Truy tìm Dracula - Chương 41 phần 2

“Một vài sinh viên còn đọc sách ở những chiếc bàn dài, và một người đàn ông trẻ đang sắp xếp lại những đống sách phía sau một bàn lớn. Helen dừng lại nói gì đó với anh ta, anh ta gật đầu, vẫy tay ra hiệu mời chúng ta đi theo về phía một phòng đọc lớn mà cha vừa thoáng nhìn thấy qua một cánh cửa để mở. Ở đó, anh ta tìm cho chúng ta một cuốn sách khổ đôi lớn, đặt lên bàn, rồi để chúng ta ở lại đó. Helen ngồi xuống và cởi găng tay ra. ‘Đúng rồi,’ cô ôn tồn nói. ‘Tôi nghĩ đây đúng là thứ mà tôi nhớ. Năm ngoái tôi đã xem qua cuốn sách này trước khi rời Budapest, nhưng lúc đó tôi nghĩ là nó chẳng có ý nghĩa gì quan trọng cả.’ Cô mở sách ra đến trang tựa đề, cha nhìn thấy một thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ. Những con chữ trông quen thuộc một cách lạ lùng, tuy vậy cha chẳng đọc được một chữ nào.

“ ‘Chữ gì vậy?’ Cha gí ngón tay vào nơi mà cha nghĩ là tên sách. Đó là một trang giấy dày, tốt, in mực màu nâu.

“ ‘Đây là chữ Rumani,’ Helen trả lời.

“ ‘Cô đọc được chứ?’

“ ‘Đương nhiên.’ Cô đặt tay lên trang giấy, sát bên tay cha. Cha nhận ra bàn tay chúng ta hầu như cùng một cỡ, dù tay cô trông thanh mảnh hơn và có sơn màu trên móng. ‘Đây này,’ cô nói. ‘Anh biết tiếng Pháp chứ?’

“ ‘Có chứ,’ cha gật đầu thừa nhận. Sau đó cha hiểu ra những gì cô muốn nói và bắt đầu dịch cái tựa sách đó. ‘Những khúc tình ca vùng Carpates, 1790.’

“ ‘Tốt lắm,’ cô thốt lên. ‘Rất tốt.’

“ ‘Tôi cứ nghĩ là cô không biết nói tiếng Rumani,’ cha nói.

“ ‘Tôi nói chẳng ra gì, nhưng ít nhiều vẫn có thể đọc được thứ ngôn ngữ này. Tôi đã học tiếng Latin mười năm ở trường, ngoài ra bác tôi đã dạy tôi đọc và viết tiếng Rumani rất nhiều. Dĩ nhiên là ngược lại mong muốn của mẹ tôi. Mẹ tôi rất bướng bỉnh. Dù trong thâm tâm chưa bao giờ từ bỏ nhưng bà vẫn ít khi nhắc nhở về xứ sở Transylvania.’

“ ‘Thế cuốn này nói về cái gì?’

“Cô từ tốn lật qua trang đầu tiên, cha nhìn thấy một cột chữ dài mà thoạt nhìn qua cha không hiểu gì cả; thêm vào sự xa lạ của thứ ngôn ngữ này với cha, nhiều chữ cái Latin làm nên nó còn quá bay bướm với những dấu gạch ngang, dấu đuôi, dấu mũ và các ký hiệu khác. Đối với cha, loại chữ viết này trông có vẻ quá quyến rũ so với một ngôn ngữ Roman. ‘Tôi đã tìm được cuốn sách này khi tiến hành đợt nghiên cứu trước khi đến nước Anh. Thực ra không có nhiều tư liệu về hắn trong thư viện này. Tôi chỉ tìm được một vài tài liệu về ma cà rồng, vì Mátyás Corvinus, ông vua ham mê sách vở của chúng tôi rất hiếu kỳ về chủ đề này.’

“ ‘Hugh cũng nói như vậy,’ cha khẽ nói.

“ ‘Cái gì?’

“ ‘Tôi sẽ giải thích sau. Cô tiếp tục đi.’

