Bản giao hưởng Pháp - Phần I - Chương 16

16

Gia đình Péricand không tìm được chỗ trong thành phố mà tìm được chỗ ở một thị trấn bên cạnh, đối diện với nhà thờ, trong một ngôi nhà có hai cô gái già ở, tại đó họ phát hiện ra một căn phòng rộng bỏ trống. Họ cho lũ trẻ mệt rũ rượi, còn mặc nguyên quần áo, đi nằm ngủ. Bằng một giọng run rẩy Jacqueline đòi đặt cái giỏ đựng con mèo ở bên cạnh mình. Cô bé bị ám ảnh bởi ý nghĩ là mèo có thể bị sổng, có thể bị lạc, bị bỏ rơi, có thể chết đói trên đường. Cô thò tay qua những thanh nan giỏ đan thành một ô cửa sổ nhỏ cho con mèo, qua đó có thể nhìn thấy một con mắt xanh lè lóe sáng và một bộ ria mép dài dựng lên vì tức giận, và chỉ khi ấy cô bé mới dịu đi. Emmanuel khiếp sợ vì căn phòng xa lạ, rộng mênh mông này, và vì hai cô gái già cứ vừa chạy qua chạy lại từ chỗ này qua chỗ khác như những con bọ hoảng hốt vừa rên rỉ: “Thật chưa từng thấy... Thương quá đi mất thôi... tội nghiệp những kẻ vô tội khốn khổ... tội nghiệp mấy đứa trẻ ngoan ngoãn đáng yêu...” Bernard nằm ngửa, vừa nhìn họ không chớp mắt với vẻ mặt nghệt ra và nghiêm trọng vừa mút mát một miếng đường mà cậu giữ đã ba ngày ở sâu trong túi áo và đã bị cái nóng làm quyện lẫn vào với một lõi bút chì, một con tem đã đóng dấu và một mẩu dây. Cụ Péricand chiếm nốt chiếc giường còn lại trong phòng. Bà Péricand, Hubert và các gia nhân sẽ qua đêm trên những chiếc ghế trong phòng ăn.

Qua những ô cửa sổ để mở, có thể nhận thấy một mảnh vườn nhỏ được ánh trăng rọi sáng. Một thứ ánh sáng rực rỡ và thanh bình tràn ngập trên những viên sỏi ánh bạc ở lối đi, nơi một con mèo cái đang nhẹ bước, và trên những cụm tử đinh hương trắng tỏa hương. Trong phòng ăn những người tị nạn và dân thị trấn đang cùng nghe đài. Phụ nữ thì khóc. Đàn ông thì im lặng cúi đầu, nói chính xác thì họ không cảm thấy tuyệt vọng; đúng hơn là họ không chịu hiểu, họ ở trong một trạng thái ngây dại như người ta thường cảm thấy lúc đang mơ màng, lúc mà bóng tối của giấc ngủ sắp tan đi, lúc mà ngày đang tới gần, người ta cảm thấy ngày đang tới và mọi sinh linh đều hướng về phía ánh sáng, rồi người ta tự nhủ: “Đó là một cơn ác mộng. Mình sắp tỉnh dậy rồi.” Họ ngồi bất động, tất cả đều quay đi, tránh ánh mắt của người khác. Khi Hubert tắt đài, đám đàn ông lẳng lặng ra về. Chỉ còn đám đàn bà ở lại trong phòng. Có tiếng thì thầm, tiếng thở dài của họ; khóc cho những tai họa của Tổ quốc, họ nhìn thấy Tổ quốc qua đường nét thân thương của những người chồng, những người con trai vẫn đang chiến đấu. Nỗi đau của họ bản năng hơn nỗi đau của những người đàn ông bên cạnh họ, giản dị hơn và cũng ồn ào hơn; họ làm dịu nỗi đau bằng những lời chỉ trích, bằng những tiếng kêu than: “Thế đấy... Thật là khốn khổ!... Để đến nông nỗi này... Chẳng phải là vận đen đâu... chúng ta đã bị phản bội, bà ơi, tôi nói với bà thế đấy... chúng ta đã bị bán đứng và bây giờ người nghèo là người phải gánh chịu...”

