Thảo nguyên - Chương 1

Thảo nguyên

(Chuyện một chuyến đi)

I.

VÀO BUỔI SÁNG SỚM một ngày tháng Bảy, có một chiếc xe ngựa không có dịp đã cũ nát rời thị trấn N. thuộc tỉnh Z. và lăn bánh ầm ầm trên con đường thiên lý. Đó là một trong những chiếc xe ngựa cổ lỗ mà ở Nga ngày nay chỉ những anh quản gia, những người lái buôn gia súc và những ông linh mục nghèo mới còn phải đi. Nó cứ kêu lọc xọc trên đường, và hễ trùng triềng một chút là cứ rít lên ken két. Một cái xô buộc sau thùng xe cất tiếng lạch cạch chán chường đệm theo. Chỉ cần nghe những âm thanh ấy và trông những mảnh da thuộc rách nát thảm hại lủng lẳng trên cái thân hình tiều tụy của nó cũng đủ thấy nó cũ quá đi rồi, chỉ còn chờ lúc được đem tấp vào đống đồ nát.

Ngồi trên xe có hai người vốn cư trú ở thị trấn N.: một thương nhân tên là Ivan Ivanứts Kudmitsốp, râu cạo nhẵn, đeo kính trắng, đầu đội mũ rơm, trông giống một ông công chức hơn là một người lái buôn; người kia là cha Khrixtophor Xirixki, cha xứ nhà thờ Nikôlai ở N., một cụ già nhỏ bé, tóc dài, mặc áo dài bằng vải bố màu xám, đội mũ lễ bánh thuẫn rộng vành, lưng thắt một dải nịt thêu màu. Người thứ nhất đang đăm chiêu suy nghĩ điều gì, chốc chốc lại lắc mạnh đầu mấy cái để xóa tan cơn buồn ngủ. Trên gương mặt ông ta, cái vẻ khô khan thường có của những người làm ăn chí thú xung khắc với cái vẻ hồn hậu của một người vừa chia tay gia quyến thân thuộc sau một bữa chén thỏa thuê; còn người thứ hai thì đưa đôi mắt nhỏ, ươn ướt bỡ ngỡ nhìn ra cảnh đất trời bao la của Chúa và nhoẻn rộng miệng ra cười, rộng đến nỗi có thể tưởng nụ cười ấy bao quát cả cái vành mũ. Mặt ông đỏ bừng, trông như bị lạnh. Cả hai người - Kudmitsốp cũng như cha Khrixtophor - đều đang đi bán lông cừu. Khi từ biệt người nhà, họ đã ăn no bánh mềm với kem sữa tươi, và tuy hãy còn sớm tinh mơ, họ đã uống khá nhiều rượu... Tinh thần cả hai người đều đang rất sảng khoái.

Ngoài hai người vừa được mô tả trên đây và anh xà ích Đenixka đang luôn tay quất roi lên lưng cặp ngựa hồng linh lợi, trên xe còn có một hành khách nữa là thằng bé lên chín, khuôn mặt nâu sạm đi vì rám nắng và ướt đẫm vì nước mắt. Đó là Iegoruska, cháu gọi ông Kudmitsốp bằng cậu. Được ông cậu cho phép và được cha Khrixtophor ban phép lành, nó đang ở trên đường đến trường trung học. Mẹ nó là bà Onga Ivanốpna, quả phụ của một ông thư ký hội đồng xã và là chị ruột ông Kudmitsốp. Bà vốn quý trọng những người có học thức và giới thượng lưu quý phái, đã khẩn khoản ông em nhân đi bán lông cừu hãy đem cháu đi một thể và gửi nó vào trường trung học. Thế là giờ đây thằng bé, chẳng hiểu mình đi đâu và để làm gì, phải ngồi trên ghế xà ích bên cạnh Đenixka, bám vào khuỷu tay anh ta cho khỏi ngã bật ra ngoài, người cứ rung lên như chiếc ấm trà đặt trên lò sưởi. Xe chạy nhanh làm cho chiếc áo sơ mi đỏ của nó căng phồng ra sau lưng như quả bóng và cái mũ mới kiểu xà ích cắm chiếc lông công chốc chốc lại tuột ra sau gáy. Nó cảm thấy mình là người tối bất hạnh, và chỉ muốn khóc òa lên.

