Truy tìm Dracula - Chương 55 phần 1

Chương 55

“Mấy năm trở lại đây, cha thấy mình cứ không ngơi nhớ về lần đầu tiên nhìn thấy ngôi nhà của Anton Stoichev. Có lẽ nó để lại trong cha ấn tượng sâu đậm như vậy vì sự tương phản giữa thành phố Sofia và nơi trú ngụ của ông, ở ngay bên ngoài thành phố, hoặc có thể cha thường nhớ đến nó vì chính bản thân Stoichev - sự đặc biệt và tinh tế của con người ông. Tuy nhiên, cha nghĩ mình cảm thấy một niềm hy vọng mãnh liệt đến nín thở khi hồi tưởng lại hình ảnh cánh cổng trước căn nhà của Stoichev, bởi buổi gặp giữa ông ấy và chúng ta là bước ngoặt trong cuộc tìm kiếm thầy Rossi.

“Mãi sau này, khi đọc về các tu viện nằm ngoài thành Constantinople, những chốn linh thiêng nơi đôi lúc người ta đến trú ngụ để tránh không phải thi hành những sắc dụ toàn thành phố về điểm này điểm kia trong lễ nghi nhà thờ, nơi họ không được bảo vệ bởi những bức tường vĩ đại của thành phố nhưng ở một mức độ nào đó lại thoát khỏi cái vòi bạch tuộc bạo ngược của nhà nước, cha lại nghĩ đến Stoichev - mảnh vườn nhà ông, những cây táo và anh đào nghiêng nghiêng nở đầy hoa trắng, ngôi nhà nằm sâu trong sân, những chiếc lá non trên cành và các tổ ong màu xanh, hai cánh cổng gỗ cũ kỹ, không gian tĩnh lặng bao trùm nơi ấy, không khí của lòng mộ đạo, của chốn ẩn dật thong dong tự tại.

“Chúng ta đứng trước cánh cổng đó trong lúc bụi lắng xuống xung quanh chiếc xe của Ranov. Helen là người đầu tiên đẩy tay nắm của một trong những then cửa cũ kỹ kia; Ranov sưng sỉa đi tụt lại phía sau, tựa như không muốn bị ai nhìn thấy ở nơi đó, thậm chí là chúng ta, và thực kỳ lạ cha có cảm giác như mình đang chôn chân tại chỗ. Mất một lúc cha như bị thôi miên bởi sự dao động giữa buổi sớm của lá và ong, và bởi một cảm giác sợ hãi không mong đợi. Cha nghĩ, có thể Stoichev hóa ra lại không giúp được gì, một giải pháp cuối cùng không lối thoát, và như vậy chúng ta sẽ phải trở về nhà sau khi đã đi một chặng đường dài vô ích. Cha đã hình dung tình huống này hàng trăm lần: chuyến bay thầm lặng về New York từ Sofia hoặc Istanbul - cha nghĩ mình muốn gặp lại Turgut một lần nữa - và sắp xếp lại cuộc sống của mình ở quê nhà, một cuộc sống không có thầy Rossi, những câu tra hỏi cha đã đi đâu, các vấn đề nảy sinh với khoa trong thời gian dài cha vắng mặt, việc quay lại viết tiếp về giới thương nhân Hà Lan - những kẻ bình tĩnh chán ngắt - dưới sự dẫn dắt của một vị giáo sư hướng dẫn mới năng lực kém xa thầy Rossi, và cánh cửa đóng kín của phòng làm việc thầy Rossi. Hơn tất thảy, cha khiếp sợ cánh cửa đóng kín đó, sợ cuộc điều tra đang diễn ra, sợ sự tra vấn khó chịu của cảnh sát - ‘Vậy... ông... ờ… ông Paul… đúng chứ? Ông đã thực hiện một chuyến đi chỉ hai ngày sau khi thầy hướng dẫn của mình mất tích?’ - sợ những cuộc triệu tập nho nhỏ khó hiểu với không khí như thể ở lễ truy điệu, kết thúc bằng câu hỏi về những cuốn sách, tác quyền và di sản của thầy Rossi.

“Dĩ nhiên, quay trở về tay trong tay với Helen sẽ là một niềm an ủi lớn. Cha định hỏi cưới cô khi toàn bộ chuyện khủng khiếp này kết thúc, cách này hay cách khác; nếu có thể, trước tiên cha phải dành dụm một ít tiền, rồi cha sẽ đưa cô đến Boston gặp ông bà. Đúng vậy, cha sẽ trở về nắm tay cô trong tay mình, nhưng sẽ không có người cha nào cầm lấy bàn tay đó trong lễ cưới. Cha thoáng cảm thấy một nỗi đau đớn mơ hồ khi Helen mở cánh cổng.

