Truy tìm Dracula - Chương 42 phần 2
“ ‘Trong cùng một thư viện à? Ở đâu? Trong cùng một cuốn sách sao?’ Cha nôn nóng hỏi, không chờ anh ta kịp trả lời, không còn để ý đến phép xã giao.
“ ‘Đúng, trong thư viện trường đại học, nhưng không phải trong cùng một cuốn sách. Tôi đã sục sạo quanh trong đó suốt tuần nay để tìm tư liệu cho cuốn sách của mình, và vì lúc nào cũng bị anh bạn chúng ta ám ảnh nên tôi cũng tiếp tục để ý tìm tài liệu có liên quan đến thế giới của hắn. Anh biết đó, Dracula và Hunyadi là những kẻ thù không đội trời chung, và sau đó Dracula và Matthias Corvinus cũng vậy, nên khi đọc tài liệu về Hungary thỉnh thoảng tôi lại gặp lại Dracula. Lúc ăn trưa tôi đã đề cập với anh là đã tìm được một bản chép tay do Corvinus ra lệnh soạn thảo có nhắc tới hồn ma trong chiếc bình cổ.’
“ ‘Ồ! Vâng,’ cha nói, giọng nao nức. ‘Và đó cũng là nơi anh nhìn thấy chữ Ivireanu?’
“ ‘Thực ra không phải vậy. Bản chép tay của Corvinus rất thú vị, nhưng vì những nguyên cớ khác. Nó nói về - vâng, tôi đã chép lại một ít ở đây. Nguyên bản viết bằng chữ Latin.’
“Anh ta lấy sổ ghi chép ra, đọc cho cha nghe vài dòng. ‘ “Năm 1463 Dương lịch, người hầu cận hèn mọn của đức vua dâng lên ngài những dòng chữ này, trích từ những tác phẩm tuyệt vời, tất cả nhằm thông tin cho Bệ hạ biết về lời nguyền của tên ma cà rồng kia, cầu cho hắn bị thiêu rụi trong hỏa ngục. Thông tin này dành cho bộ sưu tập cao quý của Bệ hạ. Hy vọng nó có thể giúp ngài tiêu diệt được cái độc ác xấu xa này trong thành phố của chúng ta, để chấm dứt sự hiện diện của lũ ma cà rồng, giúp cư dân của thành phố chúng ta tránh được căn bệnh dịch này.” Và vân vân. Người đã soạn bản thảo thú vị này, dù ông ta là ai, tiếp tục nêu lên các thông tin mà ông đã phát hiện trong nhiều tác phẩm kinh điển, bao gồm những chuyện kể về hồn ma trong chiếc bình cổ. Như anh biết, niên đại của bản chép tay này là năm sau khi Dracula bị bắt và bị cầm tù gần Buda. Trong những tài liệu mà anh tìm được ở Istanbul, anh đã mô tả vị Quốc vương Thổ cũng có mối quan tâm giống như vậy, điều này khiến tôi nghĩ là Dracula gây rắc rối ở bất kỳ nơi nào hắn đến. Cả hai trường hợp đều đề cập đến một bệnh dịch, và cả hai đều quan tâm đến tình trạng có sự mê tín về ma cà rồng. Hoàn toàn giống nhau, đúng không?’
“Anh ta dừng lại, trầm tư suy nghĩ. ‘Thực ra, nói theo cách nào đó thì mối liên hệ với bệnh dịch cũng không hẳn là không đáng tin - trong một tài liệu của Ý mà tôi đã đọc tại Thư viện Bảo tàng Anh quốc thì Dracula từng dùng chiến tranh vi trùng để chống lại người Thổ. Thực tế, hẳn hắn phải là một trong những người Âu châu đầu tiên từng sử dụng phương cách này. Hắn thích phái những kẻ tay sai đã nhiễm bệnh, ăn mặc như người Thổ đến các doanh trại của quân Thổ.’ Dưới ánh sáng ngọn đèn lồng, mắt của Hugh nheo lại, gương mặt bừng sáng, vẻ tập trung tinh thần cao độ. Cha chợt nhận ra mình đã tìm được ở Hugh James một bạn đồng minh thông minh sắc sảo nhất.
