Vợ người du hành thời gian - Phần I - Chương 11 phần 1
Sinh nhật
Chủ Nhật, 24/5/1992 (Clare 21 tuổi, Henry 28 tuổi)
CLARE: Hôm nay là sinh nhật lần thứ 21 của tôi. Một buổi tối mùa hè hoàn hảo. Tôi đang ở trong căn hộ của Henry, trên giường của Henry, và đọc The Moonstone. Henry đang ở trong căn bếp tí teo chuẩn bị bữa tối. Lúc khoác lên chiếc áo choàng tắm và hướng về phía nhà vệ sinh, tôi nghe tiếng anh ấy chửi thề với cái máy xay. Tôi từ tốn gội đầu, hơi nước làm mờ cả những chiếc gương. Tôi nghĩ đến việc cắt tóc. Sẽ thích làm sao nếu có thể gội đầu, chải tóc nhanh chóng và sẵn sàng để cuồng loạn. Tôi thở dài. Henry yêu mái tóc của tôi như thể nó là một sinh vật có ý thức riêng, như thể nó có linh hồn riêng, và như thể nó có thể đáp lại tình yêu của anh ấy. Tôi biết anh ấy yêu nó như một phần con người tôi, và tôi cũng biết anh ấy sẽ rất buồn nếu tôi cắt nó. Tôi cũng sẽ nhớ nó nữa. Chỉ là nó cần thật nhiều công sức, đôi khi tôi muốn gỡ nó ra như một bộ tóc giả và đặt nó sang một bên để ra ngoài chơi. Tôi cẩn thận chải tóc, gỡ những lọn rối. Tóc tôi thật nặng khi bị ướt. Nó kéo đầu tôi trĩu nặng. Tôi mở cửa phòng tắm để cho hơi nước bay đi. Henry đang hát thứ gì đó như Carmina Burana; nghe kì quái và lạc tông. Tôi bước ra khỏi phòng tắm trong lúc anh ấy đang dọn bàn ăn. “Đúng giờ lắm; bữa tối đã sẵn sàng.”
“Đợi một phút, để em mặc đồ đã.”
“Như vậy được rồi, thật đấy.” Henry đi vòng quanh bàn, mở áo choàng tắm ra và đưa tay vuốt nhẹ qua ngực tôi.
“Hừm, bữa tối sẽ nguội mất.”
“Bữa tối nguội rồi. Nó phải nguội như vậy.”
“Ừ, thì, hãy ăn tối thôi.” Tôi đột nhiên mệt lả, và khó tính.
“Được rồi.” Henry buông tôi ra mà không nói thêm một lời. Anh ấy trở lại với việc sắp xếp dao dĩa bạc. Tôi ngắm anh ấy một phút, rồi nhặt quần áo lên từ khắp mọi nơi trên sàn và mặc chúng vào. Tôi ngồi xuống bàn; Henry mang ra hai bát súp, nhợt nhạt và dày đặc. “Súp tỏi và khoai. Công thức của bà anh.” Tôi húp một thìa. Hoàn hảo, ngậy và mát. Món tiếp theo là cá hồi, với một lát măng tây dài trong dầu ô liu và nước ướp hương thảo. Tôi mở miệng để nói điều gì đó tốt đẹp về đồ ăn nhưng thay vào đấy lại nói, “Henry… những người khác có ngủ với nhau nhiều như chúng ta không?”
Henry cân nhắc. “Hầu hết những người khác… không, anh nghĩ là không. Chỉ những người mới quen nhau và vẫn chưa thể tin vào sự may mắn của mình. Như vậy là quá nhiều?”
“Em không biết. Có thể.” Tôi nói mà không rời mắt khỏi đĩa. Tôi không thể tin rằng mình đang nói điều này; tôi đã dành cả tuổi trưởng thành của mình để cầu xin Henry ngủ với tôi và giờ tôi đang bảo anh ấy rằng như vậy là quá nhiều. Henry ngồi rất im lặng.
