Cuộc Lữ Hành Kỳ Diệu Của Nilx Holyerxon Qua Suốt Nước Thụy Điển - Chương IV - Phần 1 - 2 - 3

Chương IV - Phần 1: Gliminyêhux

Chuột đen và chuột xám

Miền Nam tỉnh Xkônê, không xa biển, có một tòa lâu đài cổ gọi là Gliminyêhux: lâu đài chỉ có một toàn nhà bằng đá, cao, rộng, kiên cố, trong đồng bằng, ở cách xa nhiều dặm vẫn trông thấy. Lâu đài không quá bốn tầng, nhưng trông đồ sộ đến nỗi một cái nhà bình thường xây trong sân có vẻ như một cái nhà búp bê.

Những bức tường ngoài, những bức tường trong và những mái vòm của lâu đài dày đến nỗi trong lòng nhà chẳng còn mấy chỗ cho các thứ khác. Các thang gác thì hẹp, các gian xép thì nhỏ, các phòng lại ít. Để cho các bức tường được hết sức vững chắc, chỉ có một ít cửa sổ được trổ ở những tầng trên; tầng dưới cùng chẳng có chiếc nào, mà chỉ có những lỗ hơi rất hẹp. Trong những thời chinh chiến xưa kia, người ta bằng lòng được giam mình trong một tòa nhà kiên cố và đồ sộ như vậy, cũng như ngày nay người ta vui lòng được khoác một chiếc cầu ao giữa mùa đông. Nhưng khi thời bình tốt lành đến thì họ không muốn sống trong những buồng bằng đá âm u và lanh lẽo của tòa lâu đài cổ nữa. Đã từ lâu, họ bỏ lâu đài Gliminyêhux rộng lớn để đến những ngôi mà ánh sáng và khí trời dễ lưu thông.

Vào thời mà Nilx Hôlyerxôn lang thang đây đó với những con ngỗng trời thì chẳng có một con người nào ở Gliminyêhux, tuy lâu đài chẳng thiếu kẻ cư trú. Trên nóc nhà, mùa hè đến, một đôi vợ chồng sếu chiếm một tổ rộng; trong kho thóc sống hai con cú mèo. Những con dơi treo mình trong những chỗ ngách kín bí mật giữa các bức tường; một con mèo già đến ở trong lò sưởi nhà b; và dưới tầng hầm thì có vài trăm con chuột thuộc giống chuột xưa màu đen.

Giống chuột vốn không được các loài vật khác quý trọng lắm, nhưng những chuột đen ở Gliminyêhux lại là ngoại lệ. Người ta nhắc đến chúng bao giờ cũng với lòng kính trọng, vì chúng đã tỏ ra rất dũng cảm trong các cuộc chiến đấu với kẻ thù, và có một sức chịu đựng rất lớn sau những nỗi bất hạnh đã giáng xuống tộc đoàn của chúng. Chúng thuộc một tộc đoàn chuột, xưa kia rất đông và rất mạnh, nhưng nay đang chết dần chết mòn. Bao nhiêu năm ròng, nhưng chuột đen đã làm chủ tỉnh Xkônê và cả xứ. Người ta gặp chúng trong tất cả các tầng hầm, nhà kho, các vựa thóc và các sân phơi, các kho thực phẩm và các xưởng làm bánh mì, các chuồng bò và các tàu ngựa, các nhà thờ và lâu đài, các nhà xay bột và xưởng cất rượu, trong tất cả mọi công trình do con người xây dựng; nhưng bây giờ thì chúng bị đánh đuổi khắp nơi và gần như là tuyệt chủng. Lác đác đó đây ở những nơi hẻo lánh và hoang vắng, hạn hữu người ta mới trông thấy một vài con; nhưng ở Gliminyêhux thì chúng còn lại khá đông.

Khi mà một tộc đoàn giống vật đã mất đi thì nói chung là chính tại con người nhưng trường hợp này thì không phải như vậy. Dĩ nhiên là con người đã đánh giết bọn chuột đen, nhưng không thể làm chúng tổn hại nhiều lắm. Những kẻ đã đánh bại chúng là một tộc đoàn những đồng loại với chúng, những con chuột xám.

Những con chuột xám này không phải đã định cư trong xứ từ thuở xưa chẳng ai nhớ là bao giờ như lũ chuột đen. Chúng là con cháu của vài dân di thực khốn khổ, trước đây độ trăm năm đã từ một chiếc tàu thủy ở Luybeek đổ bộ lên Malmơ. Chúng là những kẻ nghèo khổ tội nghiệp, đói khát, không cửa không nhà, sống lay lắt ngay trong cảng, bơi lội giữa những cọc nhà sàn trên mặt nước, dưới những gầm cầu, và cống nhỏ những thứ rửa nát hôi thối người ta vứt xuống nước. Chúng chẳng bao giờ dám liều thân mò vào thành phố do giống chuột đen chiếm giữ.

