Anne tóc đỏ dưới mái nhà Bạch Dương - Chương 14 - 15

Chương 14

Cuối cùng đến mười giờ thì Pauline mới về tới… cô nàng Pauline má ửng hồng, mắt long lanh, trẻ hơn đến chục tuổi, mặc dù đã mặc lại chiếc váy taffeta và đội lại cái mũ cũ, tay vầm một đóa hoa tuyệt đẹp được nhanh chóng chuyển giao cho bà già khốn khổ đang ngồi trên xe lăn.

“Cô dâu gửi cho mẹ bó hoa này mẹ. Đẹp quá phải không? Hai mươi lăm nhành hồng trắng.” “Vớ va vớ vẩn! Chắc là chẳng ai nhớ gửi cho tôi một mẩu vụn bánh cưới đâu. Bọn trẻ ngày nay chẳng có ý thức gia đình gì cả. À, tốt thôi, tôi đã từng chứng kiến…” “Nhưng họ có gửi mà. Trong túi con có một miếng thật lớn ngon lành này. Và ai cũng hỏi thăm và nhờ con chuyển lời là rất yêu mẹ, mẹ à.” “Chị đi chơi có vui không?” Anne hỏi.

Pauline ngồi xuống chiếc ghế không đệm vì chị biết mẹ sẽ hậm hực nếu chị ngồi xuống chiếc ghế mềm.

“Rất vui,” chị thận trọng đáp. “Bữa tiệc cưới buổi tối thật tuyệt, và ông Freeman, mục sư vịnh Mòng Biển, làm lễ thành hôn lần nữa cho Louisa và Maurice…” “Tôi cho rằng làm thế đúng là báng bổ thánh thần…” “Và rồi một nhiếp ảnh gia chụp hình cho tất cả bọn con. Hoa trang trí chỉ có thể nói là tuyệt vời. Phòng khách tựa như một lùm cây…” “Tôi nghĩ chắc là giống hệt như đám tang ấy mà…” “Và, ôi, mẹ ơi. Mary Luckley từ miền Tây về tham dự… giờ là bà Fleming, mẹ biết rồi đó. Mẹ còn nhớ hai đứa tụi con luôn là bạn bè cực kỳ thân thiết mà. Tụi con từng gọi nhau là Polly và Molly…” “Những cái tên hết sức ngớ ngẩn…” “Và thật tuyệt khi gặp lại cậu ấy, tha hồ tâm sự dông dài về thuở xưa yêu dấu. Em gái cậu ấy, Em, cũng có mặt, ẵm theo một đứa bé sơ sinh mũm mĩm ngon lành hết sức.” “Cô nói cứ như nó là đồ ăn được ấy,” bà Gibson làu bàu. “Trẻ sơ sinh thì tầm thường quá mà.” “Ồ, không đâu, trẻ sơ sinh chẳng bao giờ tầm thường cả,” Anne xen vào, cô bưng tới một bát nước để cắm bó hoa hồng của bà Gibson. “Mỗi đứa bé là một phép lạ kỳ diệu.” “Ôi dào, tôi có tới mười đứa và tôi chẳng bao giờ thấy có gì kỳ diệu về bất cứ đứa nào. Pauline, làm ơn ngồi yên vào. Cô làm tôi sốt cả ruột đấy. Tôi thấy cô chẳng thèm hỏi thăm xem tôi cảm thấy thế nào suốt ngày nay. Nhưng tôi nghĩ chẳng nên trông đợi gì.” “Không cần hỏi con cũng biết được là mẹ cảm thấy thế nào mà, mẹ… mẹ trông rất tươi tắn và vui vẻ.” Pauline vẫn rất kích động bởi những chuyện xảy ra trong ngày, nên chị thậm chí có thể trêu đùa mẹ mình một chút. “Con chắc là mẹ và Shirley đã có khoảng thời gian tuyệt vời bên nhau.” “Chúng tôi cũng khá hợp đấy. Tôi để mặc cho cô ta muốn làm gì thì làm thôi. Phải thú nhận hôm nay là lần đầu tiên sau nhiều năm ròng, tôi được nghe vài câu chuyện thú vị. Tôi không nằm gần mộ như vài ba người hay nói bóng nói gió đâu. Cảm ơn trời đất tôi chưa bị điếc hay nhõng nhẽo giống trẻ con. Ôi dào, tôi đoán lần tới cô sẽ đi mặt trăng chơi một chuyến đấy nhỉ. Và tôi đoán họ chẳng ưa món rượu ngâm rễ thổ phục linh của tôi chút nào chứ gì?” “Ôi, họ thích lắm. Họ nghĩ rằng nó ngon tuyệt.” “Thế mà chị cứ lằng nhà lằng nhằng mãi không chịu bảo cho tôi biết. Thế chị có mang chai về không… hay buộc chị nhớ chuyện đó là quá sức đối với chị?” “Cái… cái chai bị vỡ rồi,” Pauline ấp úng. “Có ai đó đụng vỡ nó trong kho lương thực. Nhưng Louisa đền lại cho con một cái chai giống y hệt như vậy, mẹ à, nên mẹ không cần phải lo gì đâu.” “Tôi giữ cái chai ấy từ khi bắt đầu làm nội trợ đến tận bây giờ. Cái chai của Louisa làm sao mà y hệt được. Giờ thì người ta không làm loại chai giống vậy nữa đâu. Ước gì cô chịu đem cho tôi thêm một cái khăn choàng nữa. Tôi đang hắt hơi đây… tôi e là mình đã mắc phải một cơn cảm lạnh khủng khiếp. Cả hai cô chẳng ai chịu nhớ giùm rằng đừng để tôi bị nhiễm không khí lạnh buổi tối. Dám nó sẽ làm bệnh viêm khớp của tôi tái phát mất.” Một người hàng xóm cũ ghé qua vào đúng thời điểm này, thế là Pauline tóm ngay lấy cơ hội ấy để đi tiễn Anne một đoạn đường.

