Truy tìm Dracula - Chương 59 phần 2

Các lần xuất bản và các bản dịch.

Trước đây “Biên niên ký” của Zacharias ở Zographou đã được xuất bản hai lần. Lần thứ nhất là một bản dịch tiếng Hy Lạp với vài bình luận ít ỏi đính kèm trong cuốn Lịch sử các nhà thờ thời Byzantine của Xanthos Constantinos, xuất bản năm 1849. Năm 1931, Tòa Giáo trưởng in nó thành một tập sách mỏng bằng ngôn ngữ gốc Xlavơ. Atanas Angelov, người phát hiện ra bản gốc Zographou vào năm 1923, dự định xuất bản tập bản thảo này kèm theo những bình luận sâu rộng hơn, nhưng chưa hoàn thành dự án này thì ông đã qua đời vào năm 1924. Một số ghi chép của Angelov được công bố sau cái chết của ông trong tác phẩm Balkanski istoricheski pregled_(2) năm 1927.

“BIÊN NIÊN KÝ” CỦA ZACHARIAS Ở ZOGRAPHOU

Câu chuyện này do Sư huynh đồng đạo Stefan Kẻ Lãng Du ở thành phố Tsarigrad kể lại với tôi, Zacharias Sám Hối. Ông đến tu viện Zographou của chúng tôi vào năm 6987 [1479]. Ở đây, ông đã thuật lại với chúng tôi những biến cố quái lạ và kỳ diệu trong cuộc đời ông. Khi đến với chúng tôi, Stefan Kẻ Lãng Du đã năm mươi ba tuổi, một con người từng trải và mộ đạo, từng chu du qua nhiều đất nước. Cảm tạ Đức Mẹ Thánh Thể đã dẫn dắt ông đến với chúng tôi từ Bungari, xứ sở mà ông cùng một nhóm tu sĩ từ Wallachia đã lang thang và phải chịu nhiều khổ đau do bàn tay bọn Thổ vô đạo, phải chứng kiến hai trong số các đạo hữu của mình tuẫn đạo tại thành phố Haskovo. Ông và các đạo hữu đã mang qua những vùng đất vô đạo một vài thánh tích có quyền năng kỳ lạ. Cùng những thánh tích ấy, họ diễu hành sâu vào đất nước Bungari và nổi tiếng khắp các miền quê, đến mức các tín đồ Thiên Chúa giáo tụ tập hai bên đường khi đám rước đi qua để cúi chào hoặc hôn lên thành xe ngựa. Và các thánh tích này được mang đến tu viện có tên là Sveti Georgi như thế, rồi được cất giữ trong thánh đường. Vì vậy, dù là một tu viện nhỏ yên tĩnh, sau này nhiều người hành hương vẫn đến Sveti Georgi trên đường đi từ các tu viện ở Rila và Bachkovo hoặc từ ngọn núi thiêng Athos. Nhưng Stefan Kẻ Lãng Du là người đầu tiên mà chúng tôi biết đã từng ở Sveti Georgi.

Sau khi Stefan sống với chúng tôi được vài tháng, điều đáng lưu ý là ông không đề cập gì nhiều đến tu viện Sveti Georgi, dù đã kể nhiều chuyện về những nơi chốn thiêng liêng khác mà ông đã đến thăm, theo bản tính mộ đạo của mình ông chia sẻ những câu chuyện ấy để chúng tôi, những kẻ lúc nào cũng ru rú ở một đất nước, có được ít nhiều kiến thức về những kỳ quan nhà thờ Thiên Chúa ở các xứ sở khác. Có lần ông kể cho chúng tôi về một nhà nguyện trên đảo trong vịnh Maria, thuộc vùng biển Venice(3)_, hòn đảo nhỏ đến độ những con sóng vỗ bập bềnh lên cả bốn mặt tường nhà nguyện, ông còn kể về tu viện trên đảo Sveti Stefan, cách nhà nguyện kia hai ngày đường về hướng Nam dọc theo bờ biển, nơi Stefan đã từ bỏ tên mình lấy tên vị thánh bảo hộ tu viện. Ông nói nhiều với chúng tôi về việc này, cũng như nhiều điều khác nữa, kể cả việc nhìn thấy những con quái vật đáng sợ ở biển Marble.