“Clare, anh xin lỗi. Anh đã không nhận ra, anh không nghĩ đến điều đó.”
Tôi ngẩng đầu lên; Henry có vẻ hoang mang. Tôi bật cười. Henry mỉm cười, có đôi chút hối lỗi, nhưng mắt anh ấy thì hấp háy.
“Chỉ là, anh biết đấy, có những ngày em không thể ngồi nổi nữa.”
“Em chỉ cần lên tiếng. Cứ nói rằng ‘Không phải đêm nay, anh yêu, chúng ta đã làm 23 lần hôm nay rồi, em muốn đọc Bleak House.’”
“Và anh sẽ ngoan ngoãn nghe theo, không đòi hỏi?”
“Anh vừa làm theo đó thôi, chẳng phải sao? Khá ngoan ngoãn còn gì.”
“Phải. Nhưng rồi em cảm thấy tội lỗi.”
Henry bật cười. “Em không thể trông chờ anh giúp em trong khoản đó được. Đó có thể là hi vọng duy nhất của anh: ngày qua ngày, tháng đoạn tháng, anh sẽ trở nên còm cõi, thèm thuồng một nụ hôn, ham muốn được quan hệ sẽ quắt queo dần, và sau một thời gian em sẽ ló đầu ra khỏi cuốn sách của mình và nhận ra anh sẽ thực sự chết dưới chân em nếu em không ngủ với anh ngay lập tức, nhưng anh sẽ không nói một lời. May ra sẽ chỉ thốt ra những tiếng rên rỉ thì thầm.”
“Nhưng… em không biết, ý em là, em thì mệt lả, còn anh thì chẳng sao. Có phải em bất bình thường hay không?”
Henry nhoài người qua bàn và chìa tay ra. Tôi đặt tay mình lên tay anh ấy.
“Clare.”
“Dạ?”
“Có thể sẽ khiếm nhã khi nói điều này, và em bỏ quá, nhưng ham muốn tình dục của em vượt xa hầu hết tất cả những phụ nữ mà anh đã từng hẹn hò. Nếu là hầu hết những người khác họ đã thét gọi tên Chúa và không thèm nghe điện của anh hàng tháng trước rồi. Nhưng đáng lẽ anh phải biết… em luôn có vẻ thích thú. Nhưng nếu là quá nhiều, hoặc khi em không muốn, em phải nói cho anh biết, bằng không anh sẽ cứ bồn chồn và tự hỏi liệu anh có đang khổ sở với nhu cầu gớm ghiếc của anh.”
“Nhưng bao nhiêu là vừa đủ?”
“Đủ cho anh? Ồ, Chúa ạ. Ý tưởng của anh về một cuộc sống hoàn hảo là nếu chúng ta có thể ở trên giường cả ngày. Chúng ta sẽ quan hệ không ngừng nghỉ, và chỉ đứng dậy để lấy đồ dùng thiết yếu, nước và hoa quả để tránh bị thiếu vitamin, thi thoảng vào nhà tắm để cạo râu trước khi vùi đầu lên giường trở lại. Rồi lâu lâu chúng ta có thể thay ga trải giường. Và đi xem phim để tránh thối loét do nằm liệt giường. Và chạy nữa. Anh sẽ vẫn phải chạy mỗi buổi sáng.” Chạy bộ là tín ngưỡng đối với Henry.
“Tại sao phải chạy? Đằng nào anh cũng sẽ được tập thể dục không ngừng rồi.”
Anh ấy đột nhiên nghiêm túc. “Vì khá thường xuyên cuộc sống của anh phụ thuộc vào việc anh có thể chạy nhanh hơn kẻ đang rượt đuổi anh đến mức nào.”