Khi xe chạy qua nhà lao, Iegoruska nhìn mấy người lính canh đang thong thả đi lại dọc bức tường trắng, nhìn những khung cửa sổ hẹp có chấn song sắt, nhìn cây thánh giá lấp loáng trên mái, và nhớ lại rằng một tuần trước đây, nhân ngày lễ Đức mẹ Kadan, nó đã theo mẹ đến giáo đường của nhà lao để xem buổi lễ Ngôi. Với lại trước nữa, vào ngày lễ Phục Sinh, nó cũng đã đến nhà lao với chị bếp Luđmila và anh xà ích Đenixka, mang theo bánh mì, đường, trứng, chả rán và thịt bò rán; các phạm nhân đều cám ơn và làm dấu thánh, một người trong bọn họ có biếu Iegoruska mấy chiếc khuy cài tay bằng thiếc tự làm lấy.

Thằng bé náo nức nhìn lại những nơi quen thuộc trong khi chiếc xe đáng ghét chạy đi, bỏ mọi thứ lại ở sau lưng. Kế theo nhà lao là mấy cái lò rèn ám khói đen kịt loang loáng lướt về phía sau, rồi đến khu nghĩa địa xanh rờn, ấm cúng, có một bức tường xây bằng đá cuội lớn bao bọc xung quanh. Nấp trong đám lá anh đào xanh tốt, những cây thập tự và những tấm bia trắng muốt từ sau bức tường nghĩa địa vui vẻ dòm ra, trông xa như những cái vệt trắng. Iegoruska nhớ lại rằng vào tiết hoa anh đào nở, những cái vệt này hòa với màu hoa anh đào thành một biển trắng xóa, rồi đến mùa quả anh đào chín, bia và cây thập tự trong nghĩa địa đều điểm lấm tấm những chấm đỏ thắm như máu. Sau bức tường kia, bố Iegoruska và bà nội Đanilốpna của nó đêm ngày yên nghỉ.

Hồi bà nội chết, người ta bỏ bà vào một cái quan tài dài và hẹp, lấy hai đồng năm kôpếch đặt lên đôi mắt mãi không chịu nhắm lại. Trước khi chết, bà nội vẫn sống như mọi người, và đi chợ bà thường mua về cho nó những chiếc bánh mì vòng rắc hạt anh túc. Còn bây giờ thì bà đã ngủ yên, ngủ mãi mãi...

Sau nghĩa địa lại đến những lò nung gạch bốc khói. Khói đen dày đặc từ những tấm mái sậy dài và thấp lè tè cuộn lên từng đám lớn, uể oải bốc lên cao. Phía trên mấy cái lò gạch và khu nghĩa địa là một khoảng trời u ám, và những cái bóng rợp lớn do đám khói hắt xuống trườn trên cánh đồng, bò qua con đường cái. Trong đám khói tỏa quanh mái nhà vật vờ những bóng người và những con ngựa, mình phủ một lớp bụi đỏ...

Đi quá mấy cái lò nung gạch là hết địa phận của thị trấn, bắt đầu ra đồng ruộng. Iegoruska ngoái lại nhìn thị trấn lần cuối cùng, úp mặt vào khuỷu tay Đenixka và khóc nức nở...

- Kìa, khóc chưa đã hay sao, cái thằng nhè này! - Kudmitsốp nói. - Lại phun nhớt phun dãi ra rồi, hư Không muốn đi thì ở lại. Có ai bắt mày đi đâu!

- Không sao đâu, anh bạn Iegoruska ạ, - cha Khrixtophor nói lắp bắp. - Không sao đâu anh bạn ạ... Cầu Chúa cứu giúp đi... Con đi là đi việc tốt lành chứ có phải đi đày đi ải gì mà khóc. Người ta đã nói học vấn là ánh sáng, thất học là bóng tối mà... Đúng như thế đấy.

- Cháu có muốn quay về không? - Kudmitsốp hỏi.

- Mu... muốn... - Iegoruska vừa nấc vừa đáp.

- Mà về cũng phải. Đằng nào thì đi cũng chẳng được cái gì, lại chỉ công cốc thôi.