“Phía bên trong, ngôi nhà của Stoichev nằm êm đềm trên một khu đất gập ghềnh mà một phần là sân và phần còn lại là vườn cây ăn quả. Phần móng nhà xây bằng một loại đá xám nâu nhạt, kết dính với nhau bằng thạch cao trắng; sau này cha mới biết đó là một trong những loại đá hoa cương được sử dụng ở hầu hết các công trình xây dựng cổ của Bungari. Trên lớp nền móng là tường gạch, nhưng là loại gạch có màu đỏ vàng mượt mà nhất, tưởng chừng như đã thấm đẫm ánh mặt trời qua hàng bao nhiêu năm tháng. Mái được lợp ngói đỏ. Cả mái và tường nhà đều hơi xiêu vẹo. Toàn bộ ngôi nhà trông có vẻ như đã dần dần mọc lên từ mặt đất và bây giờ đang chậm rãi trở về với cát bụi, và đám cây cối mọc bên trên tựa như chỉ để phủ bóng lên cái tiến trình đó. Tầng trệt có một cái chái nhô ra một bên hông, cạnh hông bên kia căng một giàn lưới mắt cáo, bên trên phủ đầy dây nho và bên dưới dọc theo bờ tường là những cụm hoa hồng phớt. Phía dưới giàn lưới mắt cáo là một bàn gỗ và bốn chiếc ghế thô mộc, cha hình dung đó là chỗ sẽ rợp bóng mát của những chùm lá nho vào mùa hè. Bên ngoài giàn nho, và dưới gốc táo già nhất, đong đưa hai tổ ong hình thù quái dị; gần đó, một mảnh vườn nhỏ với những luống rau xanh mướt thẳng thớm nằm trong ánh nắng ngập tràn, chứng tỏ có sự chăm sóc tỉ mỉ của bàn tay ai đó. Cha có thể ngửi thấy mùi thảo mộc và một thứ mùi có lẽ là oải hương, mùi cỏ tươi và mùi hành rán. Ai đó đã chăm nom gìn giữ chốn xưa cũ này bằng sự nâng niu trìu mến, và cha phần nào nghĩ rằng sẽ nhìn thấy Stoichev mặc đồ tu sĩ, đang quỳ trong mảnh vườn với một cái xẻng trồng cây.

“Rồi, một giọng hát bắt đầu trỗi lên bên trong, có lẽ gần bên ống khói đổ nát và các cửa sổ tầng trệt. Đó không phải là giọng nam trung của một người đàn ông sống ẩn dật, mà là một giọng nữ cao ngọt ngào, một giai điệu mãnh liệt thậm chí khiến cả tay Ranov đang phì phèo điếu thuốc và cau cau có có bên cạnh cha cũng có vẻ thích thú. ‘Izvinete!’ gã thốt lên. ‘Dobar den!’ Tiếng hát ngưng lại đột ngột, tiếp theo là tiếng lách cách và một tiếng thịch. Cánh cửa trước nhà Stoichev bật mở và một cô gái đứng đó, nhìn chúng ta chằm chằm, tựa như cô ta không tưởng tượng được trong sân nhà mình lại có hình bóng con người.

“Cha dợm bước tới, nhưng Ranov đã chen ngang, nhấc mũ, gật đầu, nghiêng người chào cô theo kiểu cách người Bungari. Cô gái đưa hai tay ôm má, nhìn Ranov với ánh mắt tò mò, cha nhận ra trong đó dường như còn có vẻ cảnh giác nữa. Nhìn kỹ thì cô không hẳn trẻ như cha nghĩ, nhưng từ người cô toát ra một sức sống mạnh mẽ và sinh động khiến cha nghĩ có thể cô là tác giả của mảnh vườn nhỏ nhiều màu sắc và những mùi thơm trong bếp kia. Mái tóc chải ngược ra sau để lộ một gương mặt tròn trĩnh; một nốt ruồi đen trên trán. Mắt, miệng và cằm giống như của một đứa bé xinh xắn. Tạp dề khoác bên ngoài áo cánh trắng và váy xanh. Cô gái dò xét chúng ta bằng một cái liếc nhìn sắc lẻm trái ngược hẳn với vẻ ngây thơ trong mắt, và cha nhận thấy sau những câu tra vấn nhanh của cô, Ranov thậm chí đã phải mở ví cho cô xem một cái thẻ. Dù là con gái hay người giúp việc - liệu giáo sư về hưu có được phép thuê người giúp việc trong một đất nước cộng sản? - thì rõ ràng cô ta không phải là người khờ dại. Dường như Ranov đang nỗ lực khác thường để tỏ ra quyến rũ; gã vừa cười vừa quay lại giới thiệu chúng ta. ‘Đây là cô Irina Hristova,’ gã giải thích khi chúng ta bắt tay nhau. ‘Cô ấy là ness của giáo sư Stoichev.’

