Vị thần cuối cùng - Chương 09 Phần 1
9. Hai con rắn cứu cuộc đời tôi.
Tôi yêu thành phố New York. Bạn có thể vọt lên từ Địa ngục ở ngay giữa Central Park, vẫy taxi, xuôi theo Đại lộ Năm cùng với một con chó ngao địa ngục khổng lồ đang chạy theo đằng sau xe bạn, và chẳng có ai nhìn bạn lấy một cái.
Tất nhiên là Màn Sương Mù cũng đã giúp. Mọi người chắc chắn không thể nhìn thấy con O’Leary, hoặc có lẽ họ nghĩ nó là chiếc xe tải kềnh càng, ầm ĩ, rất thân thiện.
Tôi mạo hiểm dùng điện thoại di động của mẹ gọi cho Annabeth lần thứ hai. Tôi đã gọi cho cô ấy một lần lúc ở trong đường hầm, nhưng chỉ liên lạc được với hộp thư thoại. Tôi đã có một sự chào đón đầy ngạc nhiên, liên qu đến việc tôi đang ở trung tâm thần thánh của thế giới và tất cả những gì liên quan đến đó, nhưng tôi không muốn nhìn thấy chi phí sử dụng dịch vụ roaming* của mẹ tôi sẽ phải trả sau này.
* Dịch vụ roaming ra đời cho phép các thuê bao di động khi di chuyển ra khỏi nước họ đang ở mà vẫn duy trì được liên lạc nhận cuộc gọi, nhắn tin... tới các thuê bao khác. Do phải sử dụng hệ thống trung chuyển với đối tác viễn thông nước ngoài để chuyển tiếp cuộc gọi nên roaming được coi là dịch vụ dành cho giới nhà giàu khi cước phí tính cho mỗi cuộc gọi hay nhận tin nhắn đắt gấp đôi thậm chí gấp 3-4 lần so với liên lạc bình thường.
Lần này, Annabeth nhận cuộc gọi.
“Chào,” tôi nói. “Cậu nhận được tin nhắn của tớ không?”
“Percy, cậu đang ở đâu vậy? Tin nhắn của cậu chả nói lên điều gì. Bọn tớ lo chết đi được!”
“Tớ kể ngọn ngành với cậu sau,” tôi nói, mặc dầu tôi sẽ làm chuyện đó như thế nào thì tôi không rõ lắm. “Giờ cậu đang ở đâu?”
“Tụi tớ đang trên đường đi theo như cậu bảo, gần đến Đường hầm Midtown Queens. Nhưng Percy này, cậu đang tính làm gì thế? Tất cả bọn tớ đều ra đi, trại gần như không có người bảo vệ và không đời nào các thần...”
“Tin tớ đi,” tôi nói. “Tớ sẽ gặp cậu ở đó.”
Tôi cúp máy. Hai tay tôi đang run bần bật. Tôi không chắc liệu đây là phản ứng phụ từ việc đầm mình vào trong dòng sông Styx hay linh cảm về những gì tôi sắp làm. Nếu điều này không hiệu quả, việc không thể bị thương sẽ không thể cứu tôi khỏi bị nổ tung thành từng mảnh nhỏ.
Cuối giờ chiều, chiếc taxi thả tôi trước Tòa nhà Empire State. Con O’Leary nhảy nhót ngược xuôi trên Đại lộ Năm, liếm xe taxi và ngửi ngửi các xe bán hotdog. Mọi người dường như chẳng chú ý gì đến nó, mặc dầu mọi người né qua một bên và trông bối rối khi nó đến gần.
Tôi huýt sáo gọi nó đi theo tôi khi ba chiếc xe trắng tấp vào lề. Trên sườn xe sơn hàng chữ Dịch vụ Cung ứng Dâu tây Delphi, tên ngụy trang của Trại Con Lai. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cả ba xe cùng một lúc, mặc dầu tôi biết chúng thay phiên chuyên chở sản phẩm tươi của trại chúng tôi cho thành phố.
