Vân Trung Ca - Quyển 3 - Chương 15 phần 1A

Chương 15: Phá kén thành bướm.

(Phá kiển thành điệp)

Từ sau khi phát sinh chuyện lệnh bài bị trộm mất, Lưu Tuân không còn đặt chân tới Tiêu Phòng Điện, Hứa Bình Quân cũng cố gắng hết sức tránh không gặp hắn, cho nên tuy rằng hai người đều ở trong Vị Ương Cung, nhưng thường thường là hơn một tháng cũng không thấy mặt.

Một ngày, Vân Ca tiến cung tới gặp Hứa Bình Quân, thấy nàng cả ngày buồn phiền ở trong Tiêu Phòng Điện, nên chủ động đề xuất muốn đi ra ngoài chơi một chuyến. Hai tỷ muội vừa đi vừa tán gẫu, bất tri bất giác đã đi tới bên bờ Lâm Trì, hoa sen mới ra lá không lâu, một đám lá xanh biếc tròn xoe nổi bồng bềnh trên mặt nước. Hai người đối diện với trời xanh sóng biếc, đều thấy trong lòng có thiên ngôn vạn ngữ, nhưng chỉ trầm mặc không nói gì.

Bỗng nhiên, một luồng tiếng sáo theo gió truyền đến, Vân Ca và Hứa Bình Quân đều theo tiếng nhạc, nhìn ra hướng xa xa. Chỉ thấy tận cùng là sóng biếc, cành liễu lặng yên, có một chiếc thuyền nhỏ từ từ xuất hiện, một hồng y nữ tử đang ngồi ở mũi thuyền, cầm sáo thổi khúc.

Hô hấp của Vân Ca và Hứa Bình Quân bỗng dưng đều cùng ngừng lại, tim đập nhanh. Chiếc thuyền nhỏ dần dần tới gần, nữ tử trên thuyền quay đầu lại, đúng lúc nhìn thấy Hứa Bình Quân, vội vàng đứng lên, muốn hành lễ vấn an:

“Hoàng hậu nương nương!”

Vân Ca và Hứa Bình Quân thấy rõ ràng là Trương Lương nhân, thở hắt ra một tiếng, khóe mắt không rõ tại sao đều vương nước mắt. Hứa Bình Quân cao giọng nói: “Người đang ở trên thuyền không cần hành lễ.”

Hoạn quan chèo thuyền đưa thuyền lại gần bờ, cẩn thận dìu Trương Lương nhân xuống thuyền. Hứa Bình Quân lúc này mới phát hiện bụng của Trương Lương nhân cũng khá lớn. Nàng tự nói với mình là không cần quan tâm, nhưng dù sao cũng không phải là người không có liên quan, trong tim vẫn đột nhiên thấy đau đớn.

Sau khi Trương Lương nhân lên bờ, lập tức hành lễ với Hứa Bình Quân, Hứa Bình Quân gượng cười nói: “Không cần hành lễ, ngươi đang mang thai không tiện, nên nghỉ ngơi nhiều hơn!” Nàng nói xong, không đợi Trương Lương nhân nói thêm, đã kéo Vân Ca rời đi.

Vân Ca lặng lẽ không nói một lời, quay đầu lại khẽ liếc nhìn vẻ mặt kinh ngạc khó tin của Trương Lương nhân, chỉ có thể thở dài, tỷ tỷ vẫn không nắm được cách sinh tồn trong chốn cung đình.

Hứa Bình Quân cứ bước rồi bước, bước chân đột nhiên lảo đảo, người ngã xuống mặt đất, Vân Ca vội đưa tay đỡ lấy nàng, Hứa Bình Quân dựa vào cánh tay Vân Ca, khom người nôn khan. Vân Ca sinh nghi, đưa tay đặt lên cổ tay nàng: “Tỷ tỷ, nguyệt sự của tỷ đã bao lâu không tới rồi?”

Hứa Bình Quân đứng thẳng người lên, kinh hoàng nói: “Không có khả năng, tỷ và hoàng thượng đã rất lâu rồi chưa từng gặp mặt.”

“Đứa bé đã được hơn hai tháng rồi! Tỷ tỷ, tỷ thật đúng là một người hồ đồ! Năm đó mới vừa hoài thai Hổ nhi, tỷ đã biết rồi, hiện giờ thì cho tới bây giờ cũng còn không tin.”