Tuy nhiên, dần hồi số lượng chuột xám tăng lên, chúng trở nên táo bạo hơn. Để bắt đầu, chúng đến ở trong mấy căn nhà cũ, hoang phế mà chuột đen đã bỏ đi. Chúng kiếm cái ăn quanh những rãnh nước và những rác rưởi, và nhặt nhạnh tất cả những thứ vun vãi mà lũ chuột đen không thèm. Chúng có sức chịu đựng, yên tâm với cảnh bần hàn và rất táo bạo. Chỉ ít năm là chuột xám đủ đông để đánh đuổi chuột đen khỏi Malmơ. Từng bước, từng bước chúng cướp của chuột đen những vựa lúa, những nhà hầm và những kho tàng; vây cho chuột đen đói, buộc phải đầu hàng, hoặc giết chết vì chuột xám vốn không sợ đánh nhau.

Chiếm được Malmơ rồi chuột xám từng đàn nhỏ, đi chinh phục cả nước. Cũng khó hiểu là tại sao giống chuột đen lại không tập hợp nhau lại để diệt hết chuột xám trong một cuộc chiến tranh lớn trước khi bọn này đông lên quá sức. Có lẽ chuột đen quá tin ở nền thống trị của chúng đế nỗi không nghĩ được rằng chúng có thể bị tước mất quyền lực. Chúng cứ ở yên trong các lãnh địa, trong khi chuột xám cướp của chúng hết trại này, hết thôn này đến trại, thôn khác; hết thành phố này đến thành phố khác. Chúng phải nhượng bộ từng bước, từng bước vì bị vây hãm vào cảnh đói kém, bị săn đuổi, bị tiêu diệt. Trong tỉnh Xkônê, chúng chỉ còn giữ lại được một tòa thành Gliminyêhux.

Tòa lâu đài cổ này có những bức tường thật kiên cố và lối đi xuyên qua các tường lại rất ít, nên giống chuột đen giữ được đường vào. Năm này qua năm khác, đêm nọ qua đêm kia, cuộc chiến đấu cứ kéo dài giữa những kẻ giữ thành và những kẻ vây thành; chuột đen canh phòng cẩn mật và chiến đấu với tinh thần coi thường cái chết đến cao độ; nhờ tòa lâu đài cổ, chúng đã chiến thắng.

Phải nói thật rằng trong thời hùng cường của chúng, bọn chuột đen cũng đã tất cả các sinh linh khác thù ghét chẳng kém gì chuột xám ngày nay, và thế là có lý do. Chúng đã tấn công những người từ khốn khổ bị xiềng xích trong ngục tối, chúng đã tham tàn nhai ngấu nghiến những xác chết, chúng đã ăn trộm đến củ cải cuối cùng trong tầng hầm nhà người nghèo khổ, chúng đã cắn chân những con ngỗng đang ngủ, tàn phá các ổ gà mái, cướp đi nào trứng nào gà con; tóm lại, chúng đã phạm muôn nghìn tội ác. Nhưng từ khi chúng sa vào cảnh bất hạnh, mọi việc như đã được quên đi, và người ta không thể không thán phục những con cuối cùng của giống nói cũng đã bám trụ vững vàng, chống kẻ thù được lâu dài đến thế.

Những con chuột xám vẫn ở trang viên Gliminyêhux và các cánh đồng vùng lân cận, vẫn tiếp tục cuộc chiến tranh, rình cơ hội chiếm tòa lâu đài. Hình như chúng có thể để yên cho cái bộ lạc chuột đen bé nhỏ ở Gliminyêhux vì bây giờ chúng đã chiếm được cả phần đất nước còn lại rồi, nhưng ý của chúng tuyệt nhiên chẳng phải như thế. Chúng nói rằng việc đánh bại những con chuột đen đối với chúng là một điểm danh dự; nhưng những ai hiểu chúng, đều biết rằng bọn chuột xám mà nóng lòng muốn đánh chiếm chỗ này đến thế là chỉ đơn giản vì con người đã dùng Gliminyêhux làm kho chứa các loại.

Phần 2: Con Sếu

Một buổi sáng, vào lúc tinh mơ, những con ngỗng trời đang đứng trên tảng băng ở hồ Vômbsơ, thì được những tiếng kêu, giọng rất cao, từ trên trời vang xuống đánh thức dậy: "Tơrirôn! Tơrirôp! Tơrianutê, chim hạc xin chào ngỗng trời và cả đàn. Nó báo cho Akka biết rằng ngày mai là hội múa lớn của chim hạc Kullabêy".