“ ‘Nest - tổ chim(1)_ hả?’ cha hỏi, thoáng nghĩ đây có thể là một cách gọi ẩn dụ tinh tế nào đó.

“ ‘Con gái của bà chị,’ Ranov trả lời. Gã châm điếu thuốc khác và mời Irina một điếu nhưng cô từ chối bằng một cái gật đầu dứt khoát. Khi gã giải thích là chúng ta từ Mỹ đến, cô tròn xoe mắt nhìn chúng ta chăm chú. Rồi cô gái bật cười, cha chưa bao giờ hiểu ý nghĩa nụ cười đó là gì. Ranov lại quắc mắt cau có - cha không nghĩ mới khoảnh khắc trước đây gã có thể tỏ ra vui vẻ như vậy - và cô gái quay người dẫn chúng ta vào.

“Ngôi nhà lại làm cho cha ngạc nhiên; bên ngoài nó có thể là một trang trại cổ xưa xinh xắn, nhưng bên trong, trong ánh sáng mờ mờ tương phản hoàn toàn với ánh mặt trời của khoảnh sân phía trước, ngôi nhà thực sự là một viện bảo tàng. Cánh cửa mở thẳng vào một căn phòng lớn có lò sưởi, ánh nắng chiếu lên mặt đá thay vì một ngọn lửa. Bản thân đồ đạc trong nhà trông rất bắt mắt - những chiếc tủ com mốt màu đen, gắn gương, chạm khắc cầu kỳ và những chiếc ghế dựa, ghế bành sang trọng - nhưng thứ làm cha không thể rời mắt và khiến Helen trầm trồ thán phục là sự hòa hợp hiếm thấy giữa chất liệu vải dân gian và những vật trang trí - phần lớn là ảnh thánh cổ, nhiều ảnh trong số đó, theo cha, có chất lượng vượt hẳn những ảnh thánh chúng ta nhìn thấy trong các nhà thờ ở Sofia. Có những bức ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh mắt sáng ngời, những ảnh lớn nhỏ khác nhau của các vị thánh môi mỏng, mặt mày buồn bã, nổi bật nước sơn mạ vàng hoặc bọc miếng dát bạc, ảnh các đấng tông đồ đang đứng trong thuyền và các thánh tử đạo đang kiên trì trải qua những khổ nạn của mình. Sắc màu phong phú cổ xưa và ám khói hiển hiện ở mọi phía, từ những tấm thảm đến những chiếc tạp dề dệt thành đủ kiểu hoa văn kỷ hà, thậm chí một bộ áo giáp thêu và một cặp khăn quàng cũng điểm thêm những đồng xu nhỏ tí. Helen trỏ những chiếc túi nằm ngang thân dưới bộ áo giáp. ‘Để chứa đạn,’ cô chỉ nói có vậy.

“Kế bên chiếc áo là một cặp dao găm. Cha những muốn hỏi ai là người đã mặc bộ áo giáp đó, ai đã từng giữ túi đạn, ai đã mang những con dao găm kia. Ai đó đã cắm một bình hoa hồng và dương xỉ xanh ở cái bàn bên dưới, trông có vẻ sống động dị thường giữa tất cả những báu vật đang phai tàn này. Nền nhà bóng loáng. Cha có thể nhìn thấy ở phía bên kia một phòng khác, tương tự.

“Ranov cũng nhìn quanh, và giờ thì gã khịt mũi. ‘Theo quan điểm của tôi, ông giáo sư Stoichev này được phép giữ quá nhiều tài sản quốc gia. Những món này lẽ ra phải bán đi vì lợi ích của nhân dân.’

“Irina hoặc không hiểu tiếng Anh hoặc không thèm trả lời câu nói đó; cô quay đi, dẫn chúng ta ra khỏi phòng và leo lên một cầu thang hẹp. Cha cũng không biết mình mong nhìn thấy điều gì ở phía trên nữa. Có lẽ chúng ta sẽ nhìn thấy một căn phòng nhỏ bừa bộn, một cái hang để vị giáo sư già trú ẩn, hoặc có lẽ, cha nghĩ - với sự ray rứt đau khổ giờ đã thành quen thuộc - chúng ta có thể thấy một phòng làm việc gọn gàng ngăn nắp kiểu như cái phòng làm việc ẩn tàng trí tuệ dữ dội và tuyệt vời cỡ thầy Rossi. Những hình ảnh tưởng tượng này biến mất khi cánh cửa phía trên cầu thang mở ra, một người đàn ông tóc bạc trắng, nhỏ người, nhưng rắn rỏi, xuất hiện ở đầu cầu thang. Irina vội vàng đến bên cạnh, dùng cả hai tay nắm chặt cánh tay người đàn ông, liến thoắng gì đó bằng tiếng Bungari cùng với vài tiếng cười phấn khích.