Sắc mặt Hứa Bình Quân dần dần trắng bệch, Vân Ca mỉm cười ôm lấy nàng: “Tỷ tỷ, đây là chuyện tốt, hẳn là phải vui mừng.”

Hứa Bình Quân nhớ tới chuyện phòng the lần cuối cùng cùng Lưu Tuân, đúng là vào đêm đó nàng quỳ suốt một đêm dưới tuyết trước Chiêu Dương Điện. Thân thể nàng nhẹ nhàng run rẩy: “Đứa bé nên mang theo yêu thương của cha mẹ mà sinh ra, không nên được hình thành từ nghi kỵ và oán hận giữa cha mẹ, như thế thì không được thần linh bảo vệ.”

Vân Ca chỉ có thể nhẹ giọng an ủi nàng: “Người có thể bảo vệ đứa bé này chính là tỷ tỷ, không phải thần linh, chỉ cần sau này tỷ tỷ yêu thương nó, nó nhất định sẽ hạnh phúc.”

Hoang mang của Hứa Bình Quân dần dần biến mất, vốn nghĩ rằng e là cuộc đời này của nàng cuối cùng cũng chỉ có một đứa con, nếu không phải thần linh thiên vị nàng, sao lại ban cho nàng đứa bé này? Trong lòng dâng lên vui sướng, nàng mỉm cười nói: “Hổ nhi cũng nên có đệ đệ, muội muội bầu bạn.”

Vân Ca cười gật đầu: “Tỷ tỷ gần đây rất hay thương tâm, thân thể lại không như thời điểm mang thai Hổ nhi, lúc trở về bảo Mạnh Giác kê cho tỷ mấy thang thuốc đi! Những chuyện lung tung lộn xộn đó, tỷ tỷ cũng không cần phải để ý tới, an tâm dưỡng thai mới là chuyện nên làm.”

Hai người vừa cười nói, vừa bước vào Tiêu Phòng Điện.

Ngày đêm luân chuyển, thời gian trôi mau, bất tri bất giác đã đến mùa hạ. Đúng như Vân Ca dự liệu, Hoắc Quang quả nhiên dốc toàn lực trù tính, chuẩn bị tập kết đại quân, chỉ huy quân đội Tây Bắc, thảo phạt Khương tộc, nhân tiện âm thầm thanh trừ thế lực bảo thủ ở Ô Tôn, lập con trai của công chúa Giải Ưu làm Ô Tôn vương, trục xuất thế lực của Hung Nô, Khương tộc ra khỏi Tây Vực, để cho chư quốc Tây Vực bỏ đi ý tưởng dựa vào hai thế lực đó, hoàn toàn xưng thần với Hán triều.

Lưu Tuân đối với việc này biểu hiện rất thờ ơ, hơn nữa nho sinh trong triều đều ghét chiến sự, cảm thấy rằng tình hình bây giờ rất tốt, cho nên trong triều đình xuất hiện lời phản chiến.

Tuy rằng môn sinh Hoắc thị đông đảo, nhưng đụng tới sự thờ ơ của hoàng đế cùng với ngôn từ sắc bén của đám nho sinh, động một tí là mang ra đạo lý lớn về cuộc sống bình yên ổn định của dân chúng, chủ trương của Hoắc Quang thực thi cũng khó khăn. Dù sao một cuộc chiến tranh cũng có liên quan rất lớn, từ trưng binh tới lương thảo, từ vũ khí tới ngựa chiến, cho dù với quyền thế ngập trời của Hoắc Quang cũng đều trắc trở trùng điệp.