- Không sao đâu mà, không sao đâu... - cha Khrixtophor nói tiếp. - Con cầu nguyện Chúa đi... Kìa như Lômônôxốp cũng phải đi đánh cá với bạn chài mãi(1) thế mà sau đã thành người nổi tiếng khắp châu Âu đấy. Trí tuệ mà đi với đức tin thì sẽ đem lại những kết quả đẹp lòng Chúa. Trong bài kinh nói thế nào nhỉ? Rạng danh cho đức Chúa, vui lòng cho mẹ cha, lợi cho giáo hội và Tổ quốc... Thế kia mà!

- Lợi cũng có dăm bảy đằng... - Kudmitsốp vừa nói vừa châm một điếu xì gà rẻ tiền. - Có người ăn học suốt hai mươi năm mà cũng chẳng làm nên tích sự gì.

- Cũng có khi thế thật.

- Người thì học vào có lợi, kẻ thì học vào chỉ đâm rối óc. Bà chị tôi là người ít hiểu biết, cái gì cũng thích làm như quý tộc, bà ta muốn cho thằng Iegoruska có học vấn, chứ không hiểu rằng với công việc làm ăn của tôi, tôi có thể làm cho Iegoruska sung sướng cả đời. Hơn nữa cũng xin thưa để ông rõ rằng nếu mọi người đều thành học giả hoặc lại là ông lớn cả thì lấy ai mà buôn bán và đi cày nữa. Rồi đến chết đói hết.

- Nhưng nếu ai cũng đi buôn và đi cày cả, thì còn ai thông hiểu học vấn nữa?

Cả hai người đều nghĩ rằng mình vừa nói ra một điều gì có trọng lượng và có sức thuyết phục lắm, làu bàu ra vẻ nghiêm trang và cùng đằng hắng một tiếng rõ đều. Đenixka lắng nghe hai người nói chuyện nhưng chẳng hiểu gì sốt, bèn lắc mạnh đầu một cái, nhỏm người dậy quất roi lên cả hai con ngựa hồng. Trên xe im lặng một lát.

Trong khi đó trước mặt mấy người đi đường đã trải ra một cánh bình nguyên rộng mênh mông có một dãy đồi vắt ngang chen chúc nhau, nhấp nhỏm dòm qua vai nhau, mấy ngọn đồi này dần dần nhập lại thành một hàng chạy dài từ vệ đường bên phải cho đến tận chân trời rồi mất hút trong khoảng không màu tím nhạt; xe cứ đi mãi mà vẫn không trông rõ được dãy đồi bắt đầu ở chỗ nào và chấm dứt ở chỗ nào... Mặt trời đã ló lên từ phía sau thị trấn và từ tốn, ung dung bắt tay vào việc. Lúc đầu, xa tắp phía trước mặt, nơi đất lẫn với trời, bên cạnh mấy cái gò và chòi xay gió trông xa như một thằng người nho nhỏ đang vung tay, có một dải nắng rộng màu vàng rực trườn đi trên mặt đất; một phút sau chính cái dải ấy ánh lên gần hơn, trườn sang bên phải và trùm lên dãy đồi; một cái gì âm ấm chạm vào lưng Iegoruska, và một vệt sáng từ phía sau len lên, chồm qua chiếc xe ngựa và cặp ngựa, lao tới gặp các dải sáng khác, và đột nhiên cả cánh thảo nguyên rộng mênh mông cởi bỏ tấm chăn tối mờ mờ của buổi sáng sớm, mỉm cười và bắt đầu phô ra muôn vàn giọt sương sớm long lanh.

Những cánh đồng tiểu mạch đã gặt xong, những đám cỏ dại, những bụi gai, những khóm đay dại - tất cả đều đã sém đi vì nắng, ngả sang màu hung nâu nâu và như chết dở, nhưng giờ đây, được làn sương mai tắm gội và được ánh nắng vuốt ve, đã lại hồi sinh để nở hoa trở lại. Trên mặt đường, những con chim “ông lão” cất tiếng hót tươi vui bay qua vun vút; trong đám cỏ, mấy con chuột nhảy gọi nhau, và xa xa đâu về phía bên trái, có tiếng nức nở của mấy con chim dẽ mào. Một đàn chim cun cút hoảng sợ trước chiếc xe ngựa cất cánh bay vụt lên và trong tiếng vỗ cánh rào rạo mềm mại rủ nhau bay về phía dãy đồi. Trong đám cỏ, châu chấu, cào cào, dế mèn, xén tóc thi nhau kéo dài điệu nhạc rả rích đơn điệu của chúng.