“ ‘Vâng, tôi không muốn bỏ sót bất kỳ vấn đề nào ở đây, vì vậy tôi đã đọc vô số tài liệu nói về lịch sử vùng Wallachia và Transylvania. Mất đến vài tháng. Tôi còn buộc mình đọc cả những gì được viết bằng tiếng Rumani. Lẽ dĩ nhiên, qua nhiều thế kỷ bị người Hung đô hộ, nhiều tài liệu và lịch sử về vùng Transylvania được viết bằng tiếng Hungary, nhưng cũng có vài nguồn tư liệu viết bằng tiếng Rumani. Đây là một tuyển tập lời dân ca vùng Transylvania và Wallachia, được một nhà sưu tầm khuyết danh công bố. Một số trong các bài hát này còn hơn cả dân ca - chúng là các thiên sử thi hùng tráng.’

“Cha cảm thấy hơi thất vọng; cha mong cô sẽ cho thấy một tài liệu lịch sử quý hiếm, một cái gì đó nói về Dracula kìa. ‘Có bài nào đề cập đến ông bạn chúng ta không?’

“ ‘Không, tôi e rằng không. Nhưng ở đây có một bài hát mà tôi cứ nhớ mãi, và lại nghĩ đến nó khi anh kể với tôi về những gì Selim Aksoy muốn chúng ta xem tại trung tâm lưu trữ thành phố Istanbul - nhớ không, cái đoạn nói về các tu sĩ từ vùng Carpates, đi xe la vào thành phố Istanbul, anh nhớ chứ? Tôi ước lúc bấy giờ chúng ta đã nhờ Turgut ghi lại bản dịch đoạn đó.’ Lúc đó, Helen đang lật tập sách rất cẩn thận. Một vài văn bản dài được minh họa bằng những bức tranh khắc gỗ ở phía trên, phần lớn là tranh minh họa có nội dung là một cảnh tưởng tượng nào đó trong những chuyện cổ tích dân gian, nhưng cũng có một vài bức tranh sơ sài về cây cối, nhà cửa và súc vật. Chữ in rõ ràng, nhưng nói chung cuốn sách vẫn mang vẻ thô sơ của chế tác thủ công. Helen rà ngón tay dọc theo các dòng đầu của mấy bài thơ, môi mấp máy, rồi lắc đầu. ‘Có những bài buồn quá,’ cô nói. ‘Anh biết đó, tâm tư người Rumani chúng tôi khác với người Hungary.’

“ ‘Nghĩa là thế nào?’

“ ‘Chà, tục ngữ Hungary có một câu thế này, “Người Magyar đón nhận niềm vui một cách buồn bã.” Thực vậy - Hungary có rất nhiều bài hát buồn, làng quê của họ đầy rẫy chuyện bạo lực, rượu chè, tự tử. Nhưng người Rumani lại còn buồn hơn, buồn hơn nữa. Tôi nghĩ, không phải vì chúng tôi buồn do cuộc sống mà vì bản chất con người chúng tôi sinh ra đã buồn.’ Helen lại cúi đầu xuống nhìn vào quyển sách cổ, hai hàng mi như rợp cả đôi gò má. ‘Anh thử nghe bài này nhé - một bài tiêu biểu.’ Cô ngắc ngứ dịch, và kết quả cũng gần giống như bản cha trích dưới đây - bản chính thức rút ra từ một tập nhỏ các bản dịch thế kỷ mười chín hiện có trong thư viện của cha:

Cô bé đã chết vẫn xinh đẹp dịu dàng như thế.

Cô em gái nhỏ nở nụ cười giống chị.

Khẽ nói cùng mẹ: “Ôi, mẹ thương yêu,

Người chị quá cố hiền lành bảo con đừng sợ.

Bởi cuộc đời chị không thể sống, chị đã tặng cho con,

Để con có thể mang cho mẹ niềm hân hoan mới.”

Nhưng không, người mẹ vẫn chẳng thể ngẩng đầu,

Vẫn chỉ ngồi khóc than cho đứa con đã mất.

“ ‘Lạy Chúa,’ cha rùng mình thốt lên. ‘Thật là dễ hiểu vì sao một nền văn hóa sản sinh ra một bài hát như vậy có thể tin vào chuyện ma cà rồng - thậm chí còn sáng tác ra chúng.’

“ ‘Ừ,’ Helen đáp, gật đầu, nhưng lúc này cô đang lật xem tiếp nội dung quyển sách. ‘Chờ chút.’ Cô đột nhiên dừng lại. ‘Có lẽ là bài này.’ Cô chỉ tay vào một đoạn thơ ngắn, có một bức tranh khắc gỗ minh họa phía trên, có vẻ như mô tả cảnh nhà cửa và các loài vật bị mắc kẹt trong một khu rừng đầy gai góc.