“Ông già quay qua chúng ta, bình thản, im lặng, gương mặt hoàn toàn thờ ơ đến độ mất một lúc cha cảm giác như ông đang chăm chăm nhìn xuống đất, dù thực sự ông đang nhìn thẳng vào chúng ta. Cha bước đến và chìa tay ra. Ông trang trọng bắt tay cha, rồi sau đó quay qua bắt tay Helen. Ông tỏ ra lịch sự, giữ đúng nghi thức, khiêm nhường theo kiểu người biết tự trọng. Đôi mắt to đen của ông lướt nhìn từng người chúng ta, và rồi chiếu vào Ranov, gã đang chùn lại phía sau quan sát cảnh tượng này. Đến lúc đó, Ranov mới bước đến bắt tay ông - với vẻ kẻ cả, cha nghĩ vậy, và càng cảm thấy không ưa gã hướng dẫn viên hơn nữa. Cha thầm ước phải chi gã biến đi để chúng ta có thể một mình nói chuyện với giáo sư Stoichev. Cha băn khoăn làm thế nào chúng ta có thể trò chuyện một cách thẳng thắn và học hỏi điều gì từ Stoichev khi mà Ranov cứ lảng vảng phía sau chúng ta như một con ruồi.

“Giáo sư Stoichev chậm rãi quay người dẫn chúng ta vào phòng. Phòng này hóa ra là một trong nhiều phòng của tầng trên ngôi nhà. Trong hai lần đến thăm nơi này, cha chưa bao giờ biết rõ những người trong nhà ngủ ở đâu. Theo như cha thấy, tầng trên của ngôi nhà chỉ có một phòng khách dài, hẹp mà chúng ta đang đi vào, và nhiều phòng khác nhỏ hơn, cửa hướng ra phòng này. Cửa mở vào các phòng khác chỉ khép hờ, ánh nắng chiếu xuyên qua đám cây cối xanh rì bên ngoài những cửa sổ đối diện, ve vuốt lên gáy của cơ man nào là sách xếp dọc theo các vách tường, hoặc chứa trong các thùng gỗ trên sàn nhà, hoặc nằm chất đống trên các mặt bàn. Xếp trên kệ ở giữa chúng là những văn kiện tư liệu rời đủ các hình dạng và kích cỡ, nhiều tài liệu rõ ràng là rất xưa. Không, đây không phải là kiểu phòng làm việc ngăn nắp của thầy Rossi, mà đúng hơn là một phòng thí nghiệm bừa bộn, bộ não của một nhà sưu tầm. Ánh mặt trời chiếu rọi khắp mọi nơi: các loại giấy da, sách da cổ xưa, những gáy sách rập nổi, hoặc mạ vàng, hoặc phồng rộp lên, những góc giấy sờn rách - những cuốn sách tuyệt vời màu đỏ, màu nâu, màu trắng ngà - sách và những cuộn bản thảo viết tay xáo trộn lung tung vì đang được sử dụng. Không có thứ gì bụi bặm, không có vật nặng chất lên thứ dễ vỡ, tuy vậy chỗ nào trong phòng của Stoichev cũng hiện diện những cuốn sách và những bản thảo này, cha có cảm tưởng như bị chúng bao vây theo cái cách người ta còn không cảm thấy ngay cả khi ở trong một viện bảo tàng, nơi những vật quý giá như vậy không hẳn có nhiều như ở đây và được trưng bày một cách có phương pháp.

“Cha ngạc nhiên thích thú khi thấy một tấm bản đồ cổ bằng da treo trên tường phòng khách. Stoichev mỉm cười khi cha không thể ngăn mình bước về tấm bản đồ. ‘Anh thích nó à?’ ông ta hỏi. ‘Đó là đế quốc Byzantine vào khoảng năm 1150.’ Câu nói đầu tiên của Stoichev, một thứ tiếng Anh đơn giản và chính xác.

“ ‘Trong lúc Bungari vẫn còn là một phần lãnh thổ của đế quốc,’ Helen trầm ngâm.

“Stoichev liếc nhìn Helen, rõ ràng có vẻ thích thú. ‘Đúng, chính xác là vậy. Tôi nghĩ tấm bản đồ này được làm ra tại Venice hoặc Genoa và mang đến Constantinople, có lẽ như một tặng phẩm dâng lên hoàng đế hoặc một người nào đó trong triều đình. Đây là một bản sao do một người bạn làm cho tôi.’