Chiếc xe đầu tiên do anh Argus cầm lái. Anh là trưởng nhóm bảo vệ nhiều mắt của trại. Hai chiếc còn lại được lái bởi các nữ yêu quái mình người cánh chim, một loại người lai giữa gà/người bị quỷ ám với tính cách cực kỳ khó chịu. Chúng tôi sử dụng các yêu quái mình người cánh chim phần lớn cho việc quét dọn ở trại, nhưng họ cũng làm khá tốt trong điều khiển phương tiện giao thông trong khu vực trung tâm thành phố.
Các cánh cửa mở ra. Một nhóm các trại viên leo xuống, một vài người trong số họ trông hơi xanh vì chuyến đi dài. Tôi mừng vì có nhiều người đã đến: Pollux, Silena Beauregard, anh em nhà Stoll, Michael Yew, Jake Mason, Katie Gardner và Annabeth, cùng với phần lớn các anh em thuộc nhà của họ. Bác Chiron từ chiếc xe cuối bước xuống. Phần nửa ngựa của bác được gắn chặt vào chiếc xe lăn ma thuật, vì thế bác ấy phải sử dụng bệ nâng dành cho người khuyết tật. Không một ai trong nhà thần Ares có mặt, nhưng tôi cố không quá giận dữ về chuyện đó. Clarisse là một tên ngốc cứng đầu. Hết chuyện.
Tôi thầm đếm trong đầu: bốn mươi trại viên cả thảy.
Không quá nhiều cho một trận chiến, nhưng đây vẫn là một nhóm con lai lớn nhất tôi đã từng thấy tụ tập cùng một nơi bên ngoài trại. Mọi người trông khá sợ hãi, và tôi hiểu lý do cho điều đó. Chúng tôi chắc chắn đã gửi đi quá nhiều mùi á thần đến nỗi mọi con quái vật ở vùng đông bắc Hoa Kỳ đều biết rõ chỗ chúng tôi đang đứng.
Khi tôi nhìn vào gương mặt họ – tất cả những trại viên tôi biết sau quá nhiều mùa hè bên nhau – một giọng nói mè nheo vang lên trong đầu tôi: Một trong số họ là gián điệp.
Nhưng tôi không thể suy nghĩ nhiều quá về chuyện đó. Họ là bạn tôi. Tôi cần họ.
Rồi tôi nhớ đến nụ cười nham hiểm của Kronos. “Mày không thể dựa vào bạn bè. Chúng luôn phụ lòng tin của mày.”
Annabeth đến gần tôi. Cô ấy mặc đồ rằn ri màu đen với con dao bằng đồng celestial đeo trên bắp tay và túi laptop khoác trên vai – sẵn sàng cho cả việc rút dao đâm và lướt mạng Internet, cho dù bất cứ điều gì xảy ra trước.
Cô ấy cau mày. “Có chuyện gì?”
“Có chuyện gì là gì?”
“Cậu đang nhìn tớ là lạ.”
Tôi nhận ra tôi đang nghĩ đến cảnh mộng kỳ lạ của tôi về việc Annabeth kéo tôi ra khỏi Sông Styx. “Là, ừm, không có gì.” Tôi quay sang các trại viên còn lại trong nhóm. “Cám ơn vì đã đến, các cậu. Bác Chiron, mơ bác đi trước!”
Người cố vấn già của tôi lắc đầu. “Ta đến chỉ để chúc cháu may mắn, cậu bé của ta. Nhưng bác đã tự hứa là nếu không có lệnh triệu tập, bác sẽ không bao giờ đến đỉnh Olympus.”
“Nhưng bác là chỉ huy của bọn cháu.”