Akka liền vươn cổ lên đáp: "Xin chào và xin cám ơn!"

Đàn chim hạc lại bay tiếp, nhưng đàn ngỗng trời vẫn nghe tiếng chúng vẫn còn kêu gọi và báo tin trên các cánh đồng và rừng cây: "Tơrianutê loan báo rằng ngày mai là ngày hội múa chim hạc ở Kullabêy".

Đàn ngỗng trời rất vui thích vì được tin này.

- "May cho anh, chúng bảo con ngỗng đực trắng to, anh được xem hội múa lớn của chim hạc"

- Được xem hạc múa đến thế cơ à? Ngỗng đực hỏi

- Đó là cái mà anh nằm mơ cũng chẳng thể thấy được - các con ngỗng trả lời.

- Ta phải nghĩ xem có thể làm cách nào ngày mai, để không xảy ra bất hạnh gì trong lúc chúng ta đi Kullabêy, Akka nói.

- Tí Hon sẽ ở lại một mình, ngỗng đực đáp. Nếu chim hạc không cho phép cậu ấy xem họ múa thì tôi cũng sẽ không đi nữa.

- Chưa từng có một con người nào đã được dự cuộc họp mặt của các loài vật ở Kullabêy cả, Akka nói. Và ta sẽ không dám dẫn Tí Hon đến đó. Nhưng sau ta sẽ bàn bạc lại chuyện ấy. Giờ thì phải nghĩ đến việc có cái gì ăn đã.

Akka hạ lệnh khởi hành. Lần này nữa nó dẫn đàn đi ăn rất xa, vì sợ Xmirê, con cáo; và đàn ngỗng chỉ đỗ xuống cánh đồng lầy ở phía Nam Gliminyêhux.

Suốt cả ngày, Nilx ngồi bên bờ một cái ao nhỏ, thổi ống sậy chơi. Chú cáu vì người ta không muốn đem chú đi xem hội múa chim hạc, và chú chẳng nói năng gì với ngỗng đực, cũng như với các con ngỗng kia. Chú giận vì Akka không tin chú. Khi một đứa con trai đã từ chối không trở lại làm người để cùng đi với những con ngỗng trời khốn khổ thì chúng phải hiểu rõ rằng nó không có ý muốn nào phản lại chúng chứ; khi nó đã hi sinh tất cả để đi theo chúng thì bổn phận chúng là phải cho nó xem tất cả những gì lạ lùng có thể xem được chứ. "Phải nói cho họ biết ý nghĩ của mình!". Chú làu bàu lẩm nhẩm thế. Nhưng hàng tiếng đồng hồ trôi qua mà chú vẫn không thể nói được ý đó. Điều này có thể như là lạ lùng, song chú cũng cảm thấy một nỗi kính trọng đối với ngỗng già đầu đàn. Người ta chẳng ai chống lại ý muốn của Akka cả.

Viền một bên cánh đồng cỏ lầy, nơi đàn ngỗng đang kiếm ăn, là một bức tường đá xếp khá rộng. Thế là buổi tối, khi chú bé ngẩng đầu lên định nói với Akka thì mắt chú bỗng nhìn lên bức tường ấy. Chú thốt lên một tiếng kêu nhỏ và kinh ngạc, và tất cả các con ngỗng đều ngước mắt lên cùng nhìn về phía với chú. Thoạt đầu là người ta có thể nói là những hòn cuội màu xám dùng để dựng bức tường đều có chân và đang chạy, nhưng chẳng bao lâu chúng thấy rằng đó là những đàn chuột đang chạy trên mặt tường. Chúng phi rất nhanh, hàng ngũ chúng dày và đông đến nỗi che kín cả hốc tường một lúc lâu.

Khi còn là một chú con trai cao lớn và khỏe manh, Nilx cũng đã sợ chuột rồi. Bây giờ lại càng tệ hơn, chú bé nhỏ đến nỗi hai hay ba con chuột cống cũng đủ đánh bạt chú. Chú thấy rùng mình suốt sống lưng. Lạ thay, những con ngỗng hình như cũng sợ lũ chuột như chú. Chúng chẳng nói gì với lũ chuột và khi lũ chuột đã đi qua hết, chúng liền giũ thân hình tựa hồ lông của chúng bị lấm bùn vậy.

"Bên ngoài có biết bao nhiều là chuột xám! Uykxi ở Vaxxiaurê nói không phải là điềm tốt"

Nilx nghĩ đây là lúc thuận tiện để nói với Akka là phải để cho chú cùng đến Kullabêy với đàn ngỗng, nhưng một con chim rất to vừa bay đến làm chú không nói được.