Hubert nghe họ nói, tay nắm chặt, lòng giận sôi lên. Cậu làm gì ở đây mới được chứ? Một đám bà già lắm điều, cậu nghĩ. Ôi! Giá như cậu lớn hơn hai tuổi nữa thôi! Trong tâm hồn cậu cho tới tận lúc này vẫn còn non nớt và hời hợt, trẻ dại hơn so với tuổi, bỗng nhiên thức dậy những nỗi say mê và day dứt của một người đàn ông trưởng thành: nỗi lo cho đất nưóc, niềm khát khao cháy bỏng được hy sinh, nỗi hổ thẹn, đau đớn và tức giận. Và thế là, lần đầu tiên trong đời cậu, một biến cố vô cùng quan trọng đang buộc cậu phải có trách nhiệm, cậu nghĩ. Không phải chỉ có khóc lóc hay kêu la bị phản bội là hết, cậu là một người đàn ông; cậu chưa đến tuổi luật định để chiến đấu nhưng cậu biết là cậu mạnh mẽ hơn, chịu mệt giỏi hơn, khéo léo hơn, tinh ranh hơn so với những ông già ba lăm, bốn mươi tuổi được đưa ra mặt trận, và cậu lại còn tự do nữa. Cậu không bị níu kéo bởi một gia đình, bởi một mối tình nào cả!

- Ôi! Mình muốn ra đi, - cậu lẩm bẩm, - mình muốn ra đi!

Cậu lao bổ về phía mẹ, cầm tay bà, kéo bà đi.

- Mẹ ơi, mẹ đưa con đồ ăn, cái áo len đỏ của con để trong chiếc hòm của mẹ và... mẹ hãy ôm hôn con đi. Con ra đi đây, - cậu nói.

Cậu nghẹn ngào. Những giọt nước mắt lăn trên má cậu. Bà mẹ nhìn cậu và đã hiểu.

- Này, con ơi, con thực điên rồ...

- Mẹ ơi, con ra đi đây. Con không thể ở lại đây được... Con sẽ chết, con sẽ tự sát nếu con phải ở lại đây, vô dụng, khoanh tay làm ngơ trong khi mà... thế mẹ không hiểu là bọn Đức sẽ đến và sẽ bắt tất cả thanh niên đi lính, buộc người ta phải đi đánh trận cho bọn chúng sao. Con không muốn thế! Mẹ hãy để con ra đi.

Cậu cứ cao giọng dần và giờ thì cậu gào lên, cậu không thể kìm nén được những tiếng gào thét. Vây quanh cậu là một vòng người khiếp hãi toàn những bà già run lẩy bẩy: một chàng trai, chỉ lớn tuổi hơn cậu tí chút, là cháu gọi các bà chủ nhà bằng cô, mặt đỏ hồng và tóc vàng, những búp tóc xoăn và đôi mắt to màu lam ngây thơ, đến góp sức với cậu và nói bằng một giọng thoáng ngữ điệu miền Nam (bố mẹ cậu này là công chức - cậu sinh ra ở Tarascon):

- Chắc chắn là phải ra đi rồi, và thậm chí là đi ngay đêm nay ấy! Này, cách đây không xa, trong khu rừng Sainte có quân đội đấy... Chúng ta chỉ việc lấy xe đạp và phóng đến...

- René, - các bà cô của cậu ta vừa rên rỉ vừa níu lấy cậu, - René, cháu ơi, hãy nghĩ đến mẹ cháu!

- Để mặc cháu, cô ơi, đây không phải việc của đàn bà, - cậu ta vừa trả lời vừa đẩy các bà cô ra, và gương mặt dễ thương của cậu ta đỏ bừng lên vì thích thú: cậu ta tự hào vì đã nói hay đến thế.

Cậu ta nhìn Hubert đã lau khô nước mắt và đang đứng trước cửa sổ, u ám và kiên quyết. Cậu ta lại gần Hubert và nói thầm vào tai cậu:

- Chúng ta đi chứ?

- Chúng ta đi, nhất trí! - Hubert trả lời rất nhỏ.

Cậu suy nghĩ và nói thêm:

- Vào lúc nửa đêm, hẹn gặp nhau ở lối ra vào thị trấn.

Hai cậu kín đáo siết tay nhau. Xung quanh hai cậu, các bà đồng loạt nói, van nài hai cậu hãy từ bỏ dự định của mình, hãy giữ lại cho tương lai những mạng sống vô cùng quý giá, hãy thương xót bố mẹ mình. Đúng lúc ấy, từ tầng trên vọng xuống tiếng kêu xé tai của Jacqueline:

- Mẹ ơi, mẹ ơi, đến đây ngay! Albert bỏ trốn rồi!