Và ông hay kể cho chúng tôi nhất về các giáo đường và tu viện thành phố Constantinople trước thời đám lính vô đạo của tên Quốc vương Hồi giáo Mehmed xâm phạm những nơi đó. Với vẻ sùng kính, ông mô tả những ảnh thánh vô giá có thể thực hiện các phép lạ, chẳng hạn như ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh trong đại giáo đường Hagia Sophia, và bức ảnh che mặt của Người tại thánh địa Blachernae. Ông đã nhìn thấy hầm mộ của Thánh John Chrysostom và mộ các vị hoàng đế, thấy thủ cấp của Thánh Basil thiêng liêng trong giáo đường Panachrantos, cũng như vô số các thánh tích khác. May mắn thay cho ông và cho cả chúng tôi, những người được nghe ông kể chuyện, là ông đã rời khỏi Constantinople từ lúc còn trẻ để lại lên đường viễn du, vì vậy ông đang ở rất xa khi tên ác quỷ Muhammad xây dựng một pháo đài vô cùng kiên cố gần đó nhằm mục đích tấn công thành phố, và chẳng bao lâu sau đã phá vỡ các thành lũy khổng lồ của Constantinople, tàn sát hoặc bắt những quý tộc của thành phố làm nô lệ. Từ phương xa, Stefan nghe được tin này và cùng với những tín hữu Thiên Chúa khác, ông khóc thương cho thành phố tử đạo đó.

Ông đem đến tu viện chúng tôi những cuốn sách quý hiếm và kỳ diệu thồ trên lưng ngựa, những cuốn sách ông đã sưu tầm và từ đó được khơi gợi cảm hứng thần thánh, do bản thân ông tinh thông tiếng Hy Lạp, Latin, Xlavơ và có lẽ nhiều ngôn ngữ khác nữa. Ông thổ lộ với chúng tôi những điều này và tặng cho thư viện chúng tôi các cuốn sách kia để mãi mãi làm rạng danh thư viện, mặc dù đa số chúng tôi chỉ đọc được một ngôn ngữ và thậm chí có người còn không biết đọc. Khi trao các tặng phẩm kia, ông nói rằng ông cũng sẽ chấm dứt những cuộc lãng du và ở lại Zographou mãi mãi, như những cuốn sách của mình.

Chỉ có tôi và một sư huynh khác nhận ra Stefan không nhắc nhở gì đến thời gian ông lưu lại Wallachia, ngoại trừ việc nói mình đã từng là một tu sĩ tân tòng ở đó, và cho đến cuối đời ông cũng không nói gì nhiều về tu viện Bungari có tên Sveti Georgi. Bởi vì, khi đến với chúng tôi ông đã bị bệnh rồi, đã phải chịu đựng những cơn sốt thấp khớp nhức nhối khắp tay chân, và chưa đến một năm sau ông nói rằng hy vọng sẽ được phủ phục trước ngai Đấng Cứu thế, nếu những tội lỗi của ông được Chúa - Người luôn tha thứ cho tất cả những ai thành tâm sám hối - bỏ qua. Trong cơn bệnh sau cùng ông yêu cầu được xưng tội với cha tu viện trưởng của chúng tôi, bởi ông đã chứng kiến những điều xấu xa nên không thể chết khi chưa được giải tội, và cha tu viện trưởng rất kinh ngạc trước lời xưng tội của ông nên đã yêu cầu tôi hỏi lại lời xưng tội ấy và ghi lại tất cả những gì ông nói, bởi cha tu viện trưởng muốn gửi một lá thư báo về Constantinople chuyện đó. Tôi nhanh chóng thực hiện việc ghi chép không sai lời nào, tôi đã vô cùng kinh hoàng khi ngồi bên giường bệnh, lắng nghe câu chuyện mà Stefan kiên nhẫn kể lại, sau đó ông được làm lễ ban thánh thể rồi qua đời trong khi đang ngủ và được chôn cất tại tu viện chúng tôi.

Chuyện kể của Stefan ở Snagov, được Zacharias Kẻ Tội Lỗi ghi lại một cách trung thực.