Khi phái chủ chiến và phái chủ hòa giằng co còn chưa xong, các đại thương gia vẫn hành tẩu trên con đường tơ lụa* liên hợp nhau lại thượng sớ, trần thuật lại cho hoàng thượng những gì bọn họ tai nghe mắt thấy trên con đường tơ lụa, trình bày và phân tích tầm quan trọng của cửa ngõ Tây Vực đối với khu vực Trung Nguyên: Tây Vực là cửa ngõ Hán triều thông thương với toàn bộ thế giới, nếu Tây Vực bị chặn lại, Hán triều sẽ giống như bị khóa lại ở trong một khoảng sân, chỉ biết chồn chân bó gối. Bọn họ còn dùng lời lẽ khẳng khái, nói từ Văn Đế, Cảnh Đế đến Vũ Đế, lại từ Vũ Đế đến bây giờ, địa vị của thương nhân Hán triều ở Tây Vực cũng thay đổi cùng một nhịp thở với thực lực quốc gia của Đại Hán. Vào thời Văn Cảnh, người Tây Vực sợ hãi Hung Nô, miệt thị người Hán, mang đồ ăn ngon nhất, người dẫn đường giỏi nhất tới cho Hung Nô, mang ngựa, lạc đà kém cỏi nhất bán giá cao cho người Hán, thậm chí tùy ý cướp đoạt hàng hóa và giết hại thương nhân người Hán. Vào thời Vũ Đế, nơi thương nhân Hán triều đi qua, đãi ngộ vô cùng tốt, giống như vương công quý tộc, Hung Nô nhanh chóng tránh đi, mà hiện tại, mặc dù còn không đến mức bi thảm như vào thời Văn Cảnh, nhưng ở trong mắt người Tây Vực, bọn họ cũng chỉ là một đám thương nhân đến từ một đế quốc đang dần dần suy tàn, thường có cử chỉ khinh mạn vô lễ. Cuối cùng, bọn họ hứa hẹn: “Nguyện dốc hết tài lực ít ỏi, để trợ giúp quốc gia. Nước không mạnh tất dân chúng không được tôn trọng, mà dân chúng không có vinh hiển thì nước sao thể hưng thịnh! Thảo dân kính cẩn lấy thân thể hèn mọn này khấu đầu, cầu chúc có được một minh quân vĩ đại, trở thành bá nghiệp muôn đời!”

*Con đường tơ lụa bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, xung quanh vùng Địa Trung Hải và đến tận châu Âu. Con đường cũng đi đến cả Hàn Quốc và Nhật Bản. Nó có chiều dài khoảng 7 ngàn km. Năm 138 TCN, vua Hán Vũ Đế đã cử Trương Khiên đi về phía Tây, tìm người Nguyệt Chi nhằm kết đồng minh chống lại quân Hung Nô. Trải qua nhiều gian khổ, Trương Khiên đã tìm được người Nguyệt Chi ở nơi là miền Bắc Ấn Độ ngày nay, và qua chuyến đi gian khổ này ông đã tìm ra con đường tơ lụa huyền thoại. Trung Quốc là nước đầu tiên tìm ra cách trồng dâu nuôi tằm, lấy kén ươm tơ, dệt lụa sớm nhất trên thế giới, tơ lụa thời đó rất quý, chỉ được dùng cho quý tộc và là mặt hàng được vận chuyển chủ yếu trên con đường này vì thế nó có tên là con đường tơ lụa.

Lưu Tuân biết rõ rằng đằng sau bản tấu này có nhiều thâm ý, nhưng khi đọc tới những dòng cuối cùng, vẫn thấy cảm động, cảm xúc dâng trào, quả muốn rút trường kiếm, tay chỉ hướng Tây hét lớn: bọn Hồ lỗ*!

*Hồ lỗ: từ chỉ người Hung Nô.

Đám nho sinh còn đang rầm rì bàn luận, nói rằng đám thương nhân hám lợi, bọn họ làm như thế, chẳng qua là hi vọng quốc gia vì bọn họ mà mở một con đường thuận lợi, bình an để thông thương, thuận tiện cho bọn họ kiếm tiền.

Lưu Tuân hỏi Mạnh Giác: “Mạnh Thái phó nghĩ như thế nào?”

Mạnh Giác cười nhìn các vị nho sinh đang chỉ trích thương nhân hỏi: “Những thương nhân đó có phải là con dân Đại Hán hay không?”

Một quan văn mau mồm mau miệng nói: “Đương nhiên phải.”

“Bọn họ buôn bán có nộp đủ thuế hay không?”

“Đương nhiên! Nếu bọn họ dám không nộp…”

“Nếu bọn họ là con dân Đại Hán, nếu bọn họ nộp đủ thuế cho quốc gia để nuôi sống quan viên, quân đội, như vậy chẳng lẽ bọn họ không nên thỉnh cầu mong mỏi quốc gia của mình bảo vệ bọn họ hay sao?”

Mấy quan văn lắp ba lắp bắp, nói không nên lời: “Đây…Đây…Chuyện này phải bàn bạc kỹ hơn, một cuộc chiến tranh, người khổ chính là vạn thiên hạ, chỉ riêng thương nhân có lợi…”

Mạnh Giác không để ý đến bọn họ, chỉ cao giọng nói với Lưu Tuân: “Người chạm tới thiên uy Đại Hán ta, cho dù là xa ngàn dặm cũng phải giết!”