“Chào tạm biệt, cô Shirley,” bà Gibson lên tiếng với giọng khá hòa nhã. “Tôi rất biết ơn cô. Nếu thị trấn này có nhiều người được như cô thì nó sẽ tốt lên nhiều.” Bà cười nhe hàm răng móm xọm và kéo Anne xuống. “Tôi không quan tâm mọi người nói gì… tôi nghĩ rằng cô thực sự trông khá xinh đấy,” bà thì thầm.

Pauline và Anne đi bộ dọc theo con đường trong buổi đêm xanh thẫm và mát mẻ, Pauline cho phép mình được bốc đồng một chút, bởi chị vốn không dám xử sự như thế trước mặt mẹ.

“Ôi, Shirley ơi, tuyệt vời như ở thiên đường vậy. Làm sao chị có thể trả ơn cho em được đây? Chị chưa bao giờ trải qua một ngày tuyệt vời như thế này… chị sẽ nhấm nháp tận hưởng nó suốt nhiều năm liền. Thật quá tuyệt khi được làm phù dâu thêm một lần nữa. Và thuyền trưởng Isaac Kent là phù rể. Anh ấy… anh ấy từng là bạn trai cũ của chị… à, không, không hẳn là bạn trai… chị không nghĩ rằng anh ấy từng có ý định rõ ràng gì với chị, nhưng bọn chị đánh xe đi một vòng với nhau… và anh ấy khen chị đến hai lần. Anh ấy bảo, “Tôi vẫn nhớ em đẹp thế nào trong chiếc váy màu rượu vang ở đám cưới của Louisa.” Anh ấy vẫn còn nhớ đến chiếc váy, tuyệt vời quá phải không? Và anh ấy nói thêm, “Mái tóc của em trông vẫn óng ả như mật đường thuở trước.” Anh ấy nói thế thì chẳng có gì khiếm nhã cả, phải không Shirley?” “Không có tí ti nào cả.” “Lou, Molly và chị cùng nhau ăn một bữa tối tuyệt vời sau khi tất cả khách khứa đã ra về. Chị đói ngấu… chị nghĩ mình chưa bao giờ đói như thế từ bao nhiêu năm nay. Thật thích thú khi được ăn mọi thứ mình muốn mà chẳng ai cảnh cáo về những thứ không hợp với dạ dày. Sau bữa tối, Mary và chị sang thăm ngôi nhà cũ của cậu ấy, đi lang thang trong khu vườn, ôn lại những kỷ niệm xưa. Bọn chị gặp lại những bụi tử đinh hương mà bọn chị đã trồng nhiều năm trước. Thuở còn thiếu nữ, bọn chị cùng trải qua những tháng ngày tươi đẹp. Và rồi khi hoàng hôn buông xuống, bọn chị dạo bước ra bờ biển xưa yêu dấu, và ngồi lặng yên trên một mỏm đá. Tiếng chuông ngân nga vẳng lên từ bến cảng, và thật êm đềm khi cảm nhận làn gió biển mơn man và ngắm những ngôi sao đung đưa trên mặt nước. Suýt nữa chị quên mất rằng buổi đêm ở vùng vịnh mỹ lệ đến nhường nào. Khi trời tối sẫm bọn chị quay về và ông Gregor đã sẵn sàng khởi hành… và thế rồi,” Pauline kết thúc với một nụ cười, “bà già trở về nhà trong đêm.” [1]

[1] Câu cuối trong truyện cổ tích “Bà già và con lợn” do Joseph Jacobs kể.