Tôi, Stefan, sau nhiều năm lãng du, cũng như sau khi thành phố chôn nhau cắt rốn thân yêu và thiêng liêng của mình, Constantinople, thất thủ, đã lên đường tìm kiếm phần Bắc ngạn dòng sông lớn chia cắt Bungari với Dacia. Tôi lang thang tiến vào vùng đồng bằng, sau đó lên miền núi, rồi rất lâu sau mới tìm được đường đến một tu viện nằm trên một hòn đảo trong hồ Snagov, một địa điểm đẹp, hẻo lánh và có thể dễ dàng tổ chức phòng thủ chống trả lại các cuộc tấn công. Cha tu viện trưởng nhân từ ở đó đã nồng nhiệt chào đón tôi, và tôi ngồi vào bàn cùng các tu sĩ khiêm tốn và toàn tâm với việc cầu nguyện cũng như bất kỳ tu sĩ nào tôi đã có dịp gặp gỡ trên những chặng đường lãng du. Bọn họ gọi tôi là đạo hữu và hào phóng chia sẻ cho tôi thức ăn nước uống, tôi cảm thấy bình yên giữa sự trầm lặng đầy vẻ thành kính của họ hơn bao giờ hết so với những tháng vừa qua. Do làm việc siêng năng và khiêm nhường tuân theo mọi chỉ dẫn của cha tu viện trưởng nên chẳng bao lâu sau ông đã cho phép tôi ở lại. Nhà thờ của họ tuy không lớn nhưng đẹp kỳ lạ, với những cái chuông nổi tiếng có âm thanh vang vọng khắp mặt hồ.

Nhà thờ và tu viện này đã nhận được sự giúp đỡ tối đa cũng như được củng cố vững chắc nhờ ông hoàng vùng đó, Vlad con trai của Vlad Dracul, người đã hai lần bị tên Quốc vương Hồi giáo và các kẻ thù khác xua đuổi khỏi ngai vàng. Ông ta cũng từng một lần bị Matthias Corvinus, vua Hungary, giam giữ một thời gian dài. Ông hoàng Dracula này rất dũng cảm, trong những trận chiến táo bạo ông ta đã chiếm lại từ tay quân vô đạo nhiều vùng đất chúng đã cưỡng đoạt cùng các chiến lợi phẩm mà sau đó ông ta dâng tặng cho tu viện, Dracula luôn cầu mong chúng tôi hãy cầu nguyện cho ông ta và gia đình được yên bình. Một số tu sĩ xì xào với nhau rằng ông ta phạm tội vì đã tàn ác quá độ và trong thời gian bị vua Hungary giam giữ, đã cải đạo theo Thiên Chúa La Mã. Nhưng cha tu viện trưởng không nghe lời nói xấu về ông ta dù là từ bất kỳ ai và đã nhiều lần che giấu ông ta cùng đám tay chân trong điện thờ giáo đường khi các nhà quý tộc khác muốn tìm giết ông ta.

Trong năm cuối đời mình, Dracula ít đến tu viện hơn thời gian trước đó. Lúc ấy tôi cũng không gặp ông ta vì cha tu viện trưởng đã phái tôi và một tu sĩ đến một nhà thờ khác, nơi ông có một vài công chuyện, để làm một số việc lặt vặt. Khi trở về, tôi nghe nói ông hoàng Dracula đã đến và để lại nhiều của quý mới. Một sư huynh, người chuyên đi mua cho chúng tôi vật dụng và thực phẩm từ các nông dân trong vùng, đã nghe được nhiều câu chuyện lan truyền khắp vùng quê rằng Dracula có khả năng đã lấy một bịch đầy lỗ tai và mũi người để trao tặng như một túi bảo vật, nhưng khi cha tu viện trưởng nghe được lời nhận xét này ông đã trừng phạt người nói rất nặng. Như vậy, tôi chưa bao giờ thấy Vlad Dracula khi còn sống, nhưng lại thấy khi ông ta đã chết, tôi sẽ thuật lại đầy đủ chuyện đó ngay sau đây.

Có lẽ khoảng bốn tháng sau, có tin là Dracula đã bị vây bắt trong một trận đánh, và bị đám lính vô đạo giết chết sau khi ông ta tiêu diệt hơn bốn mươi tên bằng đường gươm tuyệt vời của mình. Bọn lính của Quốc vương Hồi giáo đã chặt thủ cấp của ông ta, mang về dâng cho chủ mình.

Những người thuộc phe cánh của ông hoàng Dracula biết toàn bộ chuyện này, và sau cái chết của ông ta, mặc dù nhiều kẻ bỏ trốn, vẫn có một số người mang tin này cũng như thi thể ông ta đến tu viện ở hồ Snagov, rồi họ cũng bỏ trốn. Cha tu viện trưởng đã khóc khi nhìn thấy cái xác được đưa lên khỏi thuyền và đã đọc to lời cầu nguyện cho cả linh hồn của ông hoàng Dracula lẫn sự che chở của Chúa, bởi bấy giờ đạo quân của bọn vô đạo đang tiến đến rất gần. Ông cho quàn thi hài Dracula một cách trang trọng, đúng theo nghi thức trong nhà thờ.