Bác ấy mỉm cười. “Ta là thầy giáo, là huấn luyện viên của các cháu. Điều đó không giống với việc là người chỉ huy các cháu. Ta sẽ đi tập hợp thêm các đồng minh ta có thể. Giờ chắc cũng không quá muộn để thuyết phục các người anh em nhân mã của bác đến giúp một tay. Với lại, cháu đã gọi các trại viên đến đây, Percy. Cháu mới là người chỉ huy.”
Tôi muốn phản đối, nhưng mọi người lại đang nhìn tôi đầy hy vọng, kể cả Annabeth.
Tôi hít thật sâu. “Được rồi, như tớ đã nói chuyện qua điện thoại với Annabeth, có điều gì đó nguy hại sẽ xảy ra vào tối nay. Một loại bẫy nào đó. Chúng ta sẽ phải tiếp kiến thần Zeus và thuyết phục ông ấy bảo vệ thành phố. Hãy nhớ, chúng ta không thể có câu trả lời là Không.”
Tôi nhờ anh Argus trông chừng con O’Leary, và cả hai đều không vui vì điều đó.
Bác Chiron bắt tay tôi. “Cháu sẽ làm tốt, Percy. Hãy nhớ về các mặt mạnh và thận trọng với các điểm yếu của cháu nhé.”
Điều bác ấy nói giống hệt như lời Achilles dặn tôi. Rồi tôi nhớ ra bác Chiron đã từng dạy Achilles. Điều đó chính xác không mang lại cho tôi sự tự tin, nhưng tôi gật đầu và cố mỉm cười đầy tự tin với bác ấy.
“Chúng ta đi thôi.” tôi nói với các trại viên.
Một nhân viên an ninh ngồi phía sau một cái bàn ở sảnh, đang đọc một cuốn sách đen lớn có hình một bông hoa trên trang bìa. Anh ta ngước lên khi tất cả chúng tôi đi vào cùng với các loại vũ khí và tiếng kêu lách cách của áo giáp. “Một nhóm học sinh sao? Sắp đến giờ đóng cửa rồi.”
“Không,” tôi đáp. “Tầng sáu trăm.”
Anh ta chăm chú nhìn chúng tôi. Đôi mắt anh ta có màu xanh nhạt và đầu thì hói bóng lưỡng, không̣i tóc. Tôi không thể nói anh ta là người hay là không nữa, nhưng anh ta dường như nhận ra các vũ khí của chúng tôi, vì thế tôi đoán anh ta không bị Màn Sương Mù lừa.
“Không có tầng sáu trăm, nhóc.” Anh ta nói như thể không tin về tầng mà chúng tôi yêu cầu. “Đi chỗ khác chơi.”
Tôi nhoài người lên mặt quầy. “Bốn mươi á thần đủ thu hút đủ các loại quái vật khủng khiếp. Anh thực sự muốn bọn em đứng lãng vãng trong phòng đợi của anh sao?”
Anh ta nghĩ nghĩ về điều đó. Sau đó anh ta nhấn nút và cánh cửa an ninh mở rộng ra. “Vào nhanh đi.”
“Anh không muốn bọn em đi qua máy dò kim loại,” tôi thêm vào.
“Ừm, không,” anh ta đồng ý. “Thang máy bên phải nhé. Tôi cho là cậu biết rõ.”
Tôi ném cho anh ta một đồng vàng drachma và chúng tôi lần lượt theo nhau đi vào.
Chúng tôi quyết định sẽ chia thành hai nhóm để đưa hết được mọi người lên bằng thang máy. Tôi đi cùng nhóm thứ nhất. Nhạc trong thang máy đã được đổi thành bản disco cổ xưa Stayin’ Alive kể từ lần cuối cùng ghé đến đây của tôi. Một hình ảnh khiếp sợ lóe lên trong đầu tôi, đó là hình ảnh thần Apollo mặc quần ống loe và áo sơ mi lụa bó sát.