“Em ước… em ước gì chị không phải chịu khổ như thế ở nhà, chị Pauline ạ…” “Ôi, Shirley yêu dấu, giờ thì chị sẽ không buồn đâu,” Pauline nói nhanh. “Xét cho cùng thì mẹ đáng thương cần đến chị. Và em yêu ạ, thật tuyệt khi có ai đó cần đến mình.” Đúng vậy, thật tuyệt khi có ai đó cần đến mình. Anne nghĩ về điều này trong gian phòng tháp, nơi Xám Tro trốn Rebecca Dew và hai bà góa phụ, nằm cuộn tròn trên giường của cô. Cô nghĩ đến cảnh Pauline tất tả quay trở lại nhà tù chật hẹp, nhưng có ‘tinh thần bất tử của một ngày hạnh phúc’ làm bạn.

“Chị hy vọng sẽ luôn có ai đó cần đến chị,” Anne kể lể với Xám Tro. “Và thật tuyệt vời, Xám Tro ạ, khi có thể đem lại hạnh phúc cho ai đó. Điều đó khiến chị cảm thấy mình rất giàu có, khi tặng cho Pauline ngày hôm nay. Nhưng, Xám Tro hỡi, cưng có nghĩ rằng liệu chị có bao giờ trở nên giống như bà Adoniram Gibson, ngay cả khi chị sống đến tám mươi tuổi không? Xám Tro, cưng có nghĩ thế không?” Xám Tro cất tiếng gừ khàn khàn trầm thấp, bảo đảm với cô rằng nó hoàn toàn không hề nghĩ như vậy.

Chương 15

Anne xuống Mỹ Cảnh vào đêm thứ Sáu trước đám cưới. Gia đình Nelson tổ chức tiệc tối tiếp đãi vài người bạn thân của gia đình và khách khứa đến bằng tàu thủy. Ngôi nhà rộng rãi với vô số ngóc ngách được gọi là “nhà nghỉ mát” của bác sĩ Nelson, nằm giữa rặng vân sam trên một mũi đất với hai bên là vịnh biển, những cồn cát căng tròn vàng rực trải dài phía trước, ngôi nhà ấy hiểu về gió đến tận chân tơ kẽ tóc.

Anne vừa nhìn thấy đã mê nó ngay. Một ngôi nhà đá cũ lúc nào cũng có vẻ tĩnh lặng và nghiêm nghị. Nó chẳng sợ mọi đe dọa từ mưa, gió hay thị hiếu thất thường. Và trong buổi chiều tháng Sáu hôm ấy, nó sôi sục tuổi trẻ và niềm hứng khởi, tiếng cười khúc khích của các cô gái, lời chào hỏi của bạn bè lâu năm, tiếng xe ngựa hết đến lại đi, trẻ em chạy giỡn khắp nơi, quà tặng đầy tràn, ai nấy đều bị nhấn chìm bởi mớ hỗn loạn đầy phấn khích trước một đám cưới, hai chú mèo đen của bác sĩ Nelson, vinh dự được mệnh danh là Barnabas và Saul, ngồi ưỡn ẹo trên lan can ngoài hiên và quan sát mọi chuyện cứ như hai bức tượng nhân sư trầm lặng bằng đồng đen.

Sally tách ra khỏi đám đông và kéo Anne lên tầng trên.

“Chúng em để dành phòng ở chái phía Bắc cho chị. Đương nhiên là chị phải ở chung với ít nhất một trong ba cô nàng khác rồi. Ở đây thực sự đang rối tinh rối mù cả lên. Ba đã dựng lều cho bọn con trai ngoài rặng vân sam dưới kia, và tới khuya thì có thể đặt thêm mấy chiếc võng ở hàng hiên vách kính đằng sau nhà. Và đương nhiên chúng ta có thể tống hầu hết đám trẻ con vào hầm cỏ khô. Ôi, chị Anne, em kích động quá thể. Đúng là có đủ mọi trò vui bất tận khi kết hôn. Hôm nay áo cưới của em vừa từ Montreal đến. Nó đúng là đẹp như mơ… vải lụa sọc màu kem đính ngọc trai với cổ đăng ten. Những món quà tặng đáng yêu nhất cũng vừa được gửi tới. Đây là giường của chị. Giường còn lại là của Mamie Gray, Dot Fraser và Sis Palmer. Mẹ muốn sắp xếp cho Amy Stewart ở phòng này nhưng em không chịu. Amy ghét chị vì cô nàng muốn làm phù dâu cho em. Nhưng em không thể dùng một phù dâu quá béo và lùn tịt được, phải không chị? Hơn nữa, cô nàng trông như bị say sóng trong bộ váy màu xanh sông Nile. Ôi, chị Anne ơi, bà dì Mèo Già đã đến rồi. Bà ấy mới tới vài phút trước đấy thôi và bọn em quả thật là đờ người ra vì khiếp hãi. Đương nhiên là bọn em phải mời cho phải phép, nhưng chúng em cứ tưởng ngày mai bà ấy mới đến.” “Thế bà dì Mèo Già là nhân vật gì vậy?” “Là dì của ba, bà James Kennedy. Ồ, thực ra phải gọi là bà dì Grace, nhưng Tommy lén đặt tên cho bà ấy là bà dì Mèo Già vì bà ấy lúc nào cũng đi lần mò và bươi móc những chuyện mà bọn em không muốn bà ấy biết. Chẳng có cách nào thoát khỏi bà ấy cả. Thậm chí bà ấy còn cố dậy sớm vào buổi sáng vì sợ sẽ bỏ lỡ chuyện gì đó và là người cuối cùng đi ngủ vào ban đêm. Nhưng đó không phải là điều tồi tệ nhất. Nếu có một điều khiếm nhã không nên nói, bà ấy nhất định là người nói nó ra miệng, và bà ấy không bao giờ biết rằng có những câu không bao giờ nên hỏi. Ba gọi những bài phát biểu của bà ấy là “Lời hay ý đẹp của dì Mèo Già”. Em biết bà ấy sẽ làm hỏng bữa ăn tối cho coi. Bà ấy đến đây rồi kìa.” Cửa mở và dì Mèo Già bước vào… một phụ nữ phốp pháp thấp bé, mắt lồi, cả người nồng nặc mùi băng phiến, và có vẻ mặt lo lắng kinh niên. Ngoại trừ vẻ mặt, bà ta trông khá giống một chú mèo săn bắt chuột.

