Bob nhận ra rằng đáng lẽ mình phải phát hiện ra những dấu hiệu này từ trước. Peggy vốn là một người thích trò chuyện và có thiên khiếu trong giao tế. Chị có thể trao đổi với bất kỳ ai về bất kỳ đề tài gì. Chính nhờ khả năng này mà chị được nhiều người quý mến, và thu hút được nhiều khách hàng quen thuộc. Bob theo vợ vào phòng để dụng cụ làm vườn, nó cách nhà bếp một đoạn ngắn. Peggy thay đôi giày cao su và cất đồ làm vườn lên giá. Chị khác anh ở chỗ luôn giữ cho nơi làm việc gọn gàng ngăn nắp, đôi khi sự khác biệt này khiến Bob hơi bối rối. Anh thấy buồn phiền khi mình không thể gọn gàng, Vậy mà Peggy vẫn chịu đựng được sự lôi thôi của chồng, điều đó khiến Bob rất cảm kích.
“Có chuyện gì thế”. Anh lặp lại lúc họ bước vào bếp. Peggy rót cho mỗi người một cốc trà và đặt lên bàn. “Chiều nay Hannah Russel gọi điện cho em”. Đầu gối Bob như muốn khuỵu xuống. Anh kéo cái ghế ra ngồi và đưa tay với cốc trà của mình.
“Em rất lo”, Peggy ngồi đối diện với chồng và nói.
Bob biết là đã có chuyện gì đó. “Em lo về vấn đề gì?”. Họ đã quen với căng thẳng vì bị cuốn vào cơn ác mộng này quá lâu rồi. Nó đã trở thành một phần trong cuộc sống của họ và hai vợ chồng chẳng còn cách nào khác là đối diện với những cú sốc mới.
Peggy tiếp tục. “Cả bố và mẹ con bé đều đã chết. Nó giống như một linh hồn lạc lối. Nó đang suy sụp, Bob ạ”. Chị ngừng lại một chút. “Hôm nay em vừa nói chuyện với con gái của chúng ta và Hollie cho rằng, Hannah cần cảm giác an toàn. Em đồng ý điều đó”.
“Anh nghĩ rằng bất kỳ ai mất cả bố lẫn mẹ trong một thời gian ngắn cũng đều có cảm giác như con bé mà thôi”. Bob ghen tị với sự thân mật giữa vợ và con gái. Anh biết trong thời gian nghiện rượu, anh đã đánh mất một phần rất quan trọng trong đời sống của con cái mình. Peggy cầm chặt cái cốc. “Hannah gọi điện để cảm ơn em đã viết thư động viên”.
Bob quên bẵng mất là Peggy đã viết thư cho cô bé. Đó là một hành động đầy ý nghĩa.
“Con bé tâm sự với em là nó muốn chuyển đi.”
“Đi đâu?”.
“Vân đề là ở đó”, Peggy sầm mặt lại lo lắng. “Nó thú nhận là nó không biết, vậy mà vẫn bán tống bán tháo tất cả mọi thứ. Hollie nhận xét rằng Hannah đang chạy trốn khỏi nỗi đau đớn trong lòng, và rằng dù Hannah có đi đâu thì nỗi đau đớn vẫn sẽ dai dẳng đeo bám nó”.
Bob gật đầu. “Hollie nói đúng. Đi khỏi California không phải là ý hay. Hannah sẽ hối tiếc khi phải rời xa nơi từng là kỷ niệm”.
“Em cũng khuyên con bé như thế, nhưng nó bảo là đã quá muộn. Những gì cần bán đã bán, không bán được thì nó cũng cho người ta cả rồi”.
Bob càng trở nên lo lắng. Anh không chỉ thấy bất an cho Hannah. Mà anh còn nghĩ rằng biết đâu con bé đã vô tình bán đi những thứ có thể giúp họ khám phá mọi bí mật bấy lâu nay.
“Chưa hết đâu”, Peggy nói. “Em có cảm giác con bé đang định đi khắp đất nước này một cách vô định, cho đến khi nào nó tìm được một nơi mà... nó cảm thấy thoải mái”.
Bob ngồi lại trên ghế và suy ngẫm. Cô gái trẻ ấy đang bị tổn thương lớn về mặt tinh thần. Anh cũng chẳng bao giờ muốn con gái mình phải đi lang thang hết nơi này đến nơi khác. “Thế còn gia đình? Chắc chắn nó còn có cô dì chú bác nào nữa chú?”.
“Rõ ràng là nó chẳng còn ai.”
“Ừ”. Bob nhấp một ngụm trà.
“Em bảo con bé thỉnh thoảng gọi điện cho chúng ta.”
“Em làm thế đúng đấy”.
“Nhưng em không biết con bé có gọi không. Nó có vẻ bối rối”. Bob nghĩ về Hannah và chợt cảm thấy thương cho cô bé. “Em có hỏi nó xem chúng ta có thể giữ liên lạc với nó bằng cách nào không?”.
Peggy gật đầu. “Nó có điện thoại di động và đã cho em số. Bob à, vấn đề là chúng ta muốn can thiệp đến cuộc sống của nó ở mức độ nào?” Chị nhìn Bob và anh hiểu câu hỏi của vợ. Rõ ràng là chị cảm thấy mình nên có trách nhiệm đối với Hannah. Suy cho cùng, bố cô bé đã chết trong nhà họ. Và vì vậy, họ nên chia sẻ những khó khăn với cô gái trẻ này. Nhưng như thế là quá khả năng của vợ chồng Bob.
“Anh không biết”, anh thú nhận.
“Em cũng vậy”.
“Vậy theo em chúng ta nên làm gì?”, Bob hỏi. Anh tin vào trực giác của Peggy. Cái chết của Max Russel đã là một chủ đề không mấy dễ chịu, và bây giờ là Hannah. Nó gợi lại quá nhiều kỷ niệm buồn cho vợ chồng anh, nó làm sống dậy những ký ức buồn thảm và đau đớn mà Bob muốn chôn chặt trong lòng.
“Em không biết, nhưng em cảm thấy thật tội nghiệp cho con bé”. Bob đồng ý. Đôi khi, người ta không thể đứng vững trong cuộc sống mặc dù vẫn còn bố mẹ, và nếu không có bố mẹ ở bên cạnh thì việc đó càng khó khăn hơn rất nhiều. Chính con cái anh đã từng nản chí, nhưng với tình yêu thương và sự kiên nhẫn của bố mẹ, cuối cùng chúng đã tìm được lối đi cho chính mình. Bob phải thú nhận điều đó. Có lẽ giúp đỡ Hannah cũng chính là cơ hội để anh sửa chữa những sai lầm của mình cách đây hai mươi lăm năm. “Ít nhất mỗi tuần chúng ta nên gọi cho con bé một lần”, anh quyết định. Họ không thể thay thế bố mẹ cô bé, mà chỉ nên là những người bạn luôn ở bên an ủi, động viên cô bé mà thôi.
Peggy chậm rãi gật đầu. “Em nghĩ đó cũng là cách giúp đỡ con bé”, chị nhẹ nhàng. “Rồi Hannah sẽ hiểu rằng trên đời này vẫn còn có hai người quan tâm đến nó”.
“Đúng”. Bob dễ chịu hơn sau khi quyết định như vậy. Đây là một việc tốt nên làm. Nó giúp anh thoải mái hơn với những gì đã xảy ra ở quá khứ trong thế giới mong manh của chính mình.