Nhưng chỉ một lát sau sương mai đã bốc hơi hết, không khí ngưng đọng lại, và cánh thảo nguyên bị mắc lừa lại trở lại với cái vẻ chán chường của tháng Bảy. Cỏ rũ xuống, sự sống lại lịm đi. Những dãy đồi rám nắng, gần thì màu hung pha lẫn màu xanh, xa thì màu tím, với những sắc độ điềm đạm như bóng tối, dải đồng bằng mờ dần ở phía xa, và bầu trời úp lên trên cánh thảo nguyên không có rừng và núi cao trông sâu thẳm và trong suốt đến phát sợ lên; tất cả bây giờ đều có vẻ vô cùng vô tận và lặng điếng đi nhớ nhung...

Sao mà ngột ngạt và buồn tẻ quá! Chiếc xe chạy mãi, và Iegoruska nhìn mãi cũng vẫn chỉ thấy có thế - bầu trời, dải đồng bằng, mấy dãy đồi... Điệu nhạc trong cỏ đã ngừng bặt. Chim “ông lão” đã bay đi, chim cun cút chẳng còn thấy đâu nữa. Trên lớp cỏ héo, mấy con quạ chẳng biết làm gì cho qua ngày cứ lượn qua lượn lại, con nào cũng giống hệt con nào, làm cho thảo nguyên càng đơn điệu hơn nữa.

Một con diều hâu bay là là sát mặt đất, cánh vỗ khoan thai, rồi bỗng nhiên dừng lại giữa khoảng không, như thể ngẫm nghĩ về sự tẻ nhạt của cuộc sống, rồi lại vỗ cánh lao như mũi tên trên thảo nguyên, và không sao hiểu được nó bay như thế để làm gì, nó cần cái gì. Xa xa, chiếc chòi xay gió vẫn vùng vẫy mấy cánh quạt...

Để cho quang cảnh đỡ đơn điệu, thỉnh thoảng trong đám cỏ dại lại thấp thoáng một cái sọ trắng hay một hòn đá; trong chốc lát thấy nhô lên một tảng đá lớn hình đàn bà hay một cây liễu trắng khô có một con chim sả màu xanh đậu ở cành cao nhất, một con chuột nhảy vụt qua đường, rồi đâu đấy lại như cũ: vẫn những đám cỏ dại, những dãy đồi, những con quạ...

Nhưng may thay từ phía trước đi lại một chiếc xe chở mấy bó lúa, có một cô con gái nằm vắt vẻo ở trên cùng. Buồn ngủ, mệt mỏi vì nóng nực, cô ta ngẩng đầu lên nhìn mấy người ngồi trên chiếc xe đi ngược lại. Đenixka ngẩn người ra nhìn cô gái, hai con ngựa ô vươn mõm về phía mấy bó lúa, chiếc xe rít lên, hôn chiếc xe thồ một cái, và những bông lúa sắc nhọn như cái chòi quệt lên cái mũ rộng vành của cha Khrixtophor.

- Đi đâm bừa vào người ta thế này, hả cô béo? - Đenixka quát. - Mặt thì phì bự ra như ong đốt thế kia kìa!

Cô gái uể oải mỉm cười, mấp máy đôi môi, rồi lại nằm xuống... A, kia, trên một ngọn đồi hiện ra một cây dương cô độc; ai trồng nó lên và nó đứng đấy để làm gì - có trời biết. Dáng cây cao dong dỏng, lá cây như một bộ trang phục xanh tươi, khó lòng rời mắt ra được. Đẹp như vậy, cây có sung sướng không? Mùa hè thì nắng như thiêu như đốt, mùa đông thì băng giá và bão tuyết, mùa thu thì những đêm dài hãi hùng, xung quanh chỉ thấy bóng tối dày đặc, chỉ nghe tiếng gió rú man dại, giận dữ, nhưng cái chính là một đời cô độc một mình... Sau cây dương là những dải lúa mì từ đỉnh đồi chạy dài xuống sát đường cái làm thành một tấm thảm vàng rực. Trên đồi lúa đã gặt hết và vun lại thành từng đống, còn ở phía dưới thì còn đang gặt dở... Sáu người thợ gặt đứng thành hàng ngang khoa đều mấy cái hái, và mấy cái hái cũng vui vẻ ánh lên đồng thanh kêu: “Sít! sít!” rất đều nhịp. Trông động tác của mấy người đàn bà đang bó lúa, trông vẻ mặt mấy người thợ gặt trong ánh loang loáng ở cây lưỡi hái, đều thấy rõ là nắng đang thiêu đốt họ và làm cho họ ngột ngạt. Một con chó đen, lưỡi thè lè, từ đám thợ gặt chạy về phía chiếc xe ngựa, chắc là định sủa, nhưng nửa đường bỗng đứng lại và thờ ơ nhìn Đenixka đang giơ roi lên dọa nó: sủa chỉ tổ nóng thêm! Một người đàn bà đứng dậy, hai tay ôm lấy cái lưng mỏi dừ, đưa mắt nhìn theo chiếc áo sơ mi đỏ của Iegoruska.