“Thế cô là cô nàng Shirley mà ai cũng hay nhắc đến chứ gì. Cô chẳng giống chút nào một cô Shirley ta từng quen. Cô ấy có đôi mắt đẹp lắm cơ. Ôi dào, Sally à, thế là mi cuối cùng cũng cưới chồng rồi đấy. Nora đáng thương là đứa duy nhất còn sót lại. Ôi dào, mẹ của mi thật may mắn khi tống khứ được cả năm đứa. Tám năm trước ta nói thế này, “Jane,” ta hỏi, “liệu có bao giờ cháu gả chồng hết cho mấy cô con gái hay không?” Ôi dào, đàn ông chẳng đem lại gì khác ngoại trừ những nỗi phiền muộn, ta thấy thế quen rồi, và trong những điều hay thay đổi thì hôn nhân là thứ dễ đổi thay nhất, nhưng thử hỏi phụ nữ trên đời này còn có thể trông cậy vào thứ gì khác nữa? Ta cứ mãi nói thế với Nora tội nghiệp. “Nora, nhớ lấy lời của ta,” ta khuyên nó như thế, “làm gái già chẳng có gì vui vẻ đâu. Jim Wilcox định thế nào?” ta nói đi nói lại với con bé ấy.” “Ôi, bà dì Grace, cháu ước gì bà đã không nói thế! Hình như Jim và Nora có cãi vã gì đó hồi cuối tháng Giêng và từ độ ấy anh ta chẳng bao giờ ghé qua nữa.” “Ta tin rằng nên nói thẳng ra những gì ta nghĩ trong bụng. Nói toạc ra là tốt hơn cả. Ta có nghe nói về vụ cãi vã ấy. Đó là lý do tại sao ta lại hỏi nó về anh chàng. “Tốt hơn là,” ta bảo nó, “mi nên biết rằng người ta đồn anh chàng hay chở Eleanor Pringle đi đấy.” Nó mặt đỏ phừng phừng, phát khùng lên và chạy ào ra ngoài. Vera Johnson làm gì ở đây? Có tí họ hàng nào đâu?” “Vera luôn luôn là một người bạn tuyệt vời của cháu, bà Grace ạ. Cô ấy sẽ chơi bản Hành khúc đám cưới.” “Ồ, thế à, thật chứ? Ôi dào, ta chỉ hy vọng cô nàng không lầm lẫn và chơi bản Hành khúc tang lễ như bà Tom Scott từng làm trong đám cưới của Dora Best. Điềm xấu lắm đấy. Ta chẳng hiểu nổi là các người làm sao mà sắp xếp đủ chỗ ngủ cho đám đông hỗn loạn này. Ta áng chừng vài ba người chắc phải ngủ trên dây phơi đồ mất.” “Ôi, chúng cháu sẽ sắp xếp được chỗ cho mọi người thôi, bà Grace ạ.” “Ôi dào, Sally, ta chỉ hy vọng là mi sẽ không đổi ý vào phút cuối cùng cũng như Helen Summers từng làm. Thế thì mọi việc sẽ lộn tùng phèo lên hết thảy. Ba của mi đang vui sướng hứng khởi khủng khiếp đấy. Ta không phải là kẻ hay nói gở, nhưng ta chỉ hy vọng rằng đó không phải là dấu hiệu báo trước của một cơn đột quỵ. Ta đã từng chứng kiến chuyện xảy ra như thế rồi.” “Ôi, ba vẫn khỏe mà, dì Mèo Già. Ba chỉ phấn khởi một chút thôi.” “À, mi còn quá trẻ, Sally ạ, để lường trước mọi chuyện có thể xảy ra. Mẹ của mi bảo với ta rằng buổi lễ sẽ được tổ chức vào đúng giữa trưa ngày mai. Tập tục cưới hỏi cũng thay đổi xoành xoạch hệt như mọi thứ khác và không phải theo chiều hướng tốt hơn. Khi ta kết hôn, buổi lễ được tổ chức vào buổi chiều, và cha ta đặt trước cả hai mươi lít rượu cho đám cưới. À, hỡi ơi, thời đại này chẳng còn được như trước nữa. Chuyện gì xảy ra với Mercy Daniels thế? Ta gặp con bé trên cầu thang và da của nó cứ xỉn ra như bùn ấy, khiếp quá.” “Ân Chúa không cần tinh lọc,” Sally vừa cười khúc khích vừa chui vào chiếc váy dạ tiệc.