- Albert, cậu con trai thứ hai của bà à? Ôi trời ơi! - các cô gái già thốt lên.

- Không, không, đó là con mèo Albert, - bà Péricand nói, cảm thấy mình đang phát điên lên.

Trong lúc đó, nhũng tiếng nổ ầm ì và vang động làm rung chuyển không khí: đại bác gầm lên ở đằng xa, họ đang bị hiểm họa vây quanh! Bà Péricand buông người xuống ghế.

- Hubert, nghe kỹ mẹ nói đây! Vắng mặt bố con, mẹ là người quyết định! Con là trẻ con, con vừa mới có mười bảy tuổi, nhiệm vụ của con là phải giữ mình cho tương lai!

- Cho một cuộc chiến tranh sau ạ?

- Cho một cuộc chiến tranh sau, - bà Péricand lặp lại một cách máy móc. - Trong lúc chờ đợi, con chỉ cần im lặng và nghe lời mẹ. Con sẽ không đi đâu cả! Nếu con có một chút tình cảm, thì một ý nghĩ tàn nhẫn như thế, ngu ngốc như thế, thậm chí sẽ chẳng thoáng qua trong đầu con đâu! Có lẽ con thấy mẹ còn chưa đủ khổ hay sao? Con có hiểu là không còn gì nữa rồi không? Rằng quân Đức đang tiến đến và con có thể sẽ bị giết hay bị bắt làm tù binh khi chưa đi được tới một trăm mét? Con im đi! Mẹ cũng chẳng buồn tranh luận với con nữa, con sẽ phải bước qua xác mẹ mới ra khỏi đây được!

- Mẹ, mẹ ơi, - giữa lúc ấy Jacqueline thét lên - Con muốn Albert! Đi tìm Albert cho con đi! Quân Đức sẽ lấy mất nó! Nó sẽ bị trúng bom, nó sẽ bị đánh cắp, nó sẽ bị lạc mất! Albert! Albert! Albert!

- Jacqueline, im đi, con sẽ làm các em con thức giấc!

Tất cả các bà kêu lên cùng một lúc. Hubert, môi run run, tách ra khỏi đám các bà già hỗn độn, đang hoa chân múa tay và cuồng loạn ấy. Vậy là các bà ấy không hiểu gì cả sao? Cuộc đời như một vở kịch Shakespear, tuyệt diệu, bi thương, thế mà các bà ấy lại vô cớ hạ thấp nó. Một thế giới đang sụp đổ, chỉ còn những đống vụn nát hoang tàn, nhưng các bà ấy thì không thay đổi. Những tạo vật hạ cấp, họ không có cả phẩm chất anh hùng lẫn tầm vóc lớn lao bản tính cao thượng, không có cả niềm tin lẫn tinh thần hy sinh. Họ chỉ biết thu nhỏ lại tất cả những gì mà họ đụng đến, cho vừa tầm họ. Ôi! Trời ơi, giá như được gặp một người đàn ông, được siết tay một người đàn ông! Bố cũng được, cậu nghĩ, nhưng tốt nhất là được gặp anh Philippe thân yêu, tốt bụng, lớn lao cao cả. Cậu cần sự có mặt của anh trai mình đến nỗi những giọt lệ lại trào dâng lên trong mắt cậu thêm lần nữa. Tiếng đại bác không ngừng khiến cậu lo lắng và bị kích động; người cậu run lên vì những cơn rùng mình và cậu đột ngột quay đầu từ phía này sang phía khác như một con ngựa non đang khiếp hãi. Nhưng cậu không sợ. Thế đấy, không sợ đâu! Cậu không sợ! Cậu tiếp nhận, cậu ấp ủ ý nghĩ về cái chết. Đó là một cái chết đẹp vì cái sự nghiệp đã thất bại này. Thế còn hơn là nằm chết gí trong những chiến hào như hồi năm 14. Giờ đây chúng ta chiến đấu ngoài trời, dưới mặt trời tháng Sáu tuyệt đẹp hoặc trong ánh trăng sáng rực rỡ này.