Không biết vì màu đỏ này vui mắt bà ta, hay vì bà ta nhớ đến mấy đứa con ở nhà, chỉ thấy bà ta đứng nhìn theo hồi lâu, không nhúc nhích...

Nhưng thửa lúa mì cũng đã lùi về phía sau. Hai bên lại rặt một dải đồng bằng cháy sém, lại những quả đồi rám nắng, lại bầu trời oi ả, lại con diều hâu bay là là trên mặt đất. Xa xa, cái chòi xay gió vẫn vung vẩy mấy cánh quạt như trước, và trông nó vẫn giống như một thằng người tí hon đang vung tay. Nhìn cái cối xay mà phát chán ra, hình như không bao giờ có thể đến tận chỗ nó, nó cứ lùi ra mãi, trốn chiếc xe ngựa.

Cha Khrixtophor và ông Kudmitsốp lặng thinh. Đenixka vẫn quất roi lên hai con ngựa và thỉnh thoảng cất tiếng quát giục. Còn Iegoruska thì không khóc nữa, chỉ thờ ơ nhìn sang hai bên đường. Khí trời nóng nực và nỗi buồn bao trùm lên thảo nguyên đã làm cho nó mỏi mệt. Nó có cảm giác đã đi như thế này từ lâu lắm, và nắng cũng đã xỉa xói vào lưng nó từ lâu. Xe đi chưa được mười vécxta mà nó đã nghĩ thầm: “Đã đến lúc nghỉ rồi!” Trên gương mặt ông cậu, vẻ hồn hậu đã dần dần mất đi, chỉ còn lại cái vẻ khô khan của người làm ăn chí thú, và trên khuôn mặt gầy gò, râu cạo nhẵn như thế, nhất là lại đeo kính và mũi và thái dương lại phủ đầy bụi, thì cái vẻ khô khan ấy lại mang thêm sắc thái khắc nghiệt tàn nhẫn. Còn cha Khrixtophor thì vẫn ngạc nhiên ngắm nhìn cảnh đất trời xung quanh và vẫn mỉm cười. Cha đang im lặng nghĩ đến một điều gì tốt lành, vui vẻ lắm, và nụ cười hiền hậu, chất phác đã ngưng đọng trên gương mặt của cha. Hình như cái ý nghĩ tốt lành, vui vẻ ấy cũng ngưng đọng lại trong óc cha vì khí trời nóng nực.

- Thế nào đây Đenixka, liệu hôm nay có đuổi kịp mấy cái xe chở hàng không? - ông Kudmitsốp hỏi.

Đenixka ngước mắt nhìn lên trời một cái, nhổm người quất ngựa rồi mới đáp:

- Nếu thuận trời thì đến đêm là đuổi kịp...

Có tiếng chó sủa. Một đàn sáu con chó khổng lồ, giống chó chăn cừu ở thảo nguyên, bỗng xồ ra như đã phục kích đấy từ trước, sủa rú lên dữ dội và nhất tề lao cả vào chiếc xe. Cả đàn chó hết sức hung hãn, mõm xù lông trông như mình nhện, mắt đỏ ngầu lên vì giận dữ, vây quanh chiếc xe, xô đẩy nhau như ganh ăn và cất tiếng rú khàn khàn. Chúng căm lắm thì phải, và hình như sẵn sàng xé tan ra từng mảnh cả xe lẫn người... Đenixka vốn thích chòng ghẹo và quất roi, nên rất mừng trước cái dịp may này. Anh làm ra một vẻ mặt hả hê đanh ác, cúi xuống quất roi vào một con chó chăn cừu trong đàn. Đàn chó càng rú lên dữ dội hơn, hai con ngựa phóng càng nhanh; và Iegoruska cứ nảy người lên bần bật chỉ chực bắn ra khỏi chiếc ghế xà ích. Nó hiểu rằng nó mà lăn xuống đất thì chỉ trong nháy mắt sẽ bị đàn chó xé tan ra từng mảnh, nhưng nó không thấy sợ; nó cũng nhìn một cách hả hê đanh ác như Đenixka, và lấy làm tiếc rằng trong tay mình không có cây roi ngựa.