“ ‘Toàn bộ việc này nghe rất hấp dẫn,’ cha nhận xét. ‘Nhưng còn chuyện chữ Ivireanu thì sao?
“ ‘Ồ, tôi xin lỗi,’ Hugh mỉm cười. ‘Tôi hơi bị lạc đề. Tôi đã gặp chữ đó trong thư viện thành phố này. Tôi nghĩ mình đã tình cờ nhìn thấy chữ đó ba hay bốn ngày trước, trong một cuốn Tân ước thế kỷ mười bảy bằng tiếng Rumani. Tôi đã xem xét rất kỹ vì thấy cách trang trí bìa cuốn sách chịu ảnh hưởng khác thường của phong cách Ottoman. Trang bìa giả cũng có chữ Ivireanu chạy suốt ở chân trang - tôi chắc chắn đây cũng là chữ đó. Thành thực mà nói, lúc đó tôi không bận tâm lắm, vì chỉ biết lơ mơ tiếng Rumani nên tôi rất hay bỏ qua những từ thuộc ngôn ngữ này. Ngôn ngữ này thu hút sự chú ý của tôi chỉ vì kiểu chữ khá tao nhã của nó. Tôi cho rằng đó là tên một địa danh hoặc một cái gì đó đại loại như vậy.’
“Cha rên lên vì thất vọng. ‘Chỉ bấy nhiêu đó thôi sao? Anh chưa bao giờ nhìn thấy nó ở bất kỳ nơi nào khác sao?’
“ ‘Tôi e là không.’ Hugh lại cầm lấy cốc cà phê bỏ quên nãy giờ. ‘Nếu tình cờ gặp lại chữ đó lần nữa, chắc chắn tôi sẽ cho anh biết.’
“ ‘Chà, xét cho cùng có thể chữ đó chẳng liên quan gì với Dracula,’ cha nói, để tự an ủi. ‘Tôi chỉ ước giá chúng tôi có nhiều thời gian hơn để tra cứu trong thư viện này. Tiếc là thứ Hai chúng tôi đã phải bay về Istanbul rồi - tôi không được phép ở lại lâu hơn thời gian tổ chức hội nghị. Nếu anh phát hiện được bất cứ điều gì thú vị…’
“ ‘Dĩ nhiên rồi,’ Hugh trả lời. ‘Tôi còn được ở đây thêm khoảng sáu ngày nữa. Nếu tìm được cái gì đó thì tôi sẽ thư cho anh, gửi về khoa của anh, được chứ?’
“Câu hỏi khiến cha bất ngờ; đã nhiều ngày qua cha không nghĩ về quê nhà một cách nghiêm túc và không biết khi nào mới lại kiểm tra thư từ trong hộp thư của mình ở khoa. ‘Không, không,’ cha vội đáp. ‘Ít ra không phải là lúc này. Nếu tìm được điều gì đó mà anh nghĩ thực sự có thể có ích với chúng tôi, anh vui lòng gọi điện cho giáo sư Bora. Chỉ cần giải thích với ông ấy là chúng ta đã thỏa thuận như vậy. Nếu trực tiếp nói chuyện được với ông ấy, tôi sẽ cho ông ta biết có thể anh sẽ bắt liên lạc với ông ta.’ Cha lấy tấm danh thiếp của Turgut ra và ghi số điện thoại cho Hugh.
“ ‘Tốt lắm.’ Anh ta nhét tờ giấy ghi số điện thoại vào túi ngực áo. ‘Và xin gửi anh tấm danh thiếp của tôi. Hy vọng chúng ta sẽ có dịp gặp lại nhau.’ Chúng tôi im lặng ngồi đó một lát, anh ta đưa mắt nhìn xuống bàn, cùng những cốc đĩa trống trơn và ánh nến lung linh. ‘Xem nào,’ cuối cùng anh thốt lên. ‘Nếu tất cả những gì anh nói - hoặc thầy Rossi nói, ai cũng được - là sự thật, và nếu có một kẻ là Bá tước Dracula, hoặc Vlad Kẻ Xiên Người - vẫn còn sống - theo một ý nghĩa khủng khiếp nào đó, thì tôi sẵn sàng giúp anh…’
“ ‘Tiêu diệt hắn?’ cha bình thản tiếp lời. ‘Tôi sẽ ghi nhớ điều này.’