Giọng nói của Mạnh Giác dập tắt toàn bộ tiếng nghị luận, đột nhiên lúc đó, trong đại điện trở nên im ắng tới kim rơi cũng có thể nghe rõ tiếng. Trong bầu không khí yên lặng, giọng nói của Mạnh Giác giống như sắt đá rơi xuống đất, mỗi một lời tràn ngập sức mạnh: “Hán triều như vậy với xứng là Đại Hán*!” Trong ánh mắt sắc bén của hắn còn có một câu chưa nói ra: Quân chủ như vậy mới xứng là bá chủ!

*Đại hán nghĩa là to lớn.

Bách quan trên triều đình, sắc mặt khác nhau, trong không khí lưu động căng thẳng và bất an.

Lưu Tuân cưỡng chế sóng to gió lớn ở trong lòng, điềm nhiên như không mỉm cười hỏi Trương An Thế: “Trương tướng quân nghĩ như thế nào?”, nhưng ánh mắt hắn vẫn nhìn chằm chằm vào Mạnh Giác.

Trương An Thế thấy được trong ánh mắt Lưu Tuân tia sáng vừa quen thuộc vừa xa lạ. Khi Tiên đế Lưu Triệt lệnh Trương Khiên* đi sứ Tây Vực, khi lệnh Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh xuất chinh tới Hung Nô, khi lệnh công chúa Tế Quân, công chúa Giải Ưu kết thông gia với Tây Vực, trong ánh mắt cũng đều có tia sáng giống như vậy, đó là ánh mắt của một nam nhân không cam lòng với bình thường mà khát vọng một công lao đại nghiệp thiên thu, cũng là ánh mắt khát vọng quốc gia cường thịnh của một bậc quân vương vĩ đại. Ông ta cung kính khom người, không nhanh không chậm trả lời: “Nếu như hoàng thượng muốn làm một vị quân vương thanh minh hiền đức, nhất động hiển nhiên là không bằng nhất tĩnh, không quấy nhiễu dân chúng, không thiệt hại tiền của. Nhưng nếu như hoàng thượng muốn làm một quân vương vĩ đại tên tuổi sánh cùng Chu Văn Vương, Chu Vũ vương, Cao Tổ hoàng đế, Hiếu Vũ hoàng đế, như vậy hùng công vĩ nghiệp khẳng định không thể tách khỏi kim qua thiết mã**!”

*Trương Khiên: xin xem lại chú thích về con đường tơ lụa bên trên.

**Kim qua thiết mã: tạm dịch ra là giáo vàng ngựa sắt.

Hoắc Quang lập tức rèn sắt khi còn nóng*: “Từ sau khi Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh càn quét qua vương đình Hung Nô, Hung Nô đã phân hoá thành Nam Hung Nô, Bắc Hung Nô. Nam, Bắc Hung Nô không hòa hợp với nhau, thường xuyên giao chiến, nếu triều ta có thể đại phá Khương tộc, khiến cho Ô Tôn hoàn toàn quy thuận, thế lực cuối cùng của Hung Nô ở Tây Vực cũng bị tiêu trừ, triều ta cùng với Bắc Hung Nô tạo thành thế gọng kìm nam bắc cùng tấn công Nam Hung Nô, có lẽ hoàng thượng có thể mượn dịp này ép Nam Hung Nô cúi đầu xưng thần với bệ hạ, đây chính là giấc mộng mà suốt đời tiên đế Hiếu Vũ hoàng đế cũng không thực hiện được!”

*Thành ngữ chỉ tranh thủ cho kịp thời cơ.

Trong đại điện yên tĩnh không một tiếng động, người người đều nín thở tĩnh khí chờ giờ khắc Lưu Tuân quyết định. Quyết định này không chỉ sẽ ảnh hưởng tới Hán triều, mà còn ảnh hưởng tới Hung Nô, Khương tộc, Tây Vực, thậm chí khắp thiên hạ. Không chỉ sẽ ảnh hưởng tới người Hán thời đại này, mà còn có thể ảnh hưởng tới con cháu người Hán mấy trăm năm, hay hơn một ngàn năm sau.