“Đừng có trích dẫn Kinh Thánh kiểu chớt nhả như thế,” dì Mèo Già quở trách. “Cô đừng để ý gì đến nó, cô Shirley ạ. Chỉ là nó chưa mấy quen với việc kết hôn thôi. Ôi dào, tôi chỉ hy vọng chú rể sẽ không có vẻ mặt khiếp hãi như nhiều tay khác từng thế. Ta đoán rằng họ cảm thấy đúng như vậy thật, nhưng cũng không cần để lộ ra mặt mồn một chứ. Và ta hy vọng anh chàng sẽ không quên mang nhẫn. Upton Hardy từng quên thế đây. Anh ta và Flora đành kết hôn với chiếc nhẫn lấy từ thanh suốt treo rèm. Ôi dào, ta phải xem xét lại đống quà cưới một lượt. Mi nhận được rất nhiều món quà tuyệt vời, Sally ạ. Ta hy vọng là sẽ không quá khó khăn để giữ bóng chuôi thìa như ta hay nghĩ.” Bữa tiệc tối ngoài hàng hiên vách kính rộng rãi diễn ra rất náo nhiệt. Những chiếc đèn lồng kiểu Trung Quốc được treo đầy chung quanh, tỏa ánh sáng dìu dịu lên những bộ váy đẹp đẽ, mái tóc óng ả và vầng trán trắng ngần không một nếp nhăn của các cô gái. Barnabas vào Saul ngồi nghiêm nghị như hai bức tượng bằng gỗ mun trên tay vịn bè ra của chiếc ghế ông bác sĩ, ông ta chọn những món ngon lần lượt đút cho chúng ăn lần.

“Cũng tệ chẳng kém gì Parker Pringle,” dì Mèo Già nhận xét. “Hắn cho con chó ngồi chung bàn với ghế và khăn ăn riêng. Ôi dào, sớm muộn gì thì hắn cũng phải chịu tội vì điều đó.” Đây là một buổi tiệc lớn, bởi tất cả các cô gái họ Nelson đã lập gia đình và chồng của họ đều có mặt, thêm vào khách khứa đàng gái và các cô phù dâu; bữa tiệc diễn ra rất vui nhộn, mặc cho những “lời hay ý đẹp” của bà dì Mèo Già… hoặc có lẽ nhờ vào chính những “lời hay ý đẹp”đó. Không ai coi trọng dì Mèo Già cả; rõ ràng đám trẻ xem bà ta là trò đùa. Khi bà lên tiếng lúc được giới thiệu với Gordon Hill, “Ôi dào, ôi dào, anh chẳng giống chút nào với mong đợi của tôi. Tôi luôn nghĩ Sally sẽ chọn người đàn ông đẹp trai cao ráo cơ,” tiếng cười khúc khích lan truyền khắp hàng hiên. Gordon Hill, với thân hình có chiều hơi thấp bé và ngay cả bạn thân nhất cũng chỉ đánh giá anh là “dễ coi”, biết mình sẽ bị trêu chọc cho đến chết vì việc này. Bà nói với Dot Fraser, “Ôi dào, ôi dào, mỗi lần gặp cô là ta thấy cô mặc một chiếc váy mới! Ta chỉ hy vọng là cái ví của ba cô sẽ chịu đựng được thêm vài năm nữa.” Tất nhiên, lúc ấy nếu có thể thì Dot sẵn sàng quẳng bà dì vào vạc dầu, nhưng vài cô gái khác lại thấy buồn cười. Và khi bà dì Mèo Già u uất nhận xét, về mọi chuẩn bị cho buổi tiệc cưới, “Ta chỉ hy vọng là mọi người ai cũng nhận lại đủ số thìa mình cho mượn. Năm chiếc thìa đã mất tích sau đám cưới của Gertie Paul. Chẳng bao giờ tìm được tung tích của chúng kể từ đó,” bà Nelson, người mượn ba chục chiếc thìa và bà chị dâu cho bà mượn thìa đều lộ vẻ lo lắng. Nhưng bác sĩ Nelson vẫn vui vẻ cười hô hố.