“Ồ.” Giờ thì đến lượt tôi lúng túng, vì tôi đã biết điều đó. “Nhưng… biết nói thế nào nhỉ?... có vẻ như anh không đi đâu cả, kể từ khi anh gặp em trong hiện tại, anh hiếm khi du hành thời gian nữa. Phải không?”
“Vào Giáng Sinh, em đã chứng kiến rồi đấy. Và khoảng lễ tạ ơn nữa. Lúc đó em đang ở Michigan, anh không muốn nhắc đến nó vì anh đã rất phiền muộn.”
“Anh lại chứng kiến vụ tai nạn?”
Henry nhìn tôi chằm chằm. “Đúng vậy. Làm sao em biết?”
“Vài năm trước anh xuất hiện ở Sáo Bắc Mỹ vào dịp Giáng Sinh và kể cho em nghe. Anh đã rất buồn.”
“Phải rồi. Anh nhớ đã rất buồn khi chỉ cần nhìn vào ngày tháng đó trong danh sách, Chúa ạ, một Giáng Sinh phụ trội phải vượt qua. Chưa kể đó là một Giáng Sinh vốn đã tồi tệ; anh bị ngộ độc rượu và phải rửa ruột. Hi vọng anh đã không làm hỏng kì lễ của em.”
“Không. Em đã rất hạnh phúc khi gặp được anh. Và anh đã kể cho em nghe một điều rất quan trọng, rất riêng tư, cho dù anh đã cẩn thận không nói ra bất kì cái tên hay địa điểm nào. Nhưng nó vẫn là cuộc sống thực của anh, và em đã rất thèm khát bất kì thứ gì có thể giúp em tin rằng anh là thực chứ không phải một triệu chứng tâm thần trong em. Đó cũng là lí do vì sao em đã luôn chạm vào anh.” Tôi cười. “Em đã không nhận ra mình đã khiến anh khổ sở đến mức nào. Ý em là, em đã làm tất cả mọi việc em có thể nghĩ đến, mà anh vẫn điềm tĩnh hết mức. Chắc hẳn anh đã thèm muốn chết.”
“Ví dụ?”
“Món điểm tâm là gì nhỉ?”
Henry đảm đang đứng dậy lấy điểm tâm. Món kem xoài và quả mâm xôi. Có một cây nến nhỏ ló ra từ một góc; Henry hát Chúc mừng sinh nhật và tôi khúc khích cười vì anh ấy hát lạc tông hết cả; tôi ước rồi thổi nến. Kem có vị rất tuyệt; tôi rất hớn hở, và lục lọi trí nhớ để tìm lần nhử Henry đặc biệt nhất.
“Được rồi. Đây là vụ tệ nhất. Lúc đó em 16 tuổi, em đang đợi anh vào một buổi tối muộn. Đang khoảng 11 giờ, ngoài trời có trăng non, nên rất tối trong khoảng rừng thưa. Em đang rất bực với anh, vì anh đối xử với em như một đứa trẻ, hay như một cô bạn gái bình thường, đại loại thế… và em rất nóng lòng được đánh mất sự trinh trắng. Đột nhiên em nảy ra ý nghĩ giấu quần áo của anh đi...”
“Ôi, không.”
“Phải. Nên em đã giấu quần áo sang một chỗ khác…” Tôi hơi xấu hổ vì câu chuyện này, nhưng đã quá muộn.
“Và?”
“Và anh xuất hiện, em căn bản đã chòng ghẹo anh cho đến khi anh không thể chịu đựng nổi.”
“Và?”
“Và anh nhảy chồm lên em, ghìm chặt lấy, và trong khoảng 30 giây, cả em và anh đã nghĩ ‘Là lúc này đây’. Không phải như anh đã cưỡng hiếp em, vì em đã hoàn toàn tự nguyện đòi hỏi. Nhưng mặt anh lộ vẻ như vậy, rồi anh nói ‘Không’, và anh đứng dậy bỏ đi. Anh đi thẳng vào đồng cỏ qua những rặng cây và em đã không gặp lại anh trong suốt ba tuần sau đó.”
