Anne tóc đỏ dưới mái nhà Bạch Dương - Chương 08 - 09
Chương 8
Tối hôm sau, Anne đành lên đường tới Trại Cây Du, dạo bước xuyên qua một khung cảnh như trong mơ giữa màn sương mù tháng Mười một, cảm giác nôn nao lan tỏa khắp châu thân. Đây không hẳn là một chuyến đi vui vẻ. Như Dovie đã nói, tất nhiên Franklin Westcott sẽ không giết cô. Anne không sợ bị hành hạ về mặt thể xác… dẫu rằng nếu những lời đồn đại là sự thực thì ông ta dễ có khả năng ném này ném nọ vào cô lắm. Liệu trong lúc giận dữ, ông ta có lắp bắp không nhỉ? Anne chưa từng chứng kiến người nào giận đến độ nói năng lắp bắp, và trong hình dung của cô, cảnh tượng đó chắc hẳn chẳng mấy dễ chịu. Nhưng rất có thể ông ta sẽ phô bày tài năng mỉa mai châm biếm khét tiếng của mình, mà sự mỉa mai châm biếm, dẫu ở nam hay nữ, cũng đều là thứ vũ khí khiến Anne kinh hãi. Nó luôn khiến cô tổn thương… khoét sâu vào tâm hồn cô những vết thương nhức nhối hàng tháng trời.
“Có lần dì Jamesina đã nói, “Nếu có thể tránh được thì đừng bao giờ đảm nhiệm vai trò người mang tin xấu,” Anne nhớ lại. “Trong chuyện đó dì ấy cũng sáng suốt chẳng kém gì đối với những vấn đề khác. Chà, mình đến nơi rồi.” Trại Cây Du là một ngôi nhà xây theo kiểu cổ, mỗi góc đều có một trụ tháp với mái vòm hình bát úp. Con chó ngồi trên nhịp cầu thang trên cùng bậc thềm trước cửa ra vào.
“Giống chó đó một khi đã cắn cái gì rồi thì cấm có bao giờ nhả ra khỏi miệng,” Anne nhớ lại. Cô có nên thử đi vòng sang phía cửa ngách không nhỉ? Nhưng rồi, nghĩ đến chuyện rất có thể Franklin Westcott đang quan sát cô từ ô cửa sổ. Anne gồng mình lên. Cô sẽ không đời nào cho phép ông ta đạt được niềm thỏa mãn khi chứng kiến cô sợ hãi con chó của ông ta. Một cách cương quyết, cô hất cao đầu, hùng dũng leo lên bậc thềm, bước qua con chó và nhấn chuông. Con chó chẳng buồn nhúc nhích. Khi Anne liếc mắt ra sau lưng nhìn nó, có vẻ như con chó đang ngủ rồi.
Theo thông tin nhận được, Franklin Westcott không có nhà nhưng ông sẽ về ngay thôi, vì tàu hỏa Charlottetown đã đến giờ vào ga rồi. Bà Maggie dẫn Anne vào căn phòng được bà gọi là “thư vịn” rồi để cô lại đó.
Con chó đã dậy và theo chân họ vào bên trong. Nó bước đến ngồi xuống dưới chân Anne.
Anne nhận thấy mình khá thích “thư vịn”. Đó là một căn phòng đơn sơ, vui mắt, với một ngọn lửa ấm áp bập bùng trong lò sưởi và những mảnh thảm nhỏ bằng da gấu phủ trên tấm thảm trải sàn màu đỏ đã cũ sờn. Rõ ràng Franklin Westcott rất chú tâm thỏa mãn mối quan tâm dành cho sách và tẩu thuốc.
Ngay sau đó cô nghe tiếng ông ta bước vào. Ông ta đã treo mũ và áo khoác ngoài hành lang: ông ta đứng lên ngưỡng cửa thư viện, hàng lông mày cau lại với vẻ giận dữ không hề che giấu. Anne nhớ lại ấn tượng của cô đối với ông trong lần đầu tiên gặp mặt, cảm giác ông có phần giống như một tay cướp biển lịch lãm, và giờ ấn tượng đó một lần nữa lại trở lại trong cô.
“Ồ, là cô à?” ông nói giọng hơi cộc cằn. “Hừm, cô muốn gì hả?” Ông ta thậm chỉ còn chẳng định giơ tay ra để bắt tay với cô. So sánh cả hai, Anne thầm nghĩ rõ ràng con chó có vẻ tử tế hơn nhiều.