Ánh mắt Lưu Tuân đảo qua trên mặt từng đại thần trên đại điện, ai thấy cũng đều cúi đầu. Trong nháy mắt, hắn đột nhiên định quyết tâm, mạnh mẽ đứng lên, cao giọng nói: “Chuẩn tấu chương của Hoắc đại tướng quân, tập hợp hai mươi vạn đại quân, liên hợp với Ô Tôn đánh Khương tộc!”

Bách quan cùng khấu bái dưới chân hắn, đồng thanh tung hô: “Bệ hạ anh minh!”

Trong tiếng hô như sấm dậy của mọi người, Lưu Tuân nhìn ra ngoài điện, hào hùng tràn đầy trong ngực, chí khí trào dâng!

Từ khi Hiếu Vũ hoàng đế Lưu Triệt băng hà, Hán triều vẫn luôn ở trong giai đoạn khôi phục nguyên khí, nghỉ ngơi dưỡng sức, lần này là một chiến dịch quy mô lớn huy động toàn bộ quốc lực, là lần đầu tiên trong mười mấy năm qua. Trong triều đình, nam nhân trẻ trung nhiệt huyết sôi trào, xắn áo xoa tay, thề phá được Hồ lỗ, chuẩn bị lập công chốn sa trường.

Dân gian lại hoàn toàn tương phản với tình cảnh trên triều đình, đối với cuộc chiến lớn lần này sợ hãi và căm ghét, gần như là nhà nhà có tiếng khóc. Dù sao phu quân đi chinh chiến, thấy đi mà không thấy về, có lẽ sớm hóa thành một trong vô vàn bộ xương trắng nơi hoang mạc, có lẽ chỉ trở về trong mộng của người phụ nữ chốn khuê phòng.

Hứa Bình Quân và Vân Ca thân mặc váy thô, đi trên đoạn đường quanh vườn cây ăn quả. Đi qua khắp chốn ở nhân gian, chỗ nào cũng luôn luôn nhìn thấy những người phụ nữ yên lặng rơi lệ, có bà lão tóc trắng xoá, cũng có thiếu nữ tuổi xuân đậu khấu*. Chỉ có đám trẻ con là còn vui vẻ vô tư, cùng nhau chơi đùa, lớn tiếng gọi “Phụ thân” hoặc “Đại ca”, mà không hề biết rằng có lẽ đây chính là hình ảnh cuối cùng của phụ thân và đại ca trong trí nhớ của chúng.

*Đậu khấu: chỉ hoa đậu khấu, đồng thời cũng chỉ tuổi thanh xuân của thiếu nữ.

Hứa Bình Quân tâm tư trĩu nặng, càng đi càng trầm mặc. Khi các nàng ngồi trên xe ngựa, lên đường hồi cung, nàng hỏi: “Công lao sự nghiệp thiên thu của một người, e rằng cần đánh đổi bằng hơn vạn bộ xương khô, nếu tạm nhân nhượng vì lợi ích toàn cục, có lẽ là có thể tránh được chiến sự, hoàng thượng làm như thế, rốt cuộc là đúng hay sai?”

Vân Ca cũng không có cách nào trả lời câu hỏi của nàng, trầm mặc sau một hồi lâu mới nói: “Có một số việc không làm không được, nếu như theo như lời những thương nhân đó, “Nước không mạnh tất dân chúng không được tôn trọng, mà dân chúng không có vinh hiển thì nước sao thể hưng thịnh”, tỷ tỷ, chẳng lẽ tỷ tỷ không hy vọng khi nói tới quốc gia của mình, thì kiêu ngạo mà nói rằng “Ta là người Đại Hán” sao? Muội tin rằng những nam nhân đó nguyện vì nước mà chiến đấu. Nếu đã là nhất định phải thế, việc chúng ta phải làm không phải hỏi là đúng hay sai, mà là tự hỏi xem làm như thế nào mới có thể làm cho những nam nhân đó không còn lo lắng về gia đình, để cho con trai, đệ đệ của họ có thể an an ổn ổn trưởng thành, tới nhiều năm sau, cho dù không nhớ rõ được gương mặt của phụ thân và đại ca, nhưng cũng kiêu ngạo mà nói với người khác, phụ thân và đại ca ta vì nước quên thân, tử trận sa trường, là đại anh hùng!”

Hứa Bình Quân vẻ mặt đau khổ thở dài: “Muội nói chuyện thật là rất có phong phạm tướng môn.”