“Chúng ta sẽ bắt mọi người phải lộn ngược túi ra trước khi được phép ra về, dì Grace ạ.” “À, cháu cứ cười đi, Samuel. Một chuyện kiểu vậy xảy ra trong gia đình thì không phải chuyện đùa đâu. Ai đó đã giữ những chiếc thìa đó. Ta chẳng bao giờ đi đâu xa, nhưng lúc nào ta cũng để ý tìm chúng. Chỉ cần nhìn thấy chúng là ta sẽ nhận ra ngay, mặc dù chuyện xảy ra hồi hai mươi tám năm trước rồi. Nora đáng thương lúc ấy chỉ là một đứa bé sơ sinh. Cháu có nhớ là mình đã ẵm nó ở đó không, Jane, nó mặc một bộ váy trắng nhỏ xíu thêu hoa? Hai mươi tám năm rồi! À, Nora, mi cũng tuổi đời chồng chất rồi đấy, mặc dù dưới ánh sáng này thì tuổi của mi không rõ ràng lắm.” Nora không tham gia vào tràng cười nối tiếp theo đó. Chị có vẻ như sẵn sàng tóe lửa bốc khói vào bất kỳ lúc nào. Dẫu mặc váy vàng nhạt và cái chuỗi ngọc trai trên mái tóc sẫm màu, chị khiến Anne nghĩ tới một chú bướm đen. Trái ngược hẳn với cô nàng nõn nà tóc vàng bạch kim Sally, Nora Nelson có mái tóc đen lộng lẫy, đôi mắt huyền, lông mày đen rậm rạp và đôi má mịn màng đỏ ửng. Mũi của chị bắt đầu hơi khoằm xuống giống chim ưng, và dẫu chị chưa bao giờ được coi là một mỹ nhân nhưng Anne cảm thấy bị thu hút một cách kỳ lạ, mặc cho thái độ sưng sỉa và hay hờn giận của chị. Cô cảm thấy cô muốn trở thành bạn của Nora hơn là cô nàng Sally vốn được mọi người yêu mến.

Sau bữa tối là đến buổi khiêu vũ, âm nhạc và tiếng cười ào ạt dâng trào khỏi những cánh cửa sổ rộng thấp của ngôi nhà đá cũ. Đến mười giờ Nora biến mất. Anne có chút mệt mỏi trước những trò vui và tiếng ồn. Cô lẩn qua hành lang, đi đến cửa sau gần như dẫn thẳng ra vịnh, rồi thoăn thoắt đi xuống bậc thềm đá dẫn ra bãi biển, ngang qua một cụm linh sam nhọn hoắt. Sau buổi chiều oi bức, bầu không khí biển mát rượi thật tuyệt diệu biết bao! Ánh trăng khắc những bông hoa bạc thật tinh tế trên vùng vịnh! Chiếc thuyền huyền ảo tựa giấc mơ khởi hành từ nơi trăng mọc, và giờ đang tiến gần bến cảng! Đó là một đêm mà ta cứ ngỡ sắp lạc lối giữa vũ điệu của các nàng tiên cá.

Nora co người nấp mình trong bóng tối đen u uất khuất sau tảng đá gần kề mép nước, chị giờ đây trông giống như một cơn giông hơn bao giờ hết.

“Em ngồi cạnh chị một lát được chứ?” Anne hỏi. “Em hơi oải vụ nhảy nhót rồi, và thật xấu hổ nếu để lỡ buổi đêm tuyệt vời này. Em ghen với chị lắm, vì chị có cả một cảng biển rộng làm sân sau thế này.” “Vào thời điểm như bây giờ, cô sẽ cảm thấy thế nào nếu không có bạn trai?” Nora đột ngột hỏi với vẻ cáu kỉnh. “Hoặc chẳng có tí cơ hội nào có bạn trai,” chị thêm vào với giọng còn cáu kỉnh hơn thế.

“Em nghĩ nếu chị chưa có bạn trai thì đó hẳn là do chị lựa chọn như thế,” Anne đáp và ngồi xuống bên cạnh chị. Nora chợt nhận thấy chị đang tâm sự với Anne những băn khoăn của mình. Luôn có điều gì đó ở Anne khiến mọi người sẵn lòng dốc bầu tâm sự với cô.