“Ông Westcott, trước hết mong ông hãy kiên nhẫn nghe tôi trình bày…” “Tôi kiên nhẫn chứ… rất kiên nhẫn là đằng khác. Tiếp tục đi!” Anne rút ra kết luận rằng có tìm cách quanh co lòng vòng với một người giống như Franklin Westcott cũng chẳng ích lợi gì.
“Tôi đến để báo cho ông biết,” cô bình tĩnh nói, “Dovie đã làm đám cưới với Jarvis Morrow rồi.” Rồi Cô chờ đợi sấm sét nổ ra. Chẳng có gì cả. Khuôn mặt rắn rỏi rám nắng của Franklin Westcott không có bất kỳ thay đổi nào. Ông bước vào trong phòng và ngồi xuống chiếc ghế bọc da chân vòng kiềng đối diện Anne.
“Khi nào?” ông hỏi.
“Tối hôm qua… tại nhà chị gái cậu ấy,” Anne nói.
Franklin Westcott hướng đôi mắt màu nâu vàng dưới hai hàng lông mày đã ngả màu hoa râm nhìn cô chăm chú một lúc. Mất một lúc, Anne băn khoăn không biết hồi nhỏ trông ông ta như thế nào. Rồi ông ta hất đầu ngửa ra đằng sau và bắt đầu tràng cười không thành tiếng.
“Ông không thể đổ lỗi cho Dovie được, ông Westcott,” Anne hăm hở lên tiếng, tài ăn nói đã được phục hồi sau khi thời khắc tiết lộ sự thật đáng sợ ấy đã trôi qua. “Đó không phải lỗi của cô ấy…” “Tôi dám cá rằng không phải,” Franklin Westcott nói.
Có phải ông ta đang cố tỏ thái độ mỉa mai không? “Không, toàn bộ chuyện này là lỗi của tôi,” Anne nói, đơn giản và dũng cảm. “Tôi đã khuyên cô ấy bỏ… khuyên cô ấy làm đám cưới… tôi đã buộc cô ấy làm thế. Vậy nên xin ông hãy tha thứ cho cô ấy, ông Westcott.” Franklin Westcott lạnh lùng nhấc một cái tẩu lên nhồi đầy thuốc vào trong.
“Nếu cô đã tìm ra được cách để buộc Sibyl bỏ nhà chạy theo Jarvis Morrow, cô Shirley ạ, thì phải nói rằng tôi chưa bao giờ tưởng tượng được lại có bất kỳ ai có thể đạt được thành công đến mức đó đâu. Tôi đã bắt đầu e rằng con bé chẳng bao giờ có đủ nghị lực để làm như thế. Và rồi tôi sẽ phải thoái lui… mà Chúa ôi, người nhà Westcott chúng tôi mới căm ghét chuyện thoái lui làm sao chứ! Cô đã giúp tôi giữ được thể diện, cô Shirley ạ, và tôi vô cùng biết ơn cô.” Bầu không khí chìm trong sự im lặng căng thẳng trong lúc Franklin Westcott nén thuốc lá xuống và nhìn thẳng vào mặt Anne kèm theo một cái nháy mắt thích thú. Anne hoang mang đến độ chẳng biết nói gì.
“Chắc hẳn,” ông nói, “trên đường đến đây, cô đã run lên sợ hãi vì phải báo cho tôi những tin tức khủng khiếp?” “Đúng vậy,” Anne nói, một cảm giác coi thường dấy lên trong thoáng chốc.
Franklin Westcott cười cùng cục không thành tiếng.