“Lúc đó, hình như chẳng còn gì để chúng ta bàn luận thêm, dù cha vẫn hy vọng một ngày nào đó chúng ta sẽ lại có dịp chuyện trò với nhau. Chúng ta tìm được một chiếc taxi để về Pest, anh ta khăng khăng đòi cùng cha bước vào trong khách sạn. Khi chúng ta thân mật nói lời tạm biệt tại quầy tiếp tân, tay nhân viên khách sạn mà cha đã nói chuyện trước đó bỗng bước ra khỏi căn phòng nhỏ và nắm lấy cánh tay cha. ‘Ngài Paul!’ anh ta nói, giọng nghiêm trọng.
“ ‘Chuyện gì vậy?’ Hugh và cha cùng quay nhìn chăm chú vào tay nhân viên khách sạn. Anh ta cao, trông ủ rũ trong bộ áo vest màu xanh công nhân, với bộ ria mép hẳn sẽ hợp hơn với một chiến binh Hung Nô. Anh ta kéo cha lại gần thì thào, cha cố gắng ra dấu bảo Hugh đừng bỏ đi. Không có ai ngoài chúng ta ở đó, và nhất là cha không muốn đơn độc trong bất kỳ biến cố nào nữa.
“ ‘Ngài Paul, tôi biết ai đã vào zimmer(1) của ngài trưa hôm nay.’
“ ‘Cái gì? Ai?’ cha hỏi.
“ ‘Ừm, ừm.’ Nhân viên khách sạn bắt đầu ậm ừ, và đưa mắt liếc quanh, lục tìm trong túi áo khoác một cách khó hiểu. Cha băn khoăn tự hỏi phải chăng gã thuộc típ người đần độn.
“ ‘Hắn muốn anh cho hắn ít tiền đấy,’ Hugh khe khẽ diễn dịch.
“ ‘Ôi, lạy Chúa,’ cha kêu lên, giọng bực tức, nhưng đôi mắt đang lờ đờ của gã nhân viên chỉ sáng bừng lên khi cha chìa ra hai tờ giấy bạc Hungary lớn. Gã kín đáo cầm lấy, nhét ngay vào túi, chẳng thèm nói một tiếng để cám ơn sự thỏa hiệp của cha.
“ ‘Ngài người Mỹ,’ gã thì thầm. ‘Tôi biết không chỉ có ein(2) tên. Mà là hai tên. Thoạt tiên chỉ xuất hiện một tên, một nhân vật rất quan trọng. Sau đó là tên kia. Tôi thấy hắn khi mang một chiếc cặp lên lầu, đến một zimmer khác. Tôi nhìn thấy bọn chúng ngay lúc đó. Chúng đã bàn với nhau. Bọn chúng cùng nhau ra ngoài.’
“ ‘Không ai ngăn bọn chúng lại sao?’ cha ngắt lời. ‘Bọn chúng là ai? Chúng có phải là người Hung không?’ Tay nhân viên khách sạn lại đưa mắt liếc quanh, cha ngừng thúc hối để gã bớt căng thẳng. Cái không gian bị rình mò và soi mói này làm cho thần kinh cha căng thẳng. Hugh đặt bàn tay lên cánh tay cha, ra vẻ can gián, chắc hẳn trông cha có vẻ giận dữ.
“ ‘Một người đàn ông Hungary có thế lực. Người còn lại không phải là người Hungary.’
“ ‘Làm sao anh biết?’