Chiếc xe đã chạy đến ngang tầm một đàn cừu.

- Đứng lại! - Kudmitsốp quát. - Giữ ngựa lại!

Đenixka rướn hẳn người về phía sau để kìm đôi ngựa. Chiếc xe dừng lại.

- Lại đây! - ông Kudmitsốp gọi người chăn cừu. - Giữ mấy con chó chết tiệt ấy lại chứ!

Người chăn cừu, một ông lão rách rưới đi chân đất, đầu đội mũ chụp lông, trên đùi lủng lẳng một cái túi bẩn thỉu, tay cầm một cây sào dài có cái móc ở đầu - đúng hệt một nhân vật lụ khụ - xua đàn chó đi rồi cất mũ đến cạnh chiếc xe ngựa. Ở phía bên kia đàn cừu cũng có một bóng dáng lụ khụ y hệt như vậy đứng im không nhúc nhích, thản nhiên nhìn mấy người ngồi trên xe.

- Cừu của ai đây? - Kudmitsốp hỏi.

- Của Varlamốp đấy! - ông lão đáp rất to.

- Của Varlamốp đấy! - ông lão phía bên kia đàn cừu nhắc lại.

- Thế sao, hôm qua xe ông Varlamốp có đi qua đây không?

- Không... Có ông quản gia đi xe qua thì có...

- Thôi ta

Xe lại chuyển bánh lăn đi, và hai ông lão chăn cừu với đàn chó lại tụt lại phía sau. Iegoruska miễn cưỡng nhìn về phía trước, vào khoảng không màu tím ở phía xa, và cậu bé đã bắt đầu có cảm giác là cái chòi xay gió đang vung mấy cánh quạt bây giờ đã dần dần nhích gần lại. Nó mỗi lúc một to ra, lớn hẳn lên, và đã có thể nhận rõ hai cái cánh quạt của nó. Một cánh thì đã cũ, chắp vá, còn cánh kia thì mới làm lại bằng gỗ mới, loang loáng dưới nắng.

Xe thì đi thẳng thế mà cái chòi xay gió không hiểu sao bắt đầu chuyển sang bên trái. Xe cứ đi, đi mãi, còn cái chòi xay gió thì cứ chuyển dần sang bên trái và mãi không khuất mắt.

- Lão Boltva xây cho con trai cái chòi xay gió tốt thật! - Đenixka nhận xét.

- Sao không thấy cái ấp của ông ta đâu nhỉ?

- Mãi tít đằng kia, sau cái khe kia.

Một lát sau cái ấp của Boltva cũng đã hiện ra, nhưng cái chòi xay gió mãi vẫn không lùi về phía sau, không chịu tụt lại, nó vẫn nhìn Iegoruska với cái cánh loang loáng và vẫn vậy. Thật là một lão phù thủy.

___________

1. Lômônôxốp Mikhain Vaxiliêvíts (1711-1765), nhà nghiên cứu tự nhiên, nhà bác học Nga đầu tiên được công nhận là có ý nghĩa thế giới, nhà thơ,ặt cơ sở cho ngôn ngữ văn học Nga hiện đại, người họa sĩ, nhà hoạt động xã hội. Sinh trưởng trong một gia đình nông dân ở làng Khônmơgorư, gần với thành phố Arkhanghenxcơ (cực Bắc của phần đất phía Tây của nước Nga). Những kiến thức học vấn đầu tiên có được là do tự học. Năm 1731, với mục đích học thêm, ông lên Maxcơva theo chiếc xe của những người đánh cá, chở cá ướp lạnh. Suốt đoạn đường tới Maxcơva ông đều phải đi bộ.