“Cô không cần phải thế đâu. Cô không thể mang đến cho tôi tin tức nào đáng hoan nghênh hơn đâu. Này nhé, từ hồi hai đứa nó còn nhỏ xíu, tôi đã nhắm Jarvis Morrow cho Sibyl rồi. Ngay khi những đứa con trai khác bắt đầu để mắt đến con bé, tôi đã đuổi thẳng cổ bọn chúng. Bởi vậy mà Jarvis mới bắt đầu để ý đến con bé. Cậu ta sẽ cho lão già này phải chống mắt lên mà xem! Nhưng cậu ta được đám con gái mến mộ quá mức, thành ra tôi khó lòng tin nổi lại có một may mắn không tưởng nào đó làm cho cậu ta si mê con bé. Vậy là sau đó tôi đã vạch ra kế hoạch vận động của mình. Tôi hiểu quá tường tận về người nhà Morrow mà. Cô không biết đâu. Họ là một gia đình tử tế, nhưng đàn ông nhà đó không muốn những thứ họ có thể dễ dàng đạt được. Và một khi người ta bảo họ không thể giành được cái này cái kia thì y như rằng họ sẽ quyết tâm giành lấy nó cho kỳ được mới thôi. Họ luôn làm những chuyện trái ngược. Cha của Jarvis đã làm tan vỡ trái tim ba cô gái vì gia đình các cô đó cứ ra sức lấy lòng ông ta. Về phần Jarvis, tôi biết đích xác rồi chuyện gì sẽ xảy ra. Sibyl sẽ yêu cậu ta bằng tất cả trái tim… còn cậu ta thì chẳng mấy chốc sẽ thấy mệt mỏi vì con bé. Tôi biết rõ nếu cậu ta có thể dễ dàng có được con bé thì tình cảm cậu ta dành cho nó sẽ sớm phai nhạt thôi. Vậy nên tôi mới cấm cậu ta bén mảng đến gần nhà đồng thời cấm Sibyl nói chuyện với cậu ta, và nhìn chung tôi đóng khá tròn vai một vị phụ huynh nghiêm khắc. Cứ thử nói về sức mê hoặc của thứ ta chưa tóm được mà xem! Nó chẳng thấm tháp vào đâu so với sức mê hoặc của thứ không thể tóm được. Tất cả mọi chuyện đều diễn ra theo đúng kế hoạch, nhưng tôi vấp phải trở ngại bất ngờ bởi tính nhu nhược của Sibyl. Sibyl là một đứa con ngoan, nhưng con bé nhu nhược quá. Tôi vẫn luôn cho rằng con bé sẽ chẳng bao giờ có đủ dũng cảm bất chấp ý tôi mà cứ thế làm đám cưới với cậu ta chứ. Nào, cô gái yêu quý, nếu cô đã bình tĩnh lại rồi thì hãy kể lại tường tận toàn bộ câu chuyện đi.” Khiếu hài hước của Anne đã lại cứu nguy cho cô. Cô chẳng bao giờ có thể từ chối một cơ hội cười cho thỏa thích, ngay cả khi tràng cười đó nhắm vào chính cô đi nữa. Và bỗng nhiên, cô cảm thấy rất thân thiết với Franklin Westcott.
Ông lắng nghe cô kể lại, lặng lẽ rít những hơi thuốc sảng khoái. Khi Anne kể xong, ông gật đầu đầy mãn nguyện.
“Theo tôi thấy, tôi mắc nợ cô nhiều hơn tôi nghĩ. Nếu không nhờ cô, con bé sẽ chẳng bao giờ gom đủ dũng khí để làm chuyện này. Còn Jarvis Morrow sẽ chẳng mạo hiểm biến mình thành thằng ngốc lần thứ hai đâu… theo như tôi hiểu về nhà đó thì sẽ chẳng có chuyện đấy đâu. Chúa ôi, tôi đã thoát ra trong đường tơ kẽ tóc! Từ giờ cho tới tận cuối đời, cô muốn bảo tôi làm gì cũng được. Cô quả thực là người hào hiệp, vì dẫu tin vào hết thảy những lời đồn đại bịa đặt mà cô nghe được nhưng cô vẫn đến đây. Cô đã nghe kể nhiều chuyện lắm, đúng không?” Anne gật đầu. Con chó bun tựa đầu vào lòng cô, sung sướng gáy ro ro.
“Tất cả mọi người đều cho rằng ông là người lập dị, cộc cằn, hay gắt gỏng,” cô nói thẳng thắn.