“Cha ngồi một lúc lâu trong tâm trạng hồi hộp trong lúc Helen im lặng đọc, và cuối cùng cô nhìn lên. Một tia khích động hiện trên gương mặt cô; hai mắt cô sáng lên. ‘Nghe này - tôi thử cố hết sức dịch nhé.’ Ở đây, cha ghi lại cho con bản dịch nghĩa mà cha đã giữ suốt hai mươi năm nay:

Họ đánh xe đến cổng, đến tận thành phố vĩ đại.

Họ đánh xe đến thành phố vĩ đại từ vùng đất chết.

“Chúng ta là người của Chúa, người đến từ vùng Carpates.

Chúng ta là những tu sĩ thánh thiện, nhưng chỉ mang theo những

tin tức xấu xa.

Chúng ta mang đến thành phố vĩ đại này tin tức về một bệnh dịch.

Phụng sự chủ nhân, chúng ta than khóc cho cái chết của Người.”

Họ đánh xe đến tận cổng thành và thành phố khóc than cùng họ

Khi họ đi vào.

“Dù rùng mình khi nghe đoạn thơ khó hiểu này, nhưng cha vẫn phải phản bác ý tưởng của Helen rằng nó có liên quan. ‘Đoạn thơ này rất chung chung. Tuy vùng Carpates được đề cập đến ở đây, nhưng hẳn nó cũng từng xuất hiện trong hàng chục, hoặc thậm chí hàng trăm văn bản xa xưa khác. Và “thành phố vĩ đại” có thể chẳng có ý nghĩa gì. Có thể nó có nghĩa là Thành phố của Thượng đế, Nước Trời.’

“Helen lắc đầu. ‘Tôi không nghĩ vậy,’ cô nói. ‘Đối với người dân vùng Balkan và Trung Âu - dù là Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo - thành phố vĩ đại bao giờ cũng là Constantinople, trừ phi anh gộp luôn những người đã thực hiện chuyến hành hương đến Jerusalem hoặc Mecca suốt nhiều thế kỷ qua. Và phần đề cập đến một bệnh dịch và các tu sĩ - tôi thấy theo một cách nào đó đoạn thơ này có vẻ liên quan đến câu chuyện trong đoạn văn của Selim Aksoy. Phải chăng vị chủ nhân mà họ đề cập đến chính là Vlad Ţepeş?’

“ ‘Chắc vậy,’ cha trả lời, không mấy tin tưởng, ‘giá mà chúng ta có nhiều tư liệu hơn. Cô nghĩ bài hát này có từ bao giờ?’

“ ‘Việc xác định niên đại của các bài hát dân gian bao giờ cũng rất khó khăn.’ Helen trông có vẻ đăm chiêu. ‘Như anh thấy đấy, cuốn sách này được in vào năm 1790, nhưng không có tên nhà xuất bản hay tên địa điểm nào cả. Dân ca có thể tồn tại suốt hai, ba hoặc bốn trăm năm một cách dễ dàng, nên rất có thể những bài hát này đã có trước cuốn sách nhiều thế kỷ. Bài hát này có thể được sáng tác vào cuối thế kỷ mười lăm, hoặc có thể trước đó nữa, vì vậy có thể nó không đáp ứng được những mục tiêu của chúng ta.’

“ ‘Bức tranh khắc gỗ trông khá kỳ lạ,’ cha nhận xét, quan sát kỹ hơn.

“ ‘Cuốn sách này có đầy những bức tranh như vậy,’ Helen thì thầm. ‘Lần đầu nhìn thấy chúng, tôi nhớ là mình đã rất kinh ngạc. Bức hình này dường như chẳng liên quan gì đến bài thơ - anh hẳn sẽ nghĩ người ta nên minh họa nó bằng hình ảnh một tu sĩ đang cầu nguyện hoặc một thành phố có tường thành cao bao bọc, hoặc một cái gì đại loại như vậy.’

“ ‘Ừ,’ cha chậm rãi nói, ‘nhưng chúng ta hãy quan sát kỹ hơn.’ Chúng ta cúi xuống nhìn bức hình minh họa nhỏ bé kia, đầu gần như chạm vào nhau bên trên cuốn sách. ‘Phải chi chúng ta có một cái kính lúp nhỉ,’ cha nói. ‘Cô có nghĩ đó là một đám rừng - hoặc bụi cây, bất kể là gì - đang che giấu thứ gì đó không? Không có thành phố vĩ đại, nhưng nếu nhìn kỹ chỗ này cô có thể thấy một tòa nhà trông giống như một giáo đường, với một cây thập tự giá trên đỉnh mái vòm, và kế bên là…’

“ ‘Một con vật nhỏ bé.’ Cô nhíu mắt. Và rồi, ‘Lạy Chúa,’ cô thốt lên. ‘Một con rồng.’