“Đương nhiên cô nói thế là theo phép lịch sự thôi. Chẳng cần đâu. Cô biết rõ chẳng kém gì tôi rằng tôi không phải loại con gái mà đàn ông dễ yêu… tôi là “cô Nelson tầm thường”. Không phải là tôi không lựa chọn ai đâu. Tôi không thể chịu đựng bầu không khí trong đó thêm chút nào nữa. Tôi đã phải đi xuống đây một mình gặm nhấm nỗi đau. Tôi đã chán mỉm cười và tỏ vẻ hòa nhã với mọi người, rồi giả vờ không quan tâm khi họ gặng hỏi về chuyện tôi chưa kết hôn. Tôi sẽ không giả vờ nữa. Tôi thực sự để tâm chuyện này… để tâm khủng khiếp. Tôi là người duy nhất còn lại trong số các cô gái nhà Nelson. Năm người trong số chúng tôi đã kết hôn hoặc sẽ kết hôn vào ngày mai. Cô cũng nghe bà dì Mèo Già tính tuổi của tôi trên bàn ăn rồi đấy. Và tôi nghe bà ta nhận xét với mẹ trước bữa ăn rằng tôi đã “xuống sắc khá nhiều” kể từ mùa hè năm ngoái. Đương nhiên là thế rồi. Tôi đã hai mươi tám. Mười hai năm nữa, tôi sẽ bốn mươi tuổi. Làm thế nào tôi chịu đựng nổi cuộc đời ở tuổi bốn mươi, Anne, nếu tôi vẫn chưa có chồng con gì vào thời điểm đó?” “Em sẽ chẳng thèm để ý đến những điều mà một bà già ngốc nghếch nhiều chuyện hay nói đâu.” “Ồ, thế sao? Mũi của cô không giống như tôi. Mũi tôi sẽ khoằm giống hệt ba trong mười năm nữa. Và tôi cho rằng cô cũng sẽ chẳng thèm để ý, nếu cô đợi lời cầu hôn suốt nhiều năm liền… mà anh ta vẫn cương quyết không mở miệng?” “Ồ, không đâu, em nghĩ em sẽ rất bận tâm đấy chứ.” “Ừ, đó chính xác là nỗi khổ tâm của tôi. À, tôi biết cô đã nghe nói đến chuyện giữa tôi và Jim Wilcox. Cũng xưa lắm rồi. Anh ta lẽo đẽo theo tôi suốt nhiều năm… nhưng chẳng bao giờ đề cập gì đến chuyện kết hôn.” “Chị có để ý đến anh ấy không?” “Đương nhiên rồi. Tôi luôn vờ như là mình chẳng thèm để ý, nhưng như tôi đã nói với cô, tôi chán giả vờ lắm rồi. Và kể từ tháng Giêng năm ngoái, anh ta đã chẳng thèm lại gần tôi. Chúng tôi đã cãi nhau một trận… nhưng chúng tôi từng cãi nhau như thế cả trăm lượt rồi. Lúc trước anh ấy luôn trở lại với tôi… nhưng lần này thì không… và anh ấy sẽ không bao giờ quay lại nữa. Anh ấy không cần nữa. Nhìn qua ngôi nhà anh ấy bên kia vịnh, lấp lánh dưới ánh trăng. Tôi đoán rằng anh ấy đang ở bên đó… và tôi ở đây… một cảng biển mênh mông nằm giữa chúng tôi. Vĩnh viễn sẽ luôn như thế. Thật… thật khủng khiếp! Và tôi không thể làm gì cả.” “Nếu chị gọi anh ấy, liệu anh ấy có quay lại không?” “Gọi anh ta! Cô nghĩ tôi sẽ làm được thế sao? Tôi thà chết còn hơn. Nếu anh ta muốn đến với tôi thì chẳng có gì ngăn cản được anh ta cả. Còn nếu anh ta không cần, thì tôi cũng chẳng cần. Ôi không, tôi cần lắm… thực sự cần anh ấy! Tôi yêu Jim… và tôi muốn kết hôn. Tôi muốn có ngôi nhà của riêng mình và trở thành “Bà” và khóa miệng bà dì Mèo Già. Ôi, tôi ước gì có thể trở thành Barnabas hoặc Saul trong vài ba giây, đủ để chửi thề thẳng mặt bà ta! Nếu bà ta gọi tôi là “Nora đáng thương” thêm một lần nữa tôi sẽ ném một giỏ than vào bà ta cho coi. Nhưng nói thực tình thì bà ta chỉ nói ra miệng những gì mọi người nghĩ trong bụng. Mẹ đã tuyệt vọng về chuyện kết hôn của tôi từ lâu rồi, do đó mẹ để mặc tôi, nhưng những người khác cứ trêu chọc tôi mãi. Tôi ghét Sally… đương nhiên, tôi thật xấu tính… nhưng tôi ghét nó. Nó sắp có một người chồng tốt và một ngôi nhà xinh xắn. Thật không công bằng khi nó có mọi thứ còn tôi thì chẳng có gì. Nó không tốt hơn, thông minh hơn hay đẹp hơn