“Chắc hẳn người ta cũng kể với cô rằng tôi là kẻ bạo ngược đã khiến vợ tôi sống dở chết dở và cai trị gia đình bằng cây gậy sắt?” “Phải, nhưng thực lòng mà nói đối với toàn bộ chuyện này tôi vẫn nửa tin nửa ngờ, ông Westcott ạ. Tôi cảm thấy Dovie sẽ chẳng thể yêu kính ông một cách sâu sắc như thế nếu con người ông đúng thật đáng sợ y như đã được tô vẽ bởi những câu chuyện ngồi lê đôi mách.” “Cô gái nhạy cảm! Vợ tôi sống rất hạnh phúc, cô Shirley ạ. Và nếu bà thuyền trưởng MacComber bảo cô rằng tôi đã hành hạ vợ mình cho tới chết thì cô nhớ mắng cho bà ấy một trận hộ tôi nhé. Xin thứ lỗi cho lối cư xử tầm thường của tôi nhé. Mollie rất đẹp… đẹp hơn Sibyl nhiều. Làn da mới trắng hồng làm sao chứ… mái tóc vàng nâu đến thế… đôi mắt xanh long lanh đến thế! Cô ấy là người phụ nữ xinh đẹp nhất Summerside. Nhất định phải thế. Tôi sẽ không chịu đựng nổi nếu có gã nào bước vào nhà thờ cùng một người vợ xinh đẹp hơn vợ tôi. Tôi quản lý gia đình theo đúng cách một người đàn ông nên làm, nhưng không hề bạo ngược. Ồ, tất nhiên thỉnh thoảng tôi cũng nóng giận, nhưng một khi đã quen rồi thì Mollie chẳng thèm để tâm làm gì. Đàn ông thì cũng phải có quyền thỉnh thoảng cãi cọ với vợ chứ, đúng không nào? Phụ nữ thường chán ốm các ông chồng tẻ nhạt. Thêm nữa, một khi đã bình tĩnh lại, lần nào tôi cũng tặng cô ấy nhẫn, dây chuyền hay một món trang sức nào đó kiểu thế. Ở Summerside chẳng người phụ nữ nào có nhiều nữ trang đẹp hơn đâu. Tôi phải lấy nó trao cho Sibyl mới được.” Anne trở nên tinh quái.
“Thế còn chuyện tập thơ của Milton thì sao?” “Thơ của Milton? Ôi, chuyện đó hả! Nào có tập thơ của Milton đâu… của Tennyson đấy chứ. Tôi sùng bái Milton nhưng không thể tôn trọng Alfred được. Ông ta ẻo lả đến phát ốm lên được. Một tối, hai dòng thơ kết bài Enoch Arden đã làm tôi phát điên nên tôi ném luôn cuốn sách qua cửa sổ. Nhưng hôm sau, vì bài Khúc ca tù và mà tôi đã nhặt lại cuốn sách đó rồi. Vì nó thì tôi sẵn sàng tha thứ cho bất cứ ai, về bất cứ chuyện gì. Tôi không đi ra ao hoa súng của George Clarke - chuyện đó chỉ là sản phẩm thêu dệt của bà già Prouty thôi. Cô sẽ không về luôn chứ? Mời cô ở lại dùng bữa tối đơn giản với lão già cô đơn đã bị cướp mất đứa con độc nhất nhé.” “Tôi thực lòng lấy làm tiếc vì không thể ở lại được, ông Westcott ạ, nhưng tối nay tôi phải tham dự cuộc họp hội đồng giáo viên rồi.” “Chà, vậy hẹn gặp cô khi nào Sibyl quay lại nhé. Chắc chắn tôi sẽ phải mở tiệc linh đình mừng bọn chúng rồi. May quá, thật nhẹ cả người vì chuyện này đã thuận theo đúng ý tôi. Cô không biết tôi ghét phải nhượng bộ mà nói “Hãy đưa con bé đi đi” như thế nào đâu. Giờ thì tôi chỉ cần phải giả vờ đau khổ, cam chịu số phận và u sầu tha thứ cho con bé vì nghĩ đến người mẹ tội nghiệp của nó. Tôi sẽ hành động đâu ra đấy… không được để cho Jarvis nghi ngờ. Cô đừng để lộ bí mật nhé.” “Sẽ không đâu,” Anne hứa.
Franklin Westcott lịch sự tiễn Anne ra cửa. Con chó bun nhổm dậy ngồi chồm hỗm, sủa váng lên sau lưng cô.
Lúc ra đến cửa, Franklin Westcott bỏ tẩu thuốc ra khỏi miệng rồi cầm nó gõ gõ lên vai cô.
“Hãy luôn nhớ rằng,” ông nghiêm nghị nói, “lúc nào cũng có nhiều cách để lột da một con mèo. Có thể làm sao cho con vật đó chẳng bao giờ biết được nó đã mất bộ da rồi. Nhờ cô gửi đến Rebecca Dew tình yêu mến của tôi nhé. Một bà cô tử tế, miễn là ta biết đối xử sao cho đúng cách. Và cảm ơn cô… cảm ơn cô.” Anne cất bước về nhà, xuyên qua màn đêm êm ái, mượt mà. Sương mù đã tan, gió đã chuyển hướng và bầu trời xanh nhạt nhòa phủ một lớp sương giá.