Mẹ cậu đi lên gác với Jacqueline, nhưng bà đã đề phòng: khi cậu muốn ra vườn, cậu thấy cánh cửa đã bị khóa. Cậu đập, cậu lay cửa. Các bà chủ nhà, đã rút lui vào phòng ngủ của họ, bèn phản đối:

- Để cho cái cửa ấy được yên, cậu ơi! Muộn rồi. Chúng tôi đã mệt, chúng tôi buồn ngủ. Để yên cho chúng tôi ngủ.

Và một trong hai bà nói thêm:

- Cậu đi ngủ đi, anh bạn nhỏ của tôi.

Cậu nhún vai tức giận.

- Anh bạn nhỏ của bà ta... mụ cú già!

Mẹ cậu trở lại.

- Jacqueline bị một cơn kích động thần kinh, - bà nói. - May mà mẹ có một lọ nước hoa cam ở trong túi của mẹ. Đừng gặm móng tay nào! Hubert, con làm mẹ khó chịu. Này, con ngồi vào cái ghế bành này và ngủ đi.

- Con không buồn ngủ.

- Mặc kệ, mẹ không quan tâm, ngủ đi! - bà nói bằng một giọng uy quyền và sốt ruột như thể bà vẫn nói với Emmanuel.

Lòng đầy phẫn nộ, cậu ngồi phịch xuống chiếc ghế bành cũ bọc vải, nó kêu lên ken két dưới sức nặng của cậu. Bà Péricand ngước mắt lên trời.

- Con thật là vụng về, con tội nghiệp của mẹ! Con sẽ làm gãy cái ghế này mất thôi! Ngồi yên nào.

- Vâng, mẹ ạ, - cậu nói bằng một giọng cam chịu.

- Con đã nhớ lấy áo mưa của con từ ô tô ra rồi chứ?

- Không, mẹ ạ.

- Con chẳng nhớ gì cả!

- Nhưng con sẽ không cần áo mưa đâu. Trời đẹp mà.

- Ngày mai có thể sẽ mưa.

Bà rút tấm len đan trong túi của mình ra. Những chiếc kim đan của bà kêu lách cách. Hồi Hubert còn bé, bà thường ngồi đan cạnh cậu trong lúc cậu học đàn piano. Cậu nhắm mắt và giả vờ ngủ. Được một lúc, bà cũng ngủ thiếp đi. Cậu bèn nhảy qua ô cửa sổ để mở, chạy đến nhà kho, nơi họ để xe đạp và, cậu khẽ khàng mở cửa hàng rào, cậu lẻn ra ngoài. Giờ đây tất cả đều đã ngủ. Tiếng đại bác đã im bặt. Lũ mèo kêu gào trên các mái nhà. Một ngôi nhà thờ tuyệt đẹp, với những tấm kính ghép màu xanh biếc ánh trăng, nhô lên giữa một bãi dạo chơi xưa cũ đầy bụi bặm, nơi những người tị nạn đỗ ô tô. Những người không tìm được chỗ trong các ngôi nhà thì nằm ngủ trong ô tô hoặc trên bãi cỏ. Những khuôn mặt nhợt nhạt toát lên vẻ kinh hoàng vẫn cứ căng thẳng và sợ sệt đến tận trong giấc ngủ. Tuy nhiên họ ngủ mê mệt đến nỗi không điều gì có thể làm cho họ thức giấc trước khi trời sáng. Có thể thấy rõ điều đó. Họ có thể chuyển từ giấc ngủ sang cái chết mà thậm chí không hề hay biết.