Tôi vui mừng khi các cánh cửa thang máy cuối cùng cũng mở ra. Trước mặt chúng tôi, một con đường với các phiến đá xuyên qua các đám mây, dẫn đến đỉnh Olympus, đang trôi lơ lửng khoảng gần hai ngàn mét phía trên Manhattan.
Tôi đã nhìn thấy đỉnh Olympus một vài lần, nhưng nó vẫn khiến tôi thấy ngạc nhiên. Các dinh thự trắng và vàng lấp lánh tựa vào các bên của ngọn núi. Các khu vườn khoe sắc rực rỡ ở một trăm mái hiên. Làn khói hương tỏa ra từ các lò than lấp đầy các con đường uốn lượn quanh co. Và ngay phía trên đỉnh núi phủ đầy tuyết là cung điện chính của các vị thần. Nó trông vẫn tráng lệ như vốn có, nhưng có thứ gì đó không đúng. Rồi tôi nhận ra ngọn núi hoàn toàn im lặng – không âm nhạc, không tiếng nói, không một tiếng cười.
Annabeth nhìn tôi đăm đăm. “Cậu trông... khang khác,” cô ấy nhận xét. “Chính xác là cậu đã đi đâu?”
Cửa thang máy lại mở và nhóm con lai thứ hai gia nhập vào nhóm của bọn tôi.
“Sẽ kể cho cậu sau,” tôi nói. “Đi thôi.”
Chúng tôi đi băng qua cây cầu trên không đi vào các con đường của đỉnh Olympus. Các quầy hàng đều đóng cửa. Các công viên vắng tanh. Hai Nàng Thơ ngồi trên ghế dài đang gảy đàn lia, nhưng tâm trí họ để tận đâu đâu. Một Cyclops cô độc quét đường với một cây sồi nhổ bật rễ. Một tiểu thần nhìn thấy chúng tôi từ một ban công và nhanh chóng lùi lại, đóng tất cả các cửa chớp của nhà mình lại.
Chúng tôi đi băng qua bên dưới một cổng vòm bằng đá hoa cương lớn với các bức tượng của thần Zeus và nữ thần Hera ở mỗi bên. Cô ấy nhăn mặt làm trò với nữ hoàng của các vị thần.
“Ghét bà ta,” cô lầm bầm.
“Bà ta vẫn còn nguyền rủa cậu hay làm điều gì đó với cậu sao?” tôi hỏi. Năm ngoái, Annabeth đã để lại ấn tượng xấu với nữ thần Hera, nhưng Annabeth đã thật sự không nói nhiều về chuyện đó.
“Chỉ là những chuyện vặt vãnh không hơn,” cô ấy nói. “Con vật linh thiêng của bà ta là con bò, đúng không?”
“Đúng thế.”
“Bà ta cho lũ bò đuổi theo tớ.”
Tôi cố nín cười. “Các con bò? Ở San Francisco?”
“Ừm, đúng thế. Thường thì tớ không thấy chúng, nhưng chúng đã để lại cho tớ các món quà nhỏ khắp mọi nơi – ở sân vườn sau nhà tớ, trên vỉa hè, trong các hành lang ở trường. Tớ phải thật cẩn thận mỗi khi bước đi.
“Nhìn kìa!” Pollux hét lên, chỉ tay về phía chân trời. “Đó là cái gì?”
Tất cả chúng tôi đứng sững lại. Các ánh chớp xanh đang tỏa ra khắp bầu trời đêm về phía đỉnh Olympus như các sao chổi nhỏ tí xíu. Chúng dường như xuất hiện từ khắp nơi trong thành phố, hướng thẳng về phía ngọn núi. Khi đến gần, chúng phát ra âm thanh xèo xèo. Chúng tôi nhìn chằm chằm chúng trong một vài phút và chúng dường như vô hại, nhưng nó vẫn rất kỳ lạ.
“Như tầm ngắm tia hồng ngoại,” Michael Yew thì thầm. “Chúng ta đều nằm trong tầm ngắm.”