“Gã hạ thấp giọng. ‘Một người đàn ông Hungary, nhưng họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Ănglê.’ Đó là tất cả những gì gã tiết lộ, mặc cho cha đưa ra những câu hỏi càng lúc càng hối thúc. Có vẻ như gã cho rằng đã cung cấp đủ thông tin tương ứng với số tiền nhận được, và cha hẳn đã chẳng nghe gã nói thêm lời nào nữa, nếu không có một điều đột nhiên khiến gã chú ý. Gã đưa mắt nhìn về phía sau cha, cha cũng quay đầu nhìn theo, dõi theo ánh mắt của gã đến một khung cửa sổ lớn gần cửa khách sạn. Qua đó, trong một thoáng, cha nhìn thấy một nét mặt, với đôi mắt sâu hoắm và đói khát mà cha đã biết quá rõ, một gương mặt đến từ cõi âm ty chứ không phải của người trần gian. Gã nhân viên khách sạn nắm chặt cánh tay cha, lắp bắp. ‘Hắn kia kìa, cái mặt ma quỷ ấy kia kìa - thằng cha Ănglê!’
“Gần như thét lên một tiếng, cha hất gã nhân viên khách sạn ra và lao đến cửa. Hugh rất nhanh trí (sau này cha mới nhận ra), chộp lấy cây dù trên giá gần bàn tiếp tân rồi cũng lao ra theo cha. Ngay cả trong cơn hoảng hốt, cha vẫn giữ chặt chiếc cặp, và chính vì vậy không thể chạy nhanh. Chúng ta hết quẹo chỗ này rồi quẹo chỗ kia, phóng lên đường chính rồi quặt lui, nhưng chỉ hoài công. Thậm chí cha không nghe được tiếng bước chân của tên quỷ quái kia, vì vậy không thể nói chắc là hắn đã biến đi theo lối nào.
“Sau cùng, cha dừng lại, tựa người vào tường một tòa nhà, cố gắng lấy lại hơi thở. Hugh cũng thở hồng hộc. ‘Chuyện gì vậy?’ anh ta hổn hển hỏi.
“ ‘Tên thủ thư,’ cha cố gắng thều thào vài tiếng. ‘Kẻ đã theo dõi chúng tôi đến tận Istanbul. Tôi chắc chắn đó là gã.’
“ ‘Lạy Chúa.’ Hugh lấy tay áo lau trán. ‘Hắn làm gì ở đây?’
“ ‘Cố gắng lấy nốt những ghi chép còn lại của tôi,’ cha trả lời, thở khò khè. ‘Hắn là ma cà rồng, nếu anh có thể tin được điều đó, và giờ chúng tôi đã dẫn hắn đến thành phố xinh đẹp này.’ Thực ra, cha nói nhiều hơn thế, và chắc hẳn đã nhận ra trong ngôn ngữ chung của chúng ta toàn bộ những biến thể kiểu Mỹ khi thể hiện sự tức giận. Cha muốn trào nước mắt khi nghĩ đến tai ương mà mình đang lôi theo.
“ ‘Bình tĩnh nào,’ Hugh ôn tồn nói. ‘Theo như tôi biết, thành phố này trước đây cũng có ma cà rồng.’ Nhưng anh ta bỗng đưa mắt nhìn trừng trừng xung quanh, cầm chặt cây dù, mặt trắng bệch.
“ ‘Tức quá đi!’ cha đấm vào vách tường.
“ ‘Anh phải cẩn thận khi ra ngoài,’ Hugh nói, vẻ nghiêm nghị. ‘Cô Rossi đã về chưa?’
“ ‘Helen!’ Cha chợt nhớ ra cô, và Hugh suýt cười khi cha kêu thốt lên như thế. ‘Tôi về xem cô ấy thế nào đây. Tôi cũng sẽ gọi điện cho giáo sư Bora nữa. Nghe này, Hugh - anh cũng phải cẩn thận khi ra ngoài đấy. Cẩn thận, được chứ? Hắn đã thấy anh đi cùng tôi, và việc này có vẻ như không phải là chuyện may mắn đối với bất kỳ ai trong những ngày này.’
“ ‘Đừng lo cho tôi.’ Hugh đăm chiêu nhìn vào cây dù đang cầm trong tay. ‘Anh đã dúi cho tay nhân viên khách sạn bao nhiêu?’