“Người ta đã bảo mình chẳng biết gì về Franklin Westcott hết,” Anne trầm ngâm suy nghĩ. “Họ nói đúng. Mình không biết gì hết. Và ngay cả họ cũng không.” “Ông ấy phản ứng thế nào?” Rebecca Dew háo hức hỏi. Suốt thời gian Anne đi vắng, ruột gan chị lúc nào cũng sôi lên như có lửa đốt vậy.
“Xét cho cùng thì cũng không đến nỗi tệ lắm,” Anne tâm sự. “Em nghĩ đến thời điểm thích hợp ông ấy sẽ tha thứ cho Dovie thôi.” “Tôi chưa từng thấy ai giỏi an ủi người khác hơn cô, cô Shirley ạ,” Rebecca Dew nói giọng ngưỡng mộ. “Lúc nào cô cũng tìm ra cách.” “Chỉ cần cố gắng ban ngày làm xong hết mọi việc thì buổi tối sẽ được nghỉ ngơi thôi,” tối đó Anne mệt mỏi dẫn lại câu nói của người xưa trong lúc leo ba bậc cầu thang lên giường nằm ngủ. “Nhưng cứ đợi cho đến khi có người nữa xin mình lời khuyên về chuyện bỏ nhà theo tiếng gọi tình yêu xem!”
Chương 9 (Trích thư gửi Gilbert.)
Tối mai em được mời đến ăn tối cùng với một quý bà ở Summerside. Em biết anh sẽ chẳng tin đâu, Gilbert ạ, nếu em nói với anh rằng bà ấy tên là Tomgallon… Tiểu thư Minerva Tomgallon. Thể nào anh cũng bảo em đọc Dickens [1] quá lâu quá trễ rồi cho xem.
[1] Tom Gallon (1866 – 1914) là nhà văn, nhà soạn kịch người Anh được các nhà phê bình đương đại đánh giá là người bắt chước Dickens.
Anh yêu dấu vô vàn, anh có lấy làm mừng vì anh mang họ Tomgallon không? Em dám chắc em sẽ chẳng bao giờ có thể kết hơn với anh nếu họ của anh là Tomgallon đâu. Cứ thử tưởng tượng mà xem… Anne Tomgallon! Không, anh không tưởng tượng được đâu.
Đây là vinh dự tối cao được ban tặng ở Summerside… một lời mời đến Dinh thự Tomgallon. Nó không có tên gì khác. Với những người mang dòng máu Tomgallon, không có những thứ vớ vẩn như Cây Du, Hạt Dẻ hay Trại Nhỏ.
Theo em hiểu thời xa xưa họ thuộc về “Dòng dõi Hoàng gia”. So với họ thì dòng họ Pringle chỉ là một đám nấm. Và giờ thì cả dòng họ chỉ còn lại bà cô Minerva, người duy nhất sống sót trong sáu thế hệ nhà Tomgallon. Bà ấy sống một mình trong một dinh thự rộng mênh mông trên phố Queen… tòa dinh thự gắn với những ống khói khổng lồ, cửa chớp màu xanh lục và là tòa nhà tư nhân duy nhất trong thị trấn có cửa sổ lắp kính màu. Ngôi nhà rộng đến độ bốn gia đình ở cũng vừa, ấy vậy nhưng chỉ có ba cư dân sống ở đó là bà Minerva, một đầu bếp và một người hầu gái. Ngôi nhà được bảo trì rất chu đáo, nhưng chẳng hiểu sao cứ mỗi lần đi qua nó, em lại có cảm giác tại nơi đây, cuộc sống đã bị lãng quên.
Bà cô Minerva họa hoằn lắm mới ra khỏi nhà, chỉ tới nhà thờ Anh giáo, và mãi vài tuần trước em mới gặp bà ấy lần đầu tiên khi bà ấy tới dự cuộc họp hội đồng giáo viên và ban quản trị nhà trường để trao tặng cho trường thư viện quý giá của cha bà ấy. Trông bà ấy y hệt như hình ảnh anh tưởng tượng về một bà Minerva Tomgallon… dáng người dong dỏng cao, khuôn mặt dài nhỏ nhợt nhạt, cái mũi thon dài và cái miệng vừa dài vừa mỏng. Nghe thì không có vẻ quyến rũ lắm, nhưng bà Minerva vẫn có thể được coi là xinh đẹp với phong thái quý tộc oai nghiêm và lúc nào cũng ăn mặc thanh lịch, quý phái, dẫu rằng có chút lỗi thời. Chị Rebecca Dew từng kể với em rằng hồi trẻ bà ấy cũng là người có nhan sắc, và đến tận bây giờ đôi mắt to đen của bà ấy vẫn rực lửa và đen thăm thẳm. Vốn ngôn ngữ của bà vô cùng phong phú, và quả thực em chưa từng nghe thấy bất kỳ ai trình bày bài diễn văn giới thiệu một cách thú vị đến vậy.