Nhìn con chim người ta có thể nói là nó đã mượn thân hình, cái cổ và cái đầu của một con ngỗng trắng nhỏ. Nhưng thêm vào, nó lại còn kiếm được đôi cánh to màu đen, đôi chân cao màu đỏ và một chiếc mỏ dài, dày, quá to so với cái đầu nhỏ của nó; cái mỏ rất nặng này làm cho đầu nó gục về phía trước, đem đến cho nó cái vẻ tư lự và âu sầu.

Akka vội xếp lại những chiếc lông to ở đôi cánh mình, gật cổ chào nhiều lần, và tiến lên đón con sếu Akka không quá ngạc nhiên thấy sếu đã về Xkônê rồi, vì biết rằng mùa xuân đến thì những chim trống về đến nơi rất sớm; chúng về để cho chắc là chiếc tổ đã không bị quá hư hại trong mùa đông, trước khi những con mái chịu cất công vượt biển Baltika. Nhưng mà Akka ngạc nhiên vì thấy con sếu đến gặp mình, loại sếu nói chung vốn chỉ đi lại với những kẻ cũng nói giọng với chúng mà thôi.

"Mong rằng cái tổ của ông không đến nỗi hư hỏng gì, ông Hramenrich ạ", Akka nói.

Một lần nữa, hình như người ta không nói dối khi xác nhận rằng một con sếu không thể há mỏ mà không kêu rên được. Con này hình như lại còn rên rỉ hơn nữa, vì nó thấy rất khó khăn khi phải phát ra một tiếng, nó lập cập làm cái mỏ kêu lạch cạch một lúc khá lâu, rồi mới nói được với cái giọng khàn khàn và yếu ớt. Nó than vãn đủ điều nào là cái tổ ở trên lâu đài Gliminyêhux đã bị những cơn bão mùa đông làm hỏng nhiều, nào là thời buổi này ở Xkônê chẳng còn cách nào tìm ra một thứ gì ăn được nữa. Người dân tỉnh Xkônê càng ngày càng chiếm đoạt hết các của cải của nó, họ làm khô cạn những cánh đồng cỏ thấp của nó và trồng trọt lên những đầm lầy của nó. Nó tính sẽ bỏ xứ này, đi không trở lại nữa.

Trong lúc than vãn thì Akka, ngỗng trời, dù không tìm đâu ra được nơi che chở và trú ẩn, cũng không thể nghĩ thầm: "Ông Hramenrich ạ, nếu tôi được sung sướng như ông mà còn than phiền thì tôi sẽ xấu hổ lắm. Ông vẫn là con chim trời tự do, nhưng ông lại có quan hệ tốt với giống người lắm, nên chẳng ai bắn ông một phát súng hay lấy trộm ở tổ ông một quả trứng nào". Nhưng Akka giữ kín những ý nghĩ ấy, không nói ra, chỉ nói là không thể tin được gia đình sếu đã ở cái tổ đó từ lúc mới xây dựng, mà lại bỏ ra đi.

Đột nhiên sếu hỏi đàn ngỗng có trông thấy lũ chuột xám đang tiến đến Gliminyêhux không? Khi nghe Akka trả lời là có, ông Hramenrich bèn kể cho nghe chuyện những con chuột đen dũng cảm đã bao năm cố thủ tòa lâu đài, rồi thở dài, kết luận:

- Nhưng đêm nay Gliminyêhux sẽ vào tay lũ chuột xám thôi.

- Tại sao đêm nay, ông Hramenrich à? - Akka hỏi

- Tất cả chuột đen đều đã đi Kullabêy từ chiều hôm qua, tin chắc rằng tất cả mọi giống vật đều đi cả. Nhưng các bác thấy là chuột xám đều ở nhà hết, giờ đang tập hợp để đêm nay xông vào lâu đài; chỉ còn có mấy con chuột già nua khốn khổ, không đủ sức đến nổi Kullabêy ở lại bảo vệ thôi. Lũ chuột xám sẽ làm được việc đó, nhưng tôi đã sống với lũ chuột đen bao nhiêu năm, tôi không thích sống với kẻ thù của họ.

Akka hiểu rõ là sếu tức giận về cách hành động của giống chuột xám, đã tìm đến đây để thổ lộ nỗi lòng. Nhưng làm theo thói quen của loài sếu thì chắc là đã không làm gì để chống lại tai họa cả.

- Ông đã báo tin cho chuột đen biết chưa, ông Hramenrich? - Akka hỏi

- Không, ích gì? Họ chẳng đủ thì giờ trở về trước khi lâu đài bị chiếm