“Ồ. Anh ta có vẻ đứng đắn hơn anh nhiều.”
“Em rất áy náy nên đã cố gắng hết sức để hành xử đàng hoàng trong hai năm sau đó.”
“Cảm ơn Chúa. Anh không thể hình dung sẽ thế nào nếu phải tự kiềm chế mình thường xuyên hơn.”
“Nhưng anh sẽ. Đó là điều đáng kinh ngạc nhất. Suốt một thời gian dài em đã nghĩ anh không thích em. Dĩ nhiên, nếu chúng ta sẽ dành suốt quãng đời còn lại trên giường, thì em nghĩ anh có thể thực hành chút kiềm chế trong những cuộc dạo chơi của anh tới quá khứ của em.”
“Anh không đùa về việc muốn quan hệ nhiều đến thế. Ý anh là, anh biết nó nghe không thiết thực. Nhưng có một điều anh muốn nói với em từ lâu: anh cảm thấy rất khác. Anh thấy rất gần gũi với em. Và anh nghĩ chính điều đó đã giữ anh ở lại với hiện tại. Được gần gũi thể xác như cách chúng ta gần gũi đã sắp xếp lại não bộ của anh” Henry vuốt tay tôi bằng những đầu ngón tay của anh ấy. Rồi anh ấy ngẩng lên. “Anh có thứ này cho em. Hãy đến đây ngồi.”
Tôi đứng dậy và đi theo anh ấy vào phòng ngủ. Anh ấy xếp giường lại thành ghế tràng kỉ và tôi ngồi xuống. Mặt trời đang nép bóng và căn phòng tắm chìm trong ánh sáng hồng cam. Henry ở bàn, thò tay vào ngăn kéo và lôi ra một chiếc túi satin nhỏ. Anh ấy chỉ ngồi cách xa tôi chút xíu; đầu gối chúng tôi chạm vào nhau. Chắc hẳn anh ấy có thể nghe thấy tiếng tim mình đang đập, tôi nghĩ. Là giây phút này đây. Henry cầm tay tôi và nhìn tôi nghiêm trang. Mình đã đợi giây phút này lâu lắm rồi, giờ nó đã đến và mình đang sợ.
“Clare?”
“Vâng?” giọng tôi nhỏ bé và run rẩy.
“Em biết rằng anh yêu em. Em sẽ lấy anh chứ?”
“Vâng… Henry.” Một cảm giác quen thuộc trào dâng. “Nhưng anh biết đấy, thực ra thì… em đã lấy anh rồi.”
Chủ nhật, 31/5/1992 (Clare 21 tuổi, Henry 28 tuổi)
CLARE: Henry và tôi đang đứng trong tiền sảnh căn hộ nơi anh ấy đã lớn lên. Chúng tôi đã hơi muộn, nhưng vẫn chỉ đứng đây; Henry đang tựa vào thùng thư và thở chậm rãi, mắt nhắm tịt.
“Đừng lo lắng”, tôi nói. “Sẽ không thể tệ hơn lần anh gặp mẹ em.”
“Bố mẹ em đã rất tử tế với anh.”
“Nhưng mẹ em… rất khó lường.”
“Bố anh cũng vậy.” Henry đút chìa khóa vào ổ cửa trước và chúng tôi đi lên một dãy cầu thang rồi Henry gõ cửa một căn hộ. Ngay lập tức nó được mở ra bởi một bà lão Hàn Quốc nhỏ nhắn: Kimy. Bà mặc bộ váy bằng lụa màu xanh, môi tô đỏ sáng, và cặp lông mày bị tô hơi lệch. Mái tóc muối tiêu được búi và cuộn thành hai lọn quanh tai. Chẳng hiểu sao bà khiến tôi nhớ đến Ruth Gordon. Bà tiến đến ngang vai tôi rồi ngửa đầu ra sau nói, “Ồ, Henry, con bé thật xinh đẹp!” Tôi có thể cảm thấy mặt mình đang chuyển đỏ. Henry nói, “Kimy, phép lịch sự của bà đâu rồi?” Kimy cười và bảo, “Chào cháu, Clare Abshire!” và tôi nói, “Chào bà, bà Kim.” Chúng tôi mỉm cười với nhau, rồi bà nói, “Ồ, cháu cứ gọi ta là Kimy, ai cũng gọi ta là Kimy.” Tôi gật đầu và đi theo bà vào phòng khách; bố Henry đang ngồi đó, trong một chiếc ghế bành.