Bà Minerva đặc biệt đối xử rất tốt với em, và hôm qua em nhận được tấm thiệp mời nhỏ nhắn mời em đến ăn tối cùng bà ấy. Khi em kể cho Rebecca Dew biết, chị ấy trợn trừng mắt cứ như thể em được mời đến Cung điện Buckingham vậy.
“Được mời đến Dinh thự Tomgallon là vinh dự lớn lắm đấy,” chị ấy nói với giọng nhuốm mùi kinh sợ. “Tôi chưa bao giờ nghe thấy ai kể trước đây bà cô Minerva đã từng mời bất kỳ vị hiệu trưởng nào. Tất nhiên, họ đều là đàn ông, vậy nên có lẽ mời họ thì cũng không được phù hợp lắm. Chà, tôi hy vọng bà ấy sẽ không thao thao bất tuyệt với cô. Người nhà Tomgallon ai cũng có thể nói đến quên trời quên đất. Và họ thích đi đầu trong mọi việc. Có người cho rằng bà Minerva sống ẩn dật như vậy là vì bây giờ bà ấy đã quá già rồi nên chẳng thể giữ vai trò lãnh đạo như ngày xưa được nữa, và bà ấy sẽ chẳng đời nào đóng vai thứ với bất kỳ ai. Cô sẽ mặc gì đây, cô Shirley? Tôi rất thích cô mặc cái váy sa màu kem với đôi nơ bướm bằng nhung đen ấy. Chiếc váy đó trông mới sang trọng làm sao chứ.” “Em e là nó có phần hơi quá “sang trọng” so với một bữa tiệc tối giản dị,” em nói.
“Tôi đoán là bà Minerva sẽ thích nó cho xem. Người nhà Tomgallon ai cũng thích bạn hữu ăn vận đẹp. Người ta bảo có lần ông của bà Minerva đã đóng sầm cửa lại ngay trước mũi một người phụ nữ được mời đến đó tham gia vũ hội, vì bà đó đến mà lại chỉ mặc bộ trang phục đẹp thứ nhì của mình. Ông ấy bảo bà ấy rằng bộ trang phục đẹp nhất của bà ấy cũng chẳng quá tử tế so với gia đình Tomgallon đâu.” Dẫu vậy, em định sẽ mặc chiếc váy voan màu xanh lá, và các hồn ma của dòng họ Tomgallon sẽ phải cố mà vui vẻ với nó thôi.
Em sẽ thú nhận với anh một chuyện em đã làm tuần trước, Gilbert ạ. Chắc thể nào anh cũng cho rằng em lại can thiệp vào chuyện của người khác. Nhưng em phải làm gì đó. Sang năm em không còn ở Summerside nữa và em không tài nào chịu đựng nổi khi nghĩ rằng mình sẽ để mặc bé Elizabeth phụ thuộc vào lòng nhân từ của hai bà già vốn chẳng biết đến tình yêu thương và mỗi một năm lại thêm cay nghiệt hẹp hòi. Cứ phải ở cùng với bọn họ trong cái chốn cũ kỹ ảm đạm đó thì tuổi thơ của cô bé sẽ ra sao đây? “Em không biết người ta sẽ có cảm giác như thế nào nếu có một người bà không khiến họ sợ hãi,” cô bé rầu rĩ nói với em cách đây không lâu.
Chuyện em làm là thế này: Em viết thư cho cha cô bé. Ông ấy sống ở Paris và mặc dù em không biết địa chỉ nhưng chị Rebecca Dew đã có lần nghe thấy và vẫn nhớ tên công ty mà ông ấy điều hành một chi nhánh ở đó, vậy nên em chớp ngay lấy cơ hội và gửi về địa chỉ đó nhờ họ chuyển hộ cho ông ấy. Em viết một bức thư khách sáo hết mức, nhưng vẫn thẳng thắn nói rằng ông ấy phải chăm lo cho Elizabeth đi. Em kể cho ông ấy biết cô bé khát khao mơ tưởng đến ông ấy như thế nào, và bà Campbell quả thực quá nghiêm khắc khắt khe với cô bé ra sao. Có lẽ thư gửi đi cũng chẳng ích lợi gì, nhưng nếu không viết, em sẽ mãi bị ám ảnh vì luôn cho rằng mình phải làm như vậy.
