Truy tìm Dracula - Chương 50 phần 2

Khi họ đi vào.

“ ‘Trời ơi, quả thực kỳ lạ và đáng sợ,’ Turgut thốt lên. ‘Chẳng lẽ tất cả những bài dân ca của dân tộc cô đều như vậy sao?’

“ ‘Vâng, phần lớn đều như vậy,’ Helen vừa trả lời vừa cười lớn. Cha nhận ra vì quá phấn khích mà trong hai phút vừa rồi cha đã quên bẵng rằng Helen vẫn đang ngồi sát bên cạnh. Khó khăn lắm cha mới ngăn mình không đưa tay ra nắm lấy tay cô, không nhìn chằm chằm vào nụ cười hay mớ tóc đen lòa xòa trên má cô.

“ ‘Và con rồng ở đầu trang, giữa đám cây cối - hẳn phải có một sự liên quan.’

“ ‘Ước gì tôi được thấy bức tranh đó nhỉ.’ Turgut thở dài. Rồi đột nhiên, ông vỗ mạnh vào gờ chiếc bàn bằng đồng làm cho cốc chén nảy bật cả lên. Bà Bora nhẹ nhàng đặt tay lên cánh tay ông, và Turgut vỗ vỗ lên bàn tay ấy vẻ trấn an. ‘Không - xem này - bệnh dịch!’ Ông quay qua Selim và cả hai trao đổi một tràng tiếng Thổ.

“ ‘Cái gì?’ Mắt Helen nhíu lại, vẻ tập trung cao độ. ‘Bệnh dịch trong bài hát đó ư?’

“ ‘Phải.’ Turgut vuốt ngược tóc ra phía sau. ‘Ngoài lá thư này, chúng tôi còn phát hiện ra một sự kiện khác ở Istanbul vào đúng thời kỳ đó - thực ra, đó là một điều mà anh bạn Aksoy đây đã biết rồi. Cuối mùa hè năm 1477, lúc thời tiết nóng bức nhất, đã xảy ra cái mà sử gia nước tôi gọi là một trận Tiểu Dịch. Nó đã cướp đi mạng sống của nhiều người trong khu Pera thành phố này - giờ chúng tôi gọi đó là khu Galata. Xác người chết bị đóng cọc vào tim trước khi đem đi thiêu. Anh Aksoy nói đây là điều khá bất thường, bởi bình thường thi thể của những người bất hạnh chỉ bị thiêu ngoài cổng thành để ngăn ngừa sự lây nhiễm. Nhưng đó chỉ là bệnh dịch xảy ra trong một thời gian ngắn và không làm chết nhiều người.’

“ ‘Ông có cho rằng các tu sĩ này, nếu họ cũng chính là những người trong bài hát, mang dịch bệnh này đến thành phố?’

“ ‘Lẽ tất nhiên là chúng tôi không biết,’ Turgut thừa nhận. ‘Nhưng nếu bài hát của các bạn đề cập đến cùng một nhóm tu sĩ ở bức thư...’

“ ‘Tôi đang nghĩ đến một điều.’ Helen đặt cốc cà phê xuống. ‘Em không nhớ đã nói với anh điều này chưa Paul ạ, nhưng trong lịch sử Vlad Dracula là một trong các chiến lược gia quân sự đầu tiên sử dụng - người ta gọi là gì nhỉ? - bệnh tật trong chiến tranh.’

“ ‘Chiến tranh vi trùng,’ cha bổ sung. ‘Hugh James đã nói với anh như vậy.’

“ ‘Đúng rồi.’ Cô ngồi gập chân lại. ‘Suốt các cuộc xâm lấn xứ Wallachia của Quốc vương Mehmed, Dracula thường phái người đã nhiễm bệnh đậu mùa hoặc một bệnh dịch nào đó cải trang thành người Thổ và xâm nhập vào doanh trại quân Thổ. Trước khi chết ở đó, những người này cố làm lây nhiễm cho càng nhiều người càng tốt.’

“Cha hẳn đã mỉm cười nếu câu chuyện không đáng sợ đến vậy. Ông hoàng xứ Wallachia quả là vừa vô cùng sáng tạo vừa có khả năng hủy diệt đáng sợ, một kẻ thù cực kỳ thông minh. Một lát sau cha nhận ra mình vừa mới nghĩ về ông ta như là một con người đương thời.