Đó là một trong những cảnh tượng rùng rợn nhất mà tôi từng chứng kiến, cái xác không đầu khoác tấm áo choàng đỏ tía, chung quanh lung linh ánh sáng những ngọn nến. Chúng tôi ngồi canh xác theo đúng thánh lễ trong ba ngày ba đêm. Tôi ngồi canh đêm thứ nhất, mọi vật trong nhà thờ đều yên tĩnh bình thường ngoại trừ cái thi thể cụt đầu kia. Các sư huynh canh gác đêm thứ hai cũng nói tất cả đều yên tĩnh. Nhưng vào đêm thứ ba, một số sư huynh mệt mỏi đã ngủ gật và một chuyện gì đó xảy ra khiến những người khác vô cùng sợ hãi. Sau này họ đã không thống nhất được với nhau đó là chuyện gì, mỗi người nhìn thấy một thứ khác hẳn nhau. Một tu sĩ nhìn thấy một con thú từ trong bóng tối của các dãy ghế nhảy qua quan tài, nhưng không thể khẳng định được hình dáng con thú. Những người khác thì cảm thấy một luồng gió mạnh hoặc nhìn thấy một màn sương mù dày đặc lùa vào nhà thờ làm tắt nhiều cây nến, và họ đều thề có thánh thần, nhất là các tổng thiên thần Mikhail và Gabriel, là trong bóng tối, cái xác không đầu của ông hoàng cựa quậy và cố ngồi dậy. Ai đó trong các sư huynh đã thét lên vì khiếp đảm, và do vậy cả tu viện cũng bị đánh thức. Các tu sĩ chạy ra ngoài, thuật lại những gì họ trông thấy, mỗi người một kiểu khác nhau.

Sau đó cha tu viện trưởng đến, qua ánh sáng ngọn đuốc trong tay ông, tôi thấy ông mặt mũi trắng bệch, tỏ vẻ kinh sợ khi nghe những chuyện các tu sĩ thuật lại và liên tục làm dấu thánh. Ông nhắc nhở những người hiện diện rằng linh hồn của con người quý tộc này đang nằm trong tay chúng tôi và do vậy chúng tôi phải hành động một cách thích đáng. Ông dẫn chúng tôi vào trong nhà thờ, thắp lại nến, và chúng tôi nhìn thấy cái xác vẫn nằm yên như cũ trong quan tài. Cha tu viện trưởng ra lệnh lục soát khắp nhà thờ, nhưng chẳng tìm thấy con thú hoặc ma quỷ nào trong mọi ngóc ngách. Rồi ông ra lệnh cho chúng tôi bình tĩnh trở lại, ai trở về phòng nấy, và khi giờ lễ nhất đến, mọi chuyện vẫn diễn ra bình thường và êm ả.

Nhưng sáng hôm sau ông triệu tập tám tu sĩ đến, tôi rất vinh dự được nằm trong số đó, và nói rằng chúng tôi chỉ phải giả vờ chôn xác của ông hoàng trong nhà thờ rồi chuyển nó ra khỏi đây ngay lập tức. Ông nói sẽ chỉ tiết lộ bí mật với một người trong số chúng tôi lý do và địa điểm chúng tôi phải chuyển cái xác đến, càng ít người biết điều đó thì càng an toàn hơn cho tất cả những người còn lại, và ông đã hành động y như vậy, chọn một tu sĩ đã ở bên ông nhiều năm và bảo những người còn lại (trong chúng tôi) chỉ cần ngoan ngoãn đi theo, đừng thắc mắc gì cả.