Vân Ca mỉm cười lắc lắc cánh tay Hứa Bình Quân: “Cười một cái đi, thân thể và tinh thần có ảnh hưởng lẫn nhau, người ta nhìn một hoàng hậu nhăn mặt nhíu mày, khẳng định là càng lo lắng hơn! Tử trận sa trường là có khả năng, nhưng áo gấm vinh quy cũng có khả năng rất lớn mà!”

Hứa Bình Quân nặn ra một nụ cười: “Vừa lòng chưa?”

Vân Ca “À” lên một tiếng, đẩy Hứa Bình Quân ra: “Được lắm! Được lắm! Tỷ tiếp tục nhăn mặt nhíu mày đi! Nụ cười này của tỷ, văn nhân mặc khách làm sao còn cần tới tiếng quạ kêu đêm vắng, chim đỗ quyên kêu*?”

*Tiếng chim đỗ quyên kêu nghe rất thê lương, nghe đồn rằng nó còn kêu tới ra máu, hai tiếng kêu này trong văn thơ Trung Quốc thường dùng để miêu tả cảnh tượng bi thương buồn thảm, nhưng không thảm bằng…nụ cười của Hứa Bình Quân.

Hứa Bình Quân lo buồn trăm mối, nhưng cũng bị Vân Ca chọc tới mức bật cười lên.

Mới vừa đi được tới cửa thành, thì thấy không ít người đến người đi, chen chúc xô đẩy, khiến cho cửa thành chật như nêm cối. Bởi vì Hứa Bình Quân cải trang vi hành, cũng không có người phụ trách mở đường, xe ngựa khó đi, nên đành phải bỏ xe đi bộ. Vu An và Phú Dụ một trước một sau bảo vệ Hứa Bình Quân và Vân Ca.

Vân Ca túm lấy một người bên cạnh hỏi thăm chuyện gì xảy ra. Sau khi hỏi thăm liên tiếp mấy câu, mới rõ được ngọn nguồn của sự việc. Hóa ra là với nỗi lòng ghét chiến tranh của dân gian, dần dần xuất hiện tin đồn, hiện tại Hán triều không có tướng tinh* căn bản không thích hợp xuất binh đánh trận. Trước kia có Vệ đại tướng quân, Hoắc Tướng quân mới có thể bách chiến bách thắng, sau khi Hoắc Tướng quân, Vệ đại tướng quân mất đi, Hiếu Vũ hoàng đế dốc hết quốc lực Đại Hán, phát binh hai mươi vạn, tử thương vô số, mới miễn cưỡng không phân thắng bại với cái nước nhỏ xíu như Ðại Uyển. Lần này lại là phát binh hai mươi vạn, nhưng lại đánh Khương tộc hùng mạnh hơn rất nhiều so với Ðại Uyển, không biết còn phải chết tới bao nhiêu người. Sự việc càng truyền càng thái quá, ngay cả binh lính trong binh doanh cũng đều cầm ngày sinh tháng đẻ của các tướng quân trong triều đi tìm thầy tướng số, xem bọn họ có đúng là không phải tướng tinh hay không.

*Tinh: ngôi sao, vị đại tướng giỏi thường được ví với một vì tinh tú trên trời nên có từ tướng tinh để chỉ tướng giỏi.

Đối mặt với kỵ binh Khương tộc nhanh nhẹn dũng mãnh, trận chiến này còn chưa đánh, vậy mà sĩ khí* đã mất. Vì ủng hộ sĩ khí, Lưu Tuân tuyên chỉ diện kiến dân chúng và binh lính ở cửa thành, nghe nói còn có thể có nương nương xuất hiện.

*Sĩ khí: tinh thần của binh sĩ.

Nhìn vẻ mặt mờ mịt của Hứa Bình Quân, là biết rằng đối với việc này nàng hoàn toàn không biết gì cả. Vân Ca nắm tay Hứa Bình Quân cũng chen chúc trong đám người chờ hoàng đế giá lâm.

Đợi sau một hồi lâu, Lưu Tuân một thân long bào xuất hiện ở trên thành lâu, nương nương ở bên cạnh là Hoắc Thành Quân. Từ dưới ngước nhìn lên, Lưu Tuân cao lớn uy nghiêm, Hoắc Thành Quân cao quý đoan trang, giống như thần chi*được họa ở trong tranh.

*Thần chi: cơ bản nghĩa như thần linh nhưng thể hiện sự kính trọng hơn.