“ ‘Tôi hiểu.’ Turgut gật đầu. ‘Ý cô là, có lẽ nhóm tu sĩ này, nếu họ quả thực là cùng một nhóm với nhóm tu sĩ trong bài hát, là những người mang theo bệnh dịch từ Wallachia.’

“ ‘Tuy nhiên, vẫn còn một điều không giải thích được.’ Helen cau mày. ‘Nếu một vài người trong số họ nhiễm bệnh, tại sao Cha tu viện trưởng ở Sain Irine cho phép họ ở lại đó?’

“ ‘Thực vậy,’ Turgut lại thừa nhận. ‘Dù rằng nếu đó không phải là bệnh dịch mà là một loại lây nhiễm nào đó - nhưng cũng chẳng có cách nào để biết được.’ Chúng ta ngồi nghiền ngẫm trong tâm trạng chán nản.

“ ‘Nhiều tu sĩ Chính Thống giáo vẫn hành hương qua Constantinople ngay cả sau cuộc chinh phục,’ sau cùng Helen cũng lên tiếng trở lại. ‘Có thể đây chỉ là một nhóm những người hành hương.’

“ ‘Nhưng họ đang tìm kiếm một cái gì đó mà có vẻ như họ đã không tìm được trong chuyến hành hương của mình, ít ra là ở Constantinople,’ cha phân tích. ‘Và Sư huynh Kiril nói rằng họ sẽ hóa trang thành người hành hương để đi Bungari, như thể họ không phải là những người hành hương thực sự - ít nhất, đó dường như là điều ông ta muốn nói.’

“Turgut gãi đầu. ‘Aksoy cũng đã suy nghĩ về điều này,’ ông nói. ‘Anh ấy giải thích với tôi là suốt cuộc xâm lăng hầu hết các thánh tích quan trọng của Thiên Chúa giáo trong các nhà thờ tại Constantinople đều bị phá hủy hoặc đánh cắp - ảnh thánh, thánh giá, di hài các vị thánh. Dĩ nhiên là vào năm 1453 ở đây không còn nhiều vàng bạc châu báu như thời cực thịnh của thành phố Byzantium, những món đồ cổ đẹp đẽ nhất đã bị đánh cắp trong cuộc Thập tự chinh của dân Latin vào năm 1204 rồi mang về Rome, Venice và các thành phố phương Tây khác - chắc hẳn các bạn cũng biết chuyện đó.’ Turgut xòe đôi bàn tay ra phía trước, cử chỉ như bày tỏ sự phản đối. ‘Cha tôi đã kể với tôi về những chú ngựa tuyệt vời tại thánh đường San Marco ở Venice đã bị Thập tự quân đánh cắp ở Byzantium. Các bạn thấy đó, những kẻ xâm lăng Thiên Chúa giáo cũng tồi tệ đâu kém quân Thổ Nhĩ Kỳ. Dù sao chăng nữa, các bạn ạ, trong cuộc xâm lăng năm 1453, một vài vật báu của các nhà thờ đã được cất giấu, thậm chí một số còn được mang ra khỏi thành phố trước cuộc bao vây của Quốc vương Mehmed rồi được giấu trong các tu viện ngoại thành hoặc bí mật chuyển đến những xứ khác. Nếu các tu sĩ của chúng ta là người hành hương, có lẽ họ đến thành phố này với hy vọng viếng thăm một thánh vật nào đó nhưng rồi lại phát hiện ra vật này đã biến mất. Có lẽ điều mà Cha tu viện trưởng của tu viện thứ hai kể với họ là câu chuyện về một ảnh thánh quan trọng nào đó đã được đưa đến Bungari an toàn. Nhưng chúng ta không có cách nào để biết rõ, qua lá thư này.’

“ ‘Giờ thì tôi đã hiểu vì sao ông muốn chúng tôi đi Bungari.’ Cha lại phải kìm nén lại cái thôi thúc muốn cầm tay Helen. ‘Mặc dù tôi không thể hình dung chúng tôi sẽ làm thế nào để tìm hiểu thêm về câu chuyện này khi đến nơi, chưa nói đến việc làm sao để vào được đất nước đó. Ông chắc chắn chúng ta không còn chỗ nào để tìm kiếm ở Istanbul này chứ?’