“Cha gật đầu. Chúng ta choáng váng với hình ảnh này, gần như không thở nổi. Hình dạng nhỏ bé vô cùng quen thuộc kia - đôi cánh dang rộng, đuôi uốn lại thành một vòng nhỏ. Cha không cần lấy cuốn sách đang cất trong cặp ra để so sánh. ‘Điều này có ý nghĩa gì?’ Tim cha đập thình thịch khi nhìn thấy hình ảnh con rồng đó, dù chỉ là một hình ảnh thu nhỏ.

“ ‘Chờ đã.’ Helen chúi mũi vào bức tranh khắc gỗ, mặt cô chỉ cách trang giấy vài phân. ‘Ôi, trời ơi,’ cô kêu lên. ‘Tôi không đọc được, nhưng có một chữ ở đây này, tôi nghĩ, mỗi nơi một chữ, cách đều nhau giữa lùm cây. Chúng rất nhỏ, nhưng tôi tin chắc đây là những con chữ.’

“ ‘Chữ Drakulya?’ cha hỏi, cố giữ vẻ bình thản.

“Cô lắc đầu. ‘Không phải, nhưng có thể là một cái tên - Ivi - Ivireanu. Tôi không biết đó là gì. Tôi chưa từng nhìn thấy từ này bao giờ, nhưng “u” thông thường là chữ cuối của tên người Rumani. Chuyện quái quỷ gì ở đây vậy nhỉ?’

“Cha thở dài. ‘Tôi không biết, nhưng tôi nghĩ bản năng của cô đúng - trang sách này liên quan ít nhiều đến Dracula, nếu không sẽ không có hình con rồng ở đây. Dù gì thì cũng không phải là con rồng đó.’

“Cô và cha bất lực đưa mắt nhìn nhau. Chỉ nửa giờ trước đây, căn phòng này dễ chịu và đầy hứa hẹn biết bao nhiêu, nhưng bây giờ dưới mắt cha, trông nó tăm tối như một lăng mộ tri thức bị lãng quên.

“ ‘Thủ thư không biết gì về cuốn sách này,’ Helen nói. ‘Tôi nhớ đã hỏi họ về nó, vì nó là sách rất hiếm mà.’

“ ‘Chà, vậy thì chúng ta chưa thể giải quyết vấn đề này rồi,’ cuối cùng cha nói. ‘Thôi cứ dịch rồi ghi lại đã, để biết những gì chúng ta đã nhìn thấy.’ Cha ghi lại những gì Helen đọc và phác thảo vội bức tranh khắc gỗ lên một trang giấy sổ ghi chép. Helen nhìn đồng hồ.

“ ‘Tôi phải quay về khách sạn,’ cô nói.

“ ‘Tôi cũng vậy, nếu không sẽ lỡ hẹn với Hugh James mất.’ Chúng ta thu xếp đồ đạc và đặt trả cuốn sách lên kệ, kính cẩn như với một thánh tích.

“Có lẽ đầu óc cha đã rối tung trong những hình ảnh tưởng tượng mà bài thơ và bức hình minh họa mang lại, hoặc có lẽ cha đã mỏi mệt hơn là mình nghĩ do chuyến đi, do phải thức khuya ở nhà hàng của bác Éva, do phải thuyết trình trước một đám đông xa lạ nên khi bước vào phòng, phải mất một lúc lâu cha mới ý thức được những gì mình nhìn thấy ở đó, và còn lâu hơn nữa để kết luận rằng Helen có thể cũng đang chứng kiến cùng một cảnh tượng giống như vậy trong phòng cô, cách hai tầng phía trên. Sau đó, đột nhiên cảm thấy lo sợ cho sự an toàn của cô, cha phóng nhanh lên cầu thang, không cần quan sát thêm gì nữa. Phòng của cha đã bị lục soát, không chừa một ngóc ngách nào - các ngăn hộc, căn buồng nhỏ, chăn nệm và vải giường, mọi tài liệu mà cha có đều bị vứt tứ tung, bị hủy hoại, thậm chí bị xé bằng tay, một cách không chỉ vội vàng không cần suy nghĩ, mà còn đầy chủ ý và ác tâm.”