Hubert đi qua giữa những người này, ngắm nhìn họ một cách thương xót và sửng sốt. Cậu không cảm thấy mệt. Tinh thần bị kích thích cực độ của cậu đã nâng đỡ cậu và kéo cậu đi. Cậu nghĩ tới gia đình mình mà cậu đã bỏ rơi với nỗi buồn bã và ân hận. Nhưng chính nỗi buồn ấy và sự ân hận ấy lại làm sự hứng khởi của cậu tăng lên gấp bội. Cậu không liều mạng nhảy vào một cuộc phiêu lưu; cậu hy sinh cho đất nước không chỉ cuộc sống của riêng bản thân mình mà còn cuộc sống của cả những người thân của cậu nữa. Cậu tiến lên đón trước vận mệnh của mình như một vị thần trẻ chịu trách nhiệm về hiện tại. Ít ra cậu tự thấy mình như vậy. Cậu đi ra khỏi làng, đến dưới gốc cây anh đào và buông người ngồi xuống đất dưới những cành cây. Một cảm xúc rất ngọt ngào đột nhiên làm tim cậu đập mạnh: cậu nghĩ tới người đồng chí mới ấy, người sắp cùng cậu sẻ chia vinh quang và hiểm họa. Cậu gần như không quen biết cậu ta, gã trai tóc vàng ấy, nhưng cậu cảm thấy gắn bó với cậu ta một cách mãnh liệt và trìu mến lạ thường. Cậu đã từng nghe kể rằng khi đi qua một chiếc cầu, ở tỉnh Nord, một trung đoàn Đức đã buộc phải bước trên xác những đồng đội đã ngã xuống trong chiến đấu và họ vừa làm điều đó vừa hát: “Tôi từng có một người đồng chí...” Cậu hiểu điều đó, cái tình yêu thương thuần khiết, gần như hoang dại áy. Trong vô thức cậu vẫn tìm kiếm ai khác để thay thế Philippe, người mà cậu đã từng yêu đến thế và đã rời xa cậu một cách nhẹ nhàng không chịu nổi, một người quá nghiêm nghị, quá thánh thiện, Hubert nghĩ, và người không còn tình cảm nào khác, say mê nào khác ngoài tình yêu Chúa.

Hai năm gần đây Hubert cảm thấy thực sự rất cô đơn, và như thể là một sự cố tình trêu ngươi, ở lớp cậu chỉ có bọn đầu gấu hay những kẻ học đòi làm sang. Cậu cũng rất nhạy cảm trước vẻ đẹp thể chất, dù gần như không tự nhận thức được điều đó, và anh chàng René này thì lại có một gương mặt thiên thần. Tóm lại, cậu đợi cậu ta. Cậu giật mình, ngẩng đầu mỗi khi nghe thấy tiếng động. Còn năm phút nữa là đã mười hai giờ đêm. Một con ngựa đi qua, không có người cưỡi. Thỉnh thoảng cũng có những ảo ảnh kỳ lạ, gợi nhắc đến thảm họa và chiến tranh, nhưng còn lại thì tất cả đều yên tĩnh. Cậu ngắt một cọng cỏ dại mọc dài và nhay nhay, sau đó cậu xem xét những thứ ở trong túi áo túi quần của mình: một mẩu bánh mì, một quả táo, một nhúm hạt dẻ, một chút bánh mì trộn gia vị đã bị nát vụn, một con dao nhíp, một cuộn chỉ, cuốn số nhỏ màu đỏ của cậu. Ở trang đầu tiên, cậu viết: “Nếu tôi chết, hãy báo tin cho cha tôi, ông Péricand, 18, đại lộ Delessert ở Paris, hoặc mẹ tôi...” Cậu ghi thêm vào địa chỉ ở Nîmes. Cậu nhớ là cậu vẫn chưa đọc kinh cầu nguyện buổi tối. Cậu quỳ xuống thảm cỏ và cầu nguyện bằng một bài Kinh Tin Kính đặc biệt cho gia đình mình. Cậu đứng dậy và thở dài thật sâu. Cậu cảm thấy đã phải phép với mọi người và với Thượng đế. Chuông đã điểm nửa đêm khi cậu đang cầu nguyện. Giờ đây cần phải sẵn sàng ra đi. Trăng rọi sáng con đường. Cậu chẳng nhìn thấy gì cả. Cậu kiên nhẫn chờ đợi trong khoảng nửa tiếng, rồi nỗi lo lắng xâm chiếm người cậu. Cậu để xe đạp xuống rãnh ven đường, đi về phía làng để đón đợi René, nhưng anh chàng này vẫn không xuất hiện. Cậu quay lại, trở về dưới gốc cây anh đào, lại chờ đợi và xem xét các thứ trong cái túi quần thứ hai của mình: những điếu thuốc lá hơi nhàu nát, một ít tiền. Cậu hút một điếu thuốc mà chẳng thấy thích thú gì. Cậu vẫn chưa quen với mùi vị thuốc lá. Taycậu run run vì căng thẳng. Cậu nhổ những bông hoa và quẳng chúng đi. Đã hơn một giờ sáng, chả lẽ René lại...? Không, không... người ta không sai hẹn như thế được... Cậu ấy đã bị giữ lại, bị các bà cô nhốt lại cũng nên, nhưng mà cậu, Hubert, những phòng ngừa của mẹ cậu cũng không ngăn được cậu bỏ trốn. Mẹ cậu. Hẳn là bà vẫn còn ngủ, bà sắp thức dậy rồi và bà sẽ làm gì nhỉ? Mọi người sẽ tìm cậu khắp nơi. Cậu không thể ở lại đây được, ở ngay sát thị trấn thế này. Nhưng nếu René đến?... Cậu sẽ đợi cậu ấy đến khi trời sáng, cậu sẽ ra đi khi mặt trời mọc.