“Chúng ta đi vào trong lâu đài thôi,” tôi giục.
Không ai canh gác đại sảnh của các vị thần. Những cánh cửa bằng vàng và bạc mở toang. Tiếng bước chân của chúng tôi vang vọng khi chúng tôi bước vào phòng ngai.
Tất nhiên, “phòng” không phải từ đúng miêu tả nó. Nơi này có kích thước của nhà thi đấu Madison Square Garden. Tít trên cao là trần nhà màu xanh tỏa sáng lấp lánh với các chòm sao. Mười hai chiếc ngai khổng lồ trống rỗng được sắp đặt theo hình chữ U quanh bếp lửa. Trong một góc phòng, một quả cầu nước có kích thước của một ngôi nhà trôi lơ lửng giữa không trung, và vui sướng bơi lội bên trong là anh bạn cũ Ophiotaurus – nửa bò nửa rắn của tôi.
“Moooo!” nó kêu lên và chuyển động quay tròn đầy vui vẻ.
Bất chấp tất cả những chuyện nghiêm trọng đang diễn ra, tôi bật cười. Hai năm trước đây chúng tôi đã mất rất nhiều thời gian để cứu Ophiotaurus khỏi tay các thần Titan, và tôi đã rất mến nó. Nó dường như cũng mến tôi, dù lúc đầu tôi cứ tưởng nó là con gái và đã đặt tên cho nó là Bessie.
“Này, anh bạn,” tôi nói. “Họ đối xử với cậu vẫn tốt chứ?”
“Mooo.” Bessie kêu lên đồng ý.
Chúng tôi đi về phía các ngai và giọng một người phụ nữ vang lên: “Chào lần nữa, Percy Jackson. Ngươi và các bạn ngươi cứ tự nhiên.”
Nữ thần Hestia đứng bên bếp lửa, đang cời lửa bằng một cây gậy. Nữ thần mặc cùng một kiểu áo đầm màu nâu đơn giản, nhưng giờ bà ấy lại là một người phụ nữ trưởng thành.
Tôi cúi đầu. “Nữ thần Hestia.”
Các bạn tôi đều làm theo tôi.
Nữ thần nhìn tôi chăm chú với đôi mắt cháy đỏ. “Ta thấy ngươi đã hoàn thành kế hoạch của mình. Ngươi đã chấp nhận lời nguyền của
Các trại viên khác bắt đầu thì thầm với nhau: Nữ thần đã nói gì? Chuyện về Achilles là sao nhỉ?
“Ngươi phải cẩn thận,” nữ thần Hestia cảnh báo tôi. “Ngươi đã gặt hái nhiều thành công trên con đường của mình. Nhưng ngươi vẫn không nhìn thấy được sự thật quan trọng nhất. Có thể một cái nhìn thoáng qua là hợp lệ.”
Annabeth huých vào người tôi. “Ừm... nữ thần đang nói về chuyện gì vậy?”
Tôi nhìn chằm vào mắt nữ thần Hestia và một hình ảnh chợt hiện ra trong tâm trí tôi: Tôi nhìn thấy một con hẻm tối tăm ở giữa các kho hàng xây bằng gạch đỏ. Tấm biển phía trên một trong các cánh cửa đề: Xưởng Sắt Richmond.
Hai con lai ẩn mình trong bóng tối – một cậu bé khoảng mười bốn tuổi và một bé gái khoảng mười hai tuổi. Tôi nhận ra ngay cậu bé trai là Luke. Cô bé gái là Thalia, con gái thần Zeus. Tôi đang nhìn thấy cảnh quay trở lại những ngày khi họ bỏ nhà ra đi, trước khi Grover tìm ra họ.
Luke mang theo một cây dao bằng đồng. Thalia đã có ngọn giáo và cái khiên của sự khiếp sợ, Aegis. Cả Luke và Thalia đều trông đói khát và gầy còm, với đôi mắt của loài thú hoang dã, như thể họ quen với việc bị tấn công.