“Cha bật cười dù đang căng thẳng đến ngạt thở. ‘Ừ, luôn nhớ mang tiền theo lót tay nhé.’ Chúng ta nồng nhiệt bắt tay nhau, và Hugh biến mất trên con đường dẫn về khách sạn anh ta trú ngụ, cách đó không xa. Cha không thích để anh ta đi một mình, nhưng khi ấy trên phố vẫn còn khá đông người đang tản bộ và trò chuyện. Mà đằng nào cha cũng biết anh ta sẽ đi theo con đường của riêng mình; anh ta là mẫu người như vậy.
“Quay trở lại đại sảnh của khách sạn, cha không thấy dấu vết của tay nhân viên nhát gan kia. Có lẽ chỉ đơn giản vì ca trực của gã đã hết: có một thanh niên mày râu nhẵn nhụi đang ngồi ở chỗ của gã sau quầy. Anh ta chỉ cho cha thấy chìa khóa phòng Helen vẫn còn treo tại chỗ, vì vậy cha nghĩ chắc hẳn cô vẫn còn ở bên nhà bà bác. Sau một cuộc mặc cả chi tiết về chi phí cuộc gọi, anh ta để cha sử dụng điện thoại, và phải sau vài lần quay số chuông điện thoại của Turgut mới reo. Cha không thấy thoải mái khi gọi điện thoại từ khách sạn vì biết có thể bị nghe lén, nhưng vào giờ này không còn lựa chọn nào khác. Cha hy vọng cuộc nói chuyện của chúng ta sẽ kỳ quặc đến độ không hiểu nổi. Rốt cuộc, cha cũng nghe tiếng lách cách nhấc máy, và sau đó là giọng của Turgut, nghe xa xôi nhưng vui vẻ, trả lời bằng tiếng Thổ.
“ ‘Giáo sư Bora!’ cha hét lên. ‘Turgut, Paul đây, tôi đang gọi từ Budapest.’
“ ‘Chào Paul, bạn thân mến!’ Cha nghĩ mình chưa từng được nghe cái gì ngọt ngào hơn giọng nói trầm xa xôi đó. ‘Đường dây có vấn đề - cho tôi số điện thoại anh đang gọi phòng trường hợp đường dây bị gián đoạn.’
“Cha hỏi tay nhân viên trực khách sạn số điện thoại rồi hét to lên đọc cho Turgut. Ông ta hét đáp lại. ‘Anh khỏe không? Anh tìm được hắn chứ?’
“ ‘Chưa được!’ cha hét lên. ‘Chúng tôi ổn, và đã biết thêm được chút ít, nhưng một chuyện đáng sợ vừa xảy ra.’
“ ‘Chuyện gì vậy?’ Cha như nghe được giọng nói sửng sốt của ông ta vọng tới yếu ớt qua đường dây. ‘Anh có hề hấn gì không? Cô Rossi thì sao?’
“ ‘Không - chúng tôi đều ổn, nhưng gã thủ thư đã theo bọn tôi đến đây.’ Cha nghe một tràng những lời lên bổng xuống trầm, có thể đó là một lời chửi rủa nào đó theo kiểu văn chương của Shakespeare, nhưng cha không thể nghe rõ vì đường dây bị nhiễu. ‘Ông nghĩ chúng tôi phải làm gì đây?’
“ ‘Tôi cũng chưa biết.’ Lúc này giọng nói của Turgut đã rõ hơn một chút. ‘Lúc nào anh cũng mang theo bộ đồ nghề của tôi đấy chứ?’
“ ‘Vâng,’ cha trả lời. ‘Nhưng tôi vẫn chưa tiếp cận được con ma cà rồng này đủ gần để sử dụng được bộ đồ nghề của ông. Tôi nghĩ hắn đã lục soát phòng tôi hôm nay, trong lúc chúng tôi đang ở chỗ hội nghị, và có vẻ như có ai đó đã giúp hắn.’ Có lẽ ngay lúc này cảnh sát đang nghe lén chúng ta. Ai biết được bọn họ sẽ suy diễn gì từ những lời trao đổi này chứ?