Những tia mặt trời đầu tiên rọi trên đường khi Hubert cuối cùng cũng rời khỏi chỗ. Cậu đi đến khu rừng Sainte nằm trên một quả đồi. Cậu trèo lên đồi một cách thận trọng, tay dắt xe đạp, chuẩn bị trước những lời mà cậu sẽ nói với những người lính. Cậu nghe thấy những giọng nói, những tiếng cười, tiếng một con ngựa hí. Có ai đó kêu lên. Hubert dừng lại, nín thở: họ nói tiếng Đức. Cậu lao vào sau một thân cây, cậu nhìn thấy một bộ quân phục màu lục vàng cách cậu mấy bước chân và, bỏ lại chiếc xe đạp, cậu chạy vọt đi như một con thỏ rừng. Xuống đến phía dưới, cậu nhầm hướng, cứ chạy thẳng trước mặt và đến một ngôi làng mà cậu không nhận ra. Sau đó, cậu quay trở lại đường quốc lộ và sa vào giữa dòng xe cộ chở những người đi lánh nạn. Chúng đang phóng đi với một tốc độ điên rồ, điên rồ. Cậu nhìn thấy một chiếc ô tô trong số đó (một chiếc xe Torpedo to màu xám) vừa húc một chiếc xe tải nhỏ đổ nhào xuống rãnh và bỏ chạy mà người lái xe không hề giảm tốc độ một tí nào. Cậu càng đi xa, dòng thác ô tô càng chảy nhanh như trong một bộ phim bị rối, cậu nghĩ. Cậu nhìn thấy một chiếc xe tải đầy lính. Cậu vẫy bằng những cử chỉ đầy tuyệt vọng. Xe không dừng lại, một người chìa tay ra cho cậu và kéo cậu lên giữa những nòng súng còn phủ lá ngụy trang và những két nước.

- Em muốn báo cho các anh biết, - Hubert hổn hển nói. - Em nhìn thấy bọn Đức trong một khu rừng ngay cạnh đây.

- Bọn chúng có ở khắp nơi, cậu bé ạ, - người lính trả lời.

- Em đi với các anh được không? - Hubert rụt rè hỏi. - Em muốn (giọng cậu vỡ ra vì xúc động), em muốn chiến đấu.

Người lính nhìn cậu và không trả lời gì cả. Dường như không một lời nói hay cảnh tượng nào có thể làm những người đàn ông này ngạc nhiên hay xúc động được nữa. Hubert được biết rằng dọc đường họ đã thu nhận một phụ nữ có mang, một đứa trẻ bị thương trong một trận bom và bị bỏ rơi hay bị lạc, một con chó gãy chân. Cậu còn biết thêm là họ có ý định trì hoãn bước tiến của quân địch và nếu có thể thì ngăn không cho chúng sang sông.

“Mình sẽ không rời các anh ấy ra nữa,” Hubert nghĩ. “Bây giờ thế là được rồi, mình đã ở trong cuộc.”