“Turgut buồn bã lắc đầu và cầm lấy cốc cà phê ông bỏ quên nãy giờ. ‘Tôi đã sử dụng mọi nguồn thông tin có thể nghĩ đến, kể cả vài nguồn - tôi rất tiếc phải nói rằng - không thể tiết lộ với các bạn. Anh Aksoy đã xem xét khắp nơi, trong các cuốn sách của riêng anh, trong thư viện của bạn bè, trong các kho lưu trữ của trường đại học. Tôi đã nói chuyện với mọi sử gia có thể tìm được, kể cả một vị chuyên nghiên cứu về các nghĩa địa ở Istanbul - các bạn đã thấy các nghĩa địa xinh xắn của chúng tôi rồi đấy. Chúng tôi không tìm thấy bất kỳ sự đề cập nào đến vụ mai táng bất thường một người ngoại quốc ở đây, trong thời kỳ ấy. Có thể chúng tôi đã bỏ sót gì đó, nhưng trong một thời gian ngắn thì tôi không biết phải tìm ở nơi nào khác nữa.’ Ông nhìn chúng ta đăm đăm, vẻ nghiêm trang. ‘Tôi biết với các bạn phải đi Bungari là một việc rất khó khăn. Tôi cũng có thể đi, nhưng đối với tôi đó cũng là một việc thậm chí còn khó khăn hơn. Là người Thổ, thậm chí tôi còn không thể tham dự bất kỳ hội nghị học thuật nào của họ. Không dân tộc nào ghét con cháu của đế quốc Ottoman như người Bungari.’

“ ‘Ồ, còn có người Rumani,’ Helen trấn an ông, nhưng lời của cô đã được làm nhẹ đi bằng một nụ cười khiến Turgut đáp lại bằng một tiếng cười khúc khích.

“ ‘Nhưng - Chúa ơi.’ Cha lại ngồi dựa vào đám đệm trên trường kỷ, cảm giác như mình đang bị cuốn vào một trong những cơn sóng hão huyền càng lúc càng dồn dập dâng trào. ‘Tôi vẫn chưa nghĩ ra mình có thể tiến hành việc này như thế nào.’

“Turgut chồm tới, đặt bản dịch sang tiếng Anh lá thư của vị tu sĩ trước mặt cha. ‘Ông ta cũng không biết.’

“ ‘Ai kia chứ?’ cha rên lên.

“ ‘Sư huynh Kiril. Nghe đây, anh bạn, giáo sư Rossi mất tích từ khi nào?’

“ ‘Hơn hai tuần rồi,’ cha trả lời.

“ ‘Anh đừng để hao phí thời gian thêm nữa. Chúng ta đã biết Dracula không có trong hầm mộ của hắn ở Snagov. Chúng ta cho rằng hắn không được chôn ở Istanbul. Nhưng’ - ông gõ gõ lên tờ giấy - ‘đây là một chứng cứ. Về cái gì, chúng ta chưa biết, nhưng vào năm 1477, một ai đó từ tu viện Snagov đã đi Bungari - hoặc cố gắng tới đó. Đây là một việc đáng để tìm hiểu. Nếu anh không tìm thấy điều gì, anh cũng đã làm hết sức mình. Lúc đó anh có thể trở về nhà mà khóc thương ông thầy của mình với một tấm lòng thanh thản, còn chúng tôi, bạn anh, sẽ ghi nhớ mãi lòng dũng cảm của anh. Nhưng nếu anh không cố gắng, anh sẽ luôn băn khoăn và không bao giờ nguôi ngoai được nỗi buồn đau của mình.’

“Ông lại cầm bản dịch lên, rà ngón tay trên tờ giấy rồi đọc to, ‘ “Đối với chúng tôi, hiện tại phải lưu lại nơi này dù chỉ một ngày cũng là vô cùng nguy hiểm, chúng tôi sẽ an toàn hơn dù đang trên đường đi giữa những vùng đất ngoại đạo.” Đây, anh bạn. Hãy cất bản dịch này vào túi xách. Đây là bản của anh, bản tiếng Anh. Kèm theo đây là một bản tiếng Xlavơ mà ông bạn ở tu viện của anh Aksoy đã chép ra.’