“ ‘Hãy cẩn thận, giáo sư ạ.’ Giọng Turgut có vẻ lo lắng. ‘Ngay lúc này, tôi chưa có lời khuyên khôn ngoan nào dành cho anh, nhưng tôi sẽ sớm có được vài tin tức, có thể ngay cả trước khi anh trở về Istanbul. Tôi rất vui vì tối nay anh đã gọi điện. Aksoy và tôi đã tìm được một tài liệu mới, cả hai chúng tôi đều chưa từng thấy nó trước đó. Anh ta tìm được nó trong trung tâm lưu trữ của Quốc vương Mehmed. Tài liệu này được một tu sĩ thuộc Giáo hội Chính thống Phương Đông viết vào năm 1477, và cần phải dịch ra.’
“Đường dây lại bị nhiễu nên cha phải hét lên. ‘Ông nói năm 1477? Nó được viết bằng tiếng gì?’
“ ‘Tôi không nghe anh được, chàng trai à!’ Turgut gầm lên, nghe rất xa xăm. ‘Ở đây đang mưa dông. Tối mai tôi sẽ gọi lại cho anh.’ Một mớ hỗn độn âm thanh - cha không rõ liệu đó là tiếng Hung hay tiếng Thổ - xen vào giữa chúng ta và át hết những lời nói sau đó của Turgut. Tiếp theo là những tiếng cạch, và đường dây im bặt. Cha chậm rãi gác máy, băn khoăn không biết có nên gọi lại hay không, nhưng tay nhân viên đã chực sẵn để nhận lại điện thoại với vẻ mặt lo âu và cộng số tiền cha phải thanh toán trên một mẩu giấy. Cha rầu rĩ trả tiền và đứng nán lại đó một lát, chẳng muốn quay trở lại căn phòng mới trống trơn của mình, nơi cha chỉ được phép mang theo bộ đồ cạo râu và một chiếc áo sạch. Xét cho cùng, tinh thần cha đang tuột dốc không phanh - hôm nay thật là một ngày dài, và đồng hồ trong tiền sảnh đã chỉ gần mười một giờ.
“Tinh thần cha sẽ còn tiếp tục sa sút nếu ngay lúc đó không có một chiếc taxi trờ đến. Helen bước ra, trả tiền cho tài xế, rồi bước vào qua cánh cửa lớn. Cô vẫn chưa nhận ra cha đang đứng cạnh quầy tiếp tân, nét mặt có vẻ nghiêm trọng và dè dặt, cùng với vẻ dữ dội u sầu mà đôi khi cha vẫn thấy. Cô choàng một chiếc khăn len màu đỏ pha đen mà cha mới nhìn thấy lần đầu, có thể đó là quà tặng của bà bác. Chiếc khăn che khuất đường nét thô cứng của chiếc áo vest và hai bờ vai, khiến làn da cô trở nên trắng rạng rỡ ngay cả dưới ánh đèn thô mộc của gian tiền sảnh. Cô trông giống như một nàng công chúa, trong khoảnh khắc cha ngẩn người nhìn cô chăm chú, trước khi cô nhận ra cha. Cha cứ nhìn trân trân, không phải chỉ vì vẻ đẹp được tôn lên nhờ chiếc khăn len mềm mại và chiếc cằm kiêu sa ấy, mà còn bởi nó khiến cha chợt nhớ, với một thoáng rùng mình khó chịu, tới bức chân dung trong phòng làm việc của Turgut - gương mặt ngạo mạn, chiếc mũi dài thẳng, đôi mắt to đen với hàng mi dày rợp. Chắc chỉ vì mình đã quá mỏi mệt thôi, cha tự nhủ. Đúng lúc ấy Helen trông thấy cha, mỉm cười, và hình ảnh kia lại tan biến khỏi tâm trí cha.”
Chú thích:
1. Nguyên văn tiếng Đức: Phóng
2. Nguyên văn tiếng Đức: Một