Dòng người tị nạn lớn dần bao quanh chiếc xe tải, cản trở xe đi. Chốc chốc, những người lính lại không thể tiến lên được. Họ đành khoanh tay và đợi người ta vui lòng nhường đường cho họ. Hubert ngồi ở phía sau xe tải, chân đong đưa trong không khí. Quang cảnh náo động lạ thường, những ý nghĩ và những niềm say mê hỗn độn đã khiến cậu bị kích động, nhưng ngự trị trong tim cậu là cảm giác khinh miệt mà cậu cảm thấy đối với toàn nhân loại. Cái cảm giác này gần như mang tính thể xác: mấy tháng trước, lần đầu tiên trong đời, lũ bạn đã cho cậu uống rượu - cái vị đắng và chát khủng khiếp mà thứ ruợu tồi ấy để lại trong miệng cậu, giờ đây cậu lại cảm thấy. Cậu đã từng là một đứa rrẻ thật ngoan! Thế giới trong mắt cậu đã từng thật đơn giản và tốt đẹp, con người xứng đáng được kính trọng. Con người... một bầy thú hoang dại và hèn nhát. Cái gã René ấy, kẻ đã xui cậu bỏ trốn, còn bản thân thì sau đó ở lại nằm khoan khoái trong chăn, khi nước Pháp đang lâm nguy... Những kẻ từ chối không cho dân tị nạn một cốc nước, một chỗ nằm, những kẻ bán trứng với giá cắt cổ, những kẻ nhồi vào ô tô của họ đầy những hành lý, gói bọc, đồ ăn thức uống, thậm chí cả đồ gỗ nữa, nhưng lại trả lời với người phụ nữ đang xỉu đi vì mệt, với những đứa bé phải đi bộ từ Paris rằng: “Các vị không lên xe được đâu... các vị thấy rõ là không còn chỗ nữa...” Những chiếc va li da màu hung vàng và những người đàn bà tô son trát phấn trên một chiếc xe tải đầy sĩ quan ấy, biết bao nhiêu sự ích kỷ, sự hèn nhát, sự tàn ác hung dữ và vô cớ đã khiến cho cậu ghê tởm. Và điều đáng buồn nhất là không phải cậu không biết đến những sự hy sinh, tinh thần anh dũng, lòng nhân từ của một số người. Chẳng hạn, Philippe là một vị thánh, những người lính không được ăn chẳng được uống (viên sĩ quan hậu cần ra đi từ buổi sáng đã không trở về kịp thời) nhưng chiến đấu vì một sự nghiệp đã thất bại là những người anh hùng. Có lòng can đảm, có sự quên mình, có tình yêu thương giữa con người với nhau, nhưng chính điều đó cũng lại thật khủng khiếp: số phận những người tốt dường như đã được định đoạt trước, Philippe thường giải thích điều đó theo cách của ông. Khi ông nói, ở ông dường như toát lên vẻ sáng suốt và nồng nhiệt, như được rọi sáng bởi một khát vọng thuần khiết, nhưng Hubert đang trải qua một cơn khủng hoảng lòng tin tôn giáo mà Philippe thì lại ở xa. Thế giới bên ngoài rời rạc và gớm ghiếc được vẽ nên bằng những sắc màu của địa ngục, một địa ngục mà Jesus chắc sẽ chẳng quay trở lại vì “người ta có thể biến ngài thành những mảnh vụn,” Hubert nghĩ.

Đoàn người bị nã đạn. Cái chết lượn lờ trên bầu trời và bất thình lình sà vội xuống từ trên trời cao, cánh dang ra, chiếc mỏ thép chĩa về phía cái hàng dài run rẩy những con bọ đen đang bò dọc đường. Tất cả nằm rạp xuống đất, những người đàn bà nằm lên con của họ để lấy thân mình che chở cho chúng. Khi hỏa lực đã ngừng, vẫn còn lại những đường khe hằn sâu trong đám đông, như những bông lúa mì nằm rạp xuống trong một ngày giông bão, khi cây cối bị đổ tạo thành những rãnh hẹp và sâu. Chỉ sau một vài khoảnh khắc im lặng, những tiếng rên rỉ và những tiếng gọi nhau mới vang lên, đáp lời nhau, những tiếng rên rỉ mà chẳng ai nghe thấy, những tiếng gọi thét lên vô ích...

Người ta vào lại những chiếc ô tô đỗ ở ven đường và lại ra đi, nhưng một vài chiếc xe thì bị bỏ lại, với những cánh cửa xe để mở và đồ đạc vẫn còn buộc trên nóc xe, đôi khi có một bánh xe sa xuống rãnh vì người lái xe quá vội vã bỏ chạy và nấp vào chỗ an toàn. Nhưng người lái xe có lẽ sẽ không quay trở lại. Trong ô tô, giữa những gói bọc bỏ quên, đôi khi người ta thấy một con chó vừa kéo sợi dây buộc vừa sủa hay một con mèo đang meo meo tức giận trong cái giỏ đóng kín của nó.