Ông chẳng nói gì cả, chỉ nhìn tôi. Bố của Henry gầy, cao, góc cạnh và mệt mỏi. Trông ông không giống Henry lắm. Ông có mái tóc ngắn, bạc, mắt tối màu, mũi dài và miệng mỏng hơi xệ xuống. Ông ngồi co cụm trên ghế và tôi để ý thấy đôi bàn tay ông, đôi bàn tay dài thanh tao được đặt trên đùi như một con mèo đang ngủ.
Henry đằng hắng và nói, “bố, đây là Clare Abshire. Clare, đây là bố anh, Richard DeTamble.”
Bác DeTamble chậm rãi đưa một tay ra, và tôi bước lên bắt lấy nó. Nó lạnh như băng. “Xin chào, bác DeTamble. Rất vui được gặp bác.” tôi nói.
“Thật sao? Vậy thì Henry chắc hẳn chưa kể gì nhiều về ta cho cháu nghe.” Giọng ông khàn và vui vẻ. “Ta sẽ phải lợi dụng sự lạc quan của cháu rồi. Đến đây, ngồi cạnh ta. Kimy, có thể cho chúng tôi chút gì để uống chứ?”
“Tôi đang định hỏi mọi người. Clare, cháu uống gì? Ta đã làm Sangria, cháu uống thử nhé? Henry, cháu thì sao? Sangria? Được rồi. Richard, ông uống bia chứ?”
Mọi người có vẻ dừng lại trong giây lát. Rồi bác DeTamble nói, “Không, Kimy, tôi nghĩ tôi sẽ uống trà, nếu bà không phiền pha giùm.” Kimy mỉm cười rồi biến mất vào trong bếp, bác DeTamble quay sang tôi và nói, “Ta đang bị cảm. Ta đã uống thuốc, nhưng ta sợ rằng nó sẽ chỉ khiến ta đờ đẫn.”
Henry đang ngồi trên ghế trường kỉ ngắm chúng tôi. Tất cả nội thất trong nhà đều có màu trắng và trông như được mua ở JCPenney khoảng năm 1945. Bàn ghế được bảo vệ bằng nhựa trong và lớp vinyl được trải trên tấm thảm trắng. Lò sưởi trông như chưa từng được sử dụng bao giờ; bên trên là bức tranh thủy mạc tuyệt đẹp vẽ những ngọn tre trong gió.
“Bức tranh đẹp quá”, tôi lên tiếng, vì chẳng có ai nói gì.
Bác DeTamble trông có vẻ hài lòng. “Cháu thích nó không? Annette và ta đã mua nó ở Nhật Bản vào năm 1962. Chúng ta mua nó ở Kyoto, nhưng thực ra nó có xuất xứ từ Trung Quốc. Chúng ta đã nghĩ Kimy và Dong sẽ thích nó. Nó là bản sao chép thế kỉ XVII của một bức họa lâu đời hơn rất nhiều.
“Bố kể cho Clare về bài thơ đi”, Henry nói.
“Phải rồi. Bài thơ như thế này: ‘Tre không hồn, gửi tâm tư vào tận những tầng mây. Đứng một mình trên đỉnh núi, yên lặng, thanh cao, chí anh hùng. - Một trái tim thư thái, Trần Võ .[1]’”
[1] Tạm dịch.