“Turgut ngả người về phía trước. ‘Ngoài ra, tôi biết có một học giả ở Bungari mà các bạn có thể nhờ giúp đỡ. Tên ông ta là Anton Stoichev. Anh bạn Aksoy của tôi rất ngưỡng mộ các tác phẩm của ông ấy, vốn đã được xuất bản dưới nhiều thứ tiếng.’ Selim Aksoy gật đầu khi nghe cái tên đó. ‘Stoichev hiểu biết về vùng Balkan thời Trung cổ hơn bất kỳ người nào, đặc biệt là về Bungari. Ông ta ở gần Sofia - các bạn phải hỏi thăm để tìm ra ông ấy.’

“Helen bất chợt nắm lấy tay cha, một cách công khai, khiến cha vô cùng ngạc nhiên; cha nghĩ chúng ta chưa nên công khai mối quan hệ ngay cả ở đây, trước những người bạn này. Cha thấy ánh mắt Turgut dừng lại nơi cử động nhỏ ấy. Những nếp nhăn nồng hậu chung quanh mắt và miệng ông như hằn sâu hơn, còn bà Bora nhìn chúng ta và nở nụ cười hiền hậu, đan đôi bàn tay nhỏ nhắn như tay con gái quanh đầu gối. Rõ ràng bà tán thành sự kết hợp của chúng ta, và cha như cảm nhận được những lời chúc phúc bất chợt từ những con người nhân hậu này.

“ ‘Được rồi, để em gọi cho bác em,’ Helen siết chặt tay cha và nói giọng dứt khoát.

“ ‘Bác Éva ư? Bác ấy có thể làm được gì?’

“ ‘Anh biết đấy, bác Éva có thể làm bất kỳ điều gì.’ Helen mỉm cười với cha. ‘Không, em không biết chính xác bác ấy có thể hoặc sẽ làm gì. Nhưng bác ấy có bạn bè cũng như kẻ thù trong lực lượng cảnh sát mật của đất nước chúng ta’ - cô hạ giọng, có vẻ như một phản xạ vô điều kiện - ‘mà bọn họ thì lại có bạn bè khắp vùng Đông Âu này. Và lẽ dĩ nhiên, cả kẻ thù nữa - tất thảy bọn họ đều canh chừng lẫn nhau. Việc này có thể khiến bác ấy gặp chút nguy hiểm - đó là điều duy nhất làm em cảm thấy hối tiếc. Và chúng ta cũng sẽ cần một khoản đút lót rất, rất lớn đấy.’

“ ‘Tiền trà nước ấy mà.’ Turgut gật đầu. ‘Dĩ nhiên là vậy. Anh Selim và tôi đã nghĩ đến chuyện đó. Các bạn có thể sử dụng hai mươi ngàn lia mà chúng tôi có. Và mặc dù không thể cùng đi với các bạn nhưng tôi sẽ hỗ trợ bất cứ việc gì có thể, anh Aksoy cũng vậy.’

“Lúc đó, cha nhìn sững ông, và cả Aksoy nữa - họ ngồi ngay trước mặt chúng ta, không đụng đến cốc cà phê, người thẳng đơ và nghiêm túc. Một nét gì đó trên mặt họ - khuôn mặt to hồng hào của Turgut, khuôn mặt thanh tú của Aksoy, sự tinh tường, điềm tĩnh nhưng cũng vô cùng cảnh giác trên gương mặt cả hai - bỗng trở nên quen thuộc với cha. Một cảm giác cha không thể gọi tên chợt trào dâng trong cha; trong khoảnh khắc, cảm xúc đó như níu lại câu hỏi trên miệng cha. Rồi cha siết tay Helen chặt hơn trong tay mình - bàn tay mạnh mẽ, rắn chắc mà thành thân thương ấy - và nhìn vào đôi mắt đăm đăm tối đen của Turgut.

“ ‘Ông là ai?’ cha gằn giọng.

“Turgut và Selim liếc nhìn nhau, và có vẻ như đang ngầm trao đổi một điều gì đó. Rồi Turgut lên tiếng, giọng trầm nhưng rõ ràng. ‘Chúng tôi phụng sự Quốc vương.’ ”