Em nghĩ đến chuyện này là vì có một hôm Elizabeth nói một cách cực kỳ nghiêm túc với em rằng cô bé đã “viết thư gửi Chúa” xin Người đưa cha cô bé quay lại và hãy khiến cho ông yêu thương cô bé. Cô bé nói trên đường đi học về, cô bé đã dừng lại trên một bãi đất trống và vừa đọc bức thư vừa ngẩng nhìn trời. Em biết cô bé đã làm hành động gì đó kỳ cục, vì bà Prouty đã nhìn thấy màn diễn này và hôm sau lúc đến may cho hai bà góa, bà ấy đã kể lại với em. Bà ấy nghĩ Elizabeth đang càng lúc càng “kỳ quặc”… “nói chuyện với bầu trời như thế chứ”.
Em hỏi Elizabeth về chuyện đó và cô bé đã kể lại cho em nghe.
“Em nghĩ có lẽ Chúa sẽ quan tâm đến một bức thư hơn là một lời cầu nguyện,” cô bé nói. “Em đã cầu quyện quá lâu rồi. Chắc hẳn có nhiều người cầu nguyện với Người lắm.” “Tối đó em đã viết thư cho cha cô bé.
Trước khi dừng bút, em phải kể với anh về Xám Tro. Dạo trước có lần dì Kate bảo em là dì ấy cảm thấy cần phải tìm cho nó một tổ ấm khác vì chị Rebecca Dew cứ ca cẩm mãi về nó, thành ra dì ấy có cảm giác chị ấy sẽ chẳng thể chịu đựng thêm được nữa. Tuần vừa rồi, có một tối em từ trường về nhà thì không thấy Xám Tro đâu. Dì Chatty bảo họ đã mang nó cho bàEdmonds đang sống ở phía bên kia Summerside, cách xa Bạch Dương Lộng Gió ở phía bên này. Em rất buồn vì Xám Tro và em đã rất thân thiết với nhau. “Nhưng, ít ra,” em nghĩ. “chị Rebecca Dew sẽ vui vẻ.” Chị Rebecca đi vắng cả ngày, phải về quê móc thảm giúp một người họ hàng. Chiều tối, lúc chị ấy quay về, chẳng ai nói gì hết, nhưng đến giờ đi ngủ, khi chị ấy gọi Xám Tro từ hiên sau nhà, dì Kate lặng lẽ nói: “Cô không cần gọi Xám Tro đâu, Rebecca. Nó không có đây đâu. Bọn tôi đã tìm được một ngôi nhà khác cho nó rồi. Cô sẽ không còn bị nó làm phiền nữa.” Nếu chị Rebecca Dew mà có thể xanh mét cả người thì chắc hẳn chị ấy đã làm thế rồi.
“Không có ở đây? Tìm được nhà cho nó? Ôi trời ơi! Chẳng phải đây chính là nhà của nó sao?” “Bọn tôi đem nó cho bà Edmonds rồi. Từ hồi cô con gái đi lấy chồng, bà ấy cô đơn lắm và bà ấy nghĩ một con mèo ngoan sẽ giúp bà ấy có bầu có bạn.” Rebecca Dew bước vào nhà và đóng sầm cửa lại. Trông chị ấy có vẻ điên cuồng lắm.