Như vậy, tôi, người đã nghĩ rằng sẽ không bao giờ phải sống cuộc đời lãng du nữa, lại một lần nữa trở thành lữ khách, phải băng qua một quãng đường xa diệu vợi cùng các đạo hữu trở về thành phố chôn nhau cắt rốn của mình, nơi đã trở thành trung tâm vương quốc của những kẻ ngoại đạo, và tôi nhận ra đã có quá nhiều đổi thay ở chốn đó. Chúng tôi không thể vào đại giáo đường Hagia Sophia vì nơi đó giờ được xem như một nhà thờ Hồi giáo. Nhiều nhà thờ đã bị phá hủy hoặc để mặc cho hư hại, đổ nát, và nhiều nhà thờ khác, thậm chí cả nhà thờ Đức Mẹ Panachrantos cũng biến thành nơi hành lễ của người Thổ. Và đến đó tôi mới biết chúng tôi đang tìm kiếm một vật báu có thể nhanh chóng cứu rỗi linh hồn ông hoàng này, vật báu ấy đã được hai tu sĩ mộ đạo và gan dạ mạo hiểm lấy từ tu viện Thánh Saviour rồi bí mật mang ra khỏi thành phố trước đó. Nhưng một số vệ binh của Quốc vương Hồi giáo đã có dấu hiệu nghi ngờ, do vậy chúng tôi lại lâm vào vòng nguy hiểm và buộc phải lên đường một lần nữa để tìm kiếm vật báu đó, lần này là đi vào vương quốc lâu đời của người Bungari.

Khi chúng tôi đi qua đất nước ấy, có vẻ như một số người Bungari đã biết về sứ mệnh này, vì ngày càng có nhiều người xuất hiện dọc bên đường, im lặng cúi đầu cung kính chào đoàn người chúng tôi, một số người còn đi theo nhiều dặm đường, đưa tay sờ hoặc hôn lên thành xe ngựa. Một chuyện rất khủng khiếp đã xảy ra trong chuyến đi này. Lúc đi ngang qua Haskovo, một số vệ binh của thành phố đã phi ngựa vượt xe chúng tôi, bắt chúng tôi dừng lại bằng vũ lực và bằng những lời thô lỗ cục cằn. Chúng lục soát xe ngựa, tuyên bố sẽ tìm ra thứ chúng tôi mang theo, dù đó là gì đi nữa, khi thấy hai cái bọc, chúng vồ lấy và mở ra. Khi thấy đó chỉ là lương thực, bọn vô đạo giận dữ vứt hết xuống đường rồi bắt giữ hai người của chúng tôi. Họ quả là những tu sĩ đức hạnh khi quả quyết rằng mình không biết gì, vì thế càng làm cho những kẻ xấu xa kia thêm tức giận, chúng chặt tay chân họ, xát muối vào các vết thương trước khi họ chết. Bọn chúng để những người còn lại chúng tôi được sống, nhưng hành hạ, xua đuổi bằng những lời nguyền rủa và đòn roi. Sau đó, chúng tôi tìm lại được thi thể và tứ chi của các đạo hữu thân yêu, ráp chúng lại rồi chôn cất theo nghi thức Thiên Chúa giáo tại tu viện Bachkovo, các tu sĩ ở đó đã cầu nguyện cho linh hồn mộ đạo của họ nhiều ngày đêm liền.

Sau biến cố ấy, dù rất buồn rầu và hoảng sợ, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục cuộc hành trình đến tu viện Sveti Georgi, cũng không còn bao xa và không gặp biến cố nào nữa. Các tu sĩ ở đó, dù đã già nua và chỉ còn thưa thớt vài người, nhưng vẫn nồng nhiệt đón tiếp chúng tôi và cho biết quả thực vật báu mà chúng tôi tìm kiếm đã được hai khách hành hương mang đến chỗ họ vài tháng trước đây, và tất cả đều tốt. Sau khi trải qua bao nhiêu hiểm nguy như vậy chúng tôi chưa thể nghĩ đến việc trở về Dacia ngay, vì vậy chúng tôi đã ở lại tu viện đó. Di hài mà chúng tôi chuyển đến đã được bí mật cất giữ vào thánh đường Sveti Georgi, và tiếng đồn về nó trong các tín đồ Thiên Chúa giáo đã khiến nhiều người đến đó tế lễ, và họ cũng giữ bí mật. Chúng tôi sống yên ổn tại nơi này một thời gian và góp công lớn xây dựng tu viện to đẹp hơn. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau một chứng bệnh dịch bùng phát trong các làng mạc gần chúng tôi, dù thoạt tiên không ảnh hưởng đến tu viện. Tôi nhận ra đó không phải là một bệnh dịch thông thường, mà là...

[Đến đây bản thảo bị cắt hoặc xé mất.]

Chú thích:

1. Cuốn sách chỉ dẫn nghi thức tế lễ hàng ngày trong các nhà thời Chính Thống giáo.

2. Tiếng Bungari trong nguyên bản. nghĩa là "Một góc nhìn lịch sử về vùng Balkan".

3. Vùng biển Bắc biển Adriatic, phân cách bán đảo Ý với bán đảo Balkan, một phần của địa trung hải.