tôi nhiều… chỉ may mắn hơn tôi thôi. Tôi cho rằng chắc cô nghĩ tôi thật xấu tính quá… tôi cũng không mấy quan tâm cô nghĩ gì đâu.” “Em nghĩ rằng chị đang rất, rất mệt mỏi, sau nhiều tuần chuẩn bị và căng thẳng, và rằng những chuyện vốn dĩ đã khó khăn nay lại lập tức trở nên quá sức khó khăn.” “Cô hiểu… ôi, vâng, tôi luôn luôn biết là cô sẽ hiểu cho tôi. Tôi luôn muốn làm bạn với cô, Anne Shirley ạ. Tôi thích cách cô cười. Tôi luôn ước ao mình có thể cười như thế. Tôi không quạu quọ như vẻ ngoài đâu… là do hai hàng lông mày đấy. Tôi thực sự nghĩ rằng chúng làm bọn con trai sợ không dám tiếp cận. Tôi chưa bao giờ có một người bạn gái thân thiết trong đời. Nhưng đương nhiên tôi luôn luôn có Jim. Chúng tôi luôn là… bạn bè… kể từ khi chúng tôi còn nhỏ xíu. Ôi, tôi thường thắp một ngọn đèn trước cửa sổ nhỏ trên gác xép mỗi khi tôi muốn anh ấy ghé chơi, và anh ấy sẽ lập tức dong thuyền qua ngay. Chúng tôi đi cùng nhau đến khắp nơi. Chẳng đứa con trai nào khác có cơ hội… nhưng tôi nghĩ cũng chẳng có ai cần cả. Và bây giờ tất cả đã chấm dứt. Anh ấy đã quá chán ngán tôi và vui vẻ khi có thể vin vào cuộc cãi vã đó mà dứt ra. Ôi, ngày mai tôi hẳn sẽ ghét cô lắm vì tôi đã kể cho cô nghe những chuyện này!” “Tại sao chứ?” “Chúng ta luôn căm ghét những kẻ biết được những bí mật của mình, tôi nghĩ thế,” Nora mệt mỏi trả lời. “Nhưng dường như có gì đó khiến ta day dứt khi dự một đám cưới… và tôi chẳng thèm quan tâm… tôi chẳng thèm quan tâm đến bất cứ điều gì nữa. Ôi, Anne Shirley ơi, tôi khổ sở quá! Hãy để tôi khóc một trận trên vai cô. Tôi sẽ phải mỉm cười và tỏ vẻ hạnh phúc suốt ngày mai. Sally tin dị đoan… “Ba lần phù dâu, không bao giờ là cô dâu,” cô biết đấy. Không phải thế đâu! Tôi chỉ không thể chịu đựng cảnh phải đứng đó và nghe nó nói, “Con đồng ý” và biết rằng tôi sẽ không bao giờ có cơ hội nói câu đó với Jim. Tôi những muốn ngửa đầu nhìn trời và gào lên. Tôi muốn làm cô dâu… với đầy đủ tư trang… và khăn lanh có thêu tên… và những món quà mỹ miều. Dẫu đó là chiếc đĩa đựng bơ bằng bạc của bà dì Mèo Già. Quà cưới của bà ta lúc nào cũng là đĩa đựng bơ… món đồ kinh tởm với nắp đậy như vòm nhà thánh Peter. Chúng tôi có thể bày nó ra bàn ăn sáng để Jim tha hồ mà giễu cợt. Anne, tôi nghĩ mình sẽ phát điên mất.” Buổi khiêu vũ đã chấm dứt khi các cô gái quay lại ngôi nhà, tay trong tay. Mọi người đang được sắp xếp chỗ ngủ. Tommy Nelson dẫn Barnabas và Saul ra chuồng ngựa. Bà dì Mèo Già vẫn còn ngồi trên ghế sofa, nhẩm lại tất cả những điều đáng sợ mà bà hy vọng sẽ không xảy ra ngày mai.

“Tôi hy vọng sẽ không có ai đứng lên nói ra một lý do khiến cô dâu và chú rể không nên kết hôn. Chuyện ấy đã xảy ra trong đám cưới của Tillie Hatfield.” “Gordon sẽ không may mắn như vậy đâu,” phù rể nhận xét. Bà dì Mèo Già gườm gườm nhìn anh ta với con mắt nâu lạnh băng.

“Chàng trai trẻ, hôn nhân không phải là một trò đùa đâu.” “Dám cá là thế,” anh ta đáp với giọng chẳng chút ăn năn, “Này, Nora, khi nào chúng tớ mới có cơ hội khiêu vũ trong đám cưới của cậu đây?” Nora không thèm trả lời. Chị đi lại gần và cố ý tát thẳng vào mặt anh ta, một cái ở bên má này, rồi thêm một cái vào má bên kia. Đó không phải là những cái tát giả vờ. Và rồi chị đi lên lầu mà không thèm nhìn lại sau lưng.

“Con bé ấy,” bà dì Mèo Già tuyên bố, “mệt quá hóa khùng rồi.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3