“Anh chắc không?” Thalia hỏi.
Luke gật đầu. “Có thứ gì đó ở bên dưới. Anh cảm nhận được nó.”
Một tiếng động lớn vọng ra từ con hẻm, như thể ai đó vừa đập mạnh vào một tấm kim loại. Hai con lai rón rén đi về phía trước.
Các thùng cũ xếp thành chồng ở một khu vực bốc dỡ hàng. Thalia và Luke tiến lại gần với vũ khí sẵn sàng trên tay. Một bức màn tôn lượn sóng rung lên như thể có thứ gì đó phía sau nó.
Thalia liếc nhìn Luke. Cậu ta đếm thầm: một, hai, ba! Cậu ta kéo tấm tôn ra và một bé gái nhỏ cầm búa xông thẳng vào hắn ta.
“Òa!” Luke nói.
Cô bé có mái tóc vàng rối bời và đang mặc bộ pyjama bằng vải lanh. Tuy mới chỉ lên bảcùng, nhưng nếu Luke không phản ứng nhanh hơn người, cô bé đã đập vỡ sọ hắn.
Luke tóm chặt cổ tay cô bé. Chiếc búa văng ra, trượt ngang trên nền xi măng.
Cô bé gái đấm và đá. “Không thêm yêu quái nào nữa! Cút đi!”
“Được rồi!” Luke phải vất vả mới ôm chặt cô bé. “Thalia, cất khiên của em đi. Em làm cô bé sợ!”
Thalia vỗ nhẹ cái khiên Aegis và nó thu lại vào trong chiếc vòng đeo tay bằng bạc. “Này, mọi việc ổn cả,” cô ấy nói. “Anh chị sẽ không làm hại em đâu. Chị là Thalia. Còn đây là anh Luke.”
“Yêu quái!”
“Không đâu,” hắn cam đoan. “Nhưng bọn anh biết rõ về các tên quái vật. Bọn anh cũng đã đánh nhau với chúng nữa.”
Dần dần, cô bé ngừng không đá đấm gì nữa. Cặp mắt xám to tròn thông minh chăm chú nhìn Luke và Thalia.
“Hai người giống em?” cô bé hỏi đầy ngờ vực.
“Đúng vậy,” Luke đáp. “Chúng ta... ừm, hơi khó giải thích, nhưng chúng ta là các chiến binh diệt yêu quái. Gia đình em ở đâu?”
“Gia đình em ghét em,” cô bé nói. “Họ không muốn em. Em đã bỏ nhà đi.”
Thalia và Luke nhìn nhau. Tôi biết cả hai người họ đều hiểu những gì cô bé đang nói.
“Nhóc tên gì?”
“Annabeth.”
Luke mỉm cười. “Tên dễ thương đấy. Anh nói với em điều này nhé, Annabeth – em thật là dũng cảm. Bọn anh có thể dùng một chiến binh như em.”
Mắt Annabeth mở to háo hức. “Anh có thể làm thế sao?”
“Ờ, đúng thế.” Luke xoay cây dao của mình lại và chìa cán dao về phía cô bé. “Em thích vũ khí giết chết một con quái vật thật sự như thế nào? Đây là đồng celestial. Hiệu quả hơn nhiều so với dùng búa
Trong phần lớn các tình huống, việc đưa dao cho một đứa bé bảy tuổi sẽ không phải là một ý kiến hay, nhưng khi bạn là con lai, thì các nguyên tắc thông thường lại không được xem xét đến. Annabeth nắm chặt cán dao.
“Các con dao chỉ dành cho các chiến binh dũng cảm nhất, nhanh nhẹn nhất,” Luke giải thích. “Chúng không có tầm với hay sức mạnh của một thanh kiếm, nhưng chúng dễ dàng giấu đi và chúng có thể tìm thấy các điểm yếu trên áo giáp kẻ thù của em. Chỉ có chiến binh thông minh mới sử dụng được dao. Anh có cảm giác là em khá là thông minh.”