“Đây đúng là giọt nước làm tràn ly mà,” chị ấy nói. Và thật tình có lẽ đúng là thế thật. Em chưa bao giờ chứng kiến mắt chị ấy sáng rực lửa giận như thế. “Đến cuối tháng tôi sẽ đi, bà MacComber ạ, còn nếu bà có thể thích ứng kịp thì sẽ sớm hơn.” “Nhưng, Rebecca,” dì Kate hoang mang nói. “Tôi không hiểu. Cô có bao giờ thích Xám Tro đâu. Mới tuần trước cô còn nói…” “Phải rồi,” Rebecca chua chát nói. “Cứ việc trách móc tôi đi! Đừng có quan tâm đến cảm xúc của tôi làm gì! Con Mèo yêu quý tội nghiệp đó! Tôi đã chăm sóc phục dịch nó, nuông chiều nó, thức dậy giữa đêm để đưa nó vào trong nhà. Thế mà giờ nó lại bị người ta lẳng lặng cuỗm đi không cho tôi hay biết, thậm chí còn chẳng buồn xin phép tôi. Còn Sarah Edmonds ư, cái kẻ sẽ chẳng đời nào mua cho sinh vật đáng thương đó dẫu chỉ một mẩu gan bé bằng con kiến, cho dù nó đang thèm món đó đến chết đi được! Bầu bạn duy nhất tôi có trong bếp!” “Nhưng, Rebecca, lúc nào cô cũng…” “Ôi, cứ tiếp tục đi… tiếp tục đi! Đừng để tôi xen vào một lời nào hết, bà MacComber. Tôi đã nuôi nấng con mèo đó từ hồi nó còn bé xíu… tôi đã chăm sóc nó cả về sức khỏe lẫn tinh thần… và để làm gì chứ! Bà Jane Edmonds đó nên có một con mèo được dạy dỗ tử tế làm bầu bạn. Chà, tôi hy vọng bà ấy sẽ đêm đêm đứng giữa trời sương giá, y như tôi vậy, gọi con mèo đó hàng mấy tiếng đồng hồ, thay vì để nó đóng băng ngoài đó, nhưng tôi ngờ là sẽ chẳng thế đâu… tôi thực sự ngờ là sẽ chẳng thế đâu. Chà, bà MacComber này, tôi chỉ hy vọng là bà sẽ không thấy day dứt lương tâm nếu hôm sau thời tiết xuống dưới âm mười độ nhé. Nếu mà có chuyện đó thì tôi sẽ chẳng chợp mắt nổi đâu, nhưng tất nhiên có làm thế thì cũng chẳng có ai thèm để ý đến một mụ già vô tích sự đâu chứ.” “Rebecca, giá như cô…” “Bà MacComber, tôi không phải đồ giun dế, cũng chẳng phải một tấm thảm để người khác chùi chân. Chà, đây quả là một bài học cho tôi… một bài học đáng giá! Tôi sẽ không bao giờ cho phép mình dành trọn yêu thương cho một con vật nào nữa, bất kể nó thuộc loài nào! Giá mà bà hành động một cách công khai thẳng thắn… chứ không phải lén lút sau lưng tôi… lợi dụng tôi như thế! Tôi chưa từng nghe thấy bất cứ chuyện gì bẩn thỉu đến thế. Nhưng tôi là ai mà dám mong người ta để ý đến cảm xúc của tôi chứ!” “Rebecca,” dì Kate tuyệt vọng nói, “nếu cô muốn Xám Tro quay lại thì chúng tôi có thể đưa nó quay lại mà.” “Sao lúc trước bà không nói như thế?” Rebecca Dew cật vấn. “Và tôi nghi ngờ chuyện đó đấy. Jane Edmonds đã bập móng vuốt vào nó rồi. Lẽ nào bà ta chịu từ bỏ nó sao?” “Tôi nghĩ là bà ấy sẽ chịu thôi,” dì Kate nói, rõ ràng đã nhũn như con chi chi. “Và nếu nó quay lại, cô sẽ không bỏ chúng tôi mà đi nữa chứ, Rebecca?” “Có lẽ tôi sẽ suy nghĩ lại,” Rebecca nói với vẻ mặt như thể đang phải nhượng bộ ghê gớm lắm.
Hôm sau, dì Chatty mang Xám Tro về nhà trong một chiếc giỏ được che chắn cẩn thận. Em thoáng nhìn thấy hai bà dì liếc nhìn nhau sau khi Rebecca đã mang Xám Tro vào trong bếp rồi đóng sầm cửa lại. Khó hiểu thật đấy! Liệu đây có phải một âm mưu được hai bà góa bí mật tỉ mỉ vạch rõ từng đường đi nước bước, với sự hỗ trợ và đồng lõa của Jane Edmonds? Kể từ đó trở đi, chị Rebecca không bao giờ hé môi thốt lên bất cứ lời phàn nàn nào về Xám Tro nữa, và mỗi khi hét gọi nó lúc đến giờ đi ngủ, giọng chị lanh lảnh vang lên lồ lộ ý đắc thắng. Cứ như thể chị muốn toàn thể Summerside biết rõ Xám Tro đã quay lại nơi thuộc về chú ta và rằng chị ấy lại một lần nữa chiến thắng các bà góa!”