Annabeth nhìn hắn ta với sự tôn sùng. “Em biết!”
Thalia cười. “Tốt hơn hết chúng ta nên đi thôi, Annabeth. Bọn chị có một ngôi nhà ở an toàn ở James River. Bọn chị sẽ lấy cho em một ít quần áo và đồ ăn.”
“Hai người... hai người sẽ không mang em quay về lại nhà đúng không?” cô bé nói. “Hứa nhé?”
Luke đặt tay lên vai cô bé. “Giờ em là một thành viên trong gia đình của chúng ta. Và anh hứa sẽ không để bất cứ điều gì làm hại đến em. Anh sẽ không bỏ rơi em như gia đình của chúng ta đã làm với chúng ta. Thỏa thuận nhé?”
“Thỏa thuận!” Annabeth nói đầy vui vẻ.
“Giờ thì đi thôi,” Thalia giục. “Chúng ta không thể ở lại đây quá lâu!”
Cảnh thay đổi. Cả ba á thần đang chạy xuyên qua các cánh rừng. Đây chắc là một vài ngày sau, thậm chí nhiều tuần sau lần gặp đầu tiên. Cả ba người họ trông mệt lử như họ vừa trải qua một vài trận chiến. Annabeth mặc quần áo mới – quần jeans và một chiếc áo khoác quân phục to quá khổ.
“Chỉ thêm một chút nữa thôi!” Luke cam đoan. Annabeth trượt chân và hắn ta đã chộp được tay cô bé. Thalia đã lấy cây giáo ra, khua khua cái khiên như thể cô ấy đang đẩy lùi bất cứ thứ gì đuổi theo họ. Cô ấy đang bị thương ở chân trái.
Họ trèo lên một mỏm đá và nhìn xuống căn nhà kiểu thuộc địa màu trắng – nhà bà May Castellan.
“Được rồi,” Luke vừa nói vừa thở hổn hển. “Anh sẽ lẻn vào, lấy ít đồ ăn, thuốc men. Chờ ở đây.”
“Luke, anh chắc không?” Thalia hỏi. “Anh đã thề sẽ không bao giờ quay về đây nữa mà. Lỡ bà ấy bắt được anh...”
“Chúng ta không có lựa chọn!” hắn ta càu nhàu. “Chúng đã đốt căn nhà an toàn gần nhất của chúng ta. Em cần phải chữa vết thương ở chân trái.”
“Đây là nhà anh sao?” Annabeth nói với sự kinh ngạc.
“Đó đã từng là nhà anh,” Luke lẩm bẩm. “Tin anh đi, nếu phải trường hợp khẩn cấp thì...”
“Mẹ anh thật sự đáng ghét đến thế sao?” Annabeth hỏi. “Chúng ta có thể gặp bà ấy không?”
“Không!” Luke nói cộc lốc.
Annabeth bước lùi lại, tránh khỏi Luke, như thể sự tức giận của hắn ta khiến cô sửng sốt.
“Anh... anh xin lỗi,” hắn ta nói. “Chờ anh ở đây nhé. Anh hứa mọi chuyện sẽ ổn thôi. Sẽ không có gì làm tổn hại đến cả hai đứa. Anh sẽ quay lại...”
Một ánh sáng vàng chói lọi chiếu sáng cả khu rừng. Ba á thần nhăn mặt, và giọng một đàn ông ồm ồm vang lên. “Ngươi không nên quay về nhà.”
Cảnh mộng vụt tắt.
Đầu gối tôi oằn xuống, nhưng Annabeth đã tóm được tôi. “Percy! Chuyện gì đã xảy ra thế?”
“Cậu... cậu có nhìn thấy chuyện đó không?” tôi hỏi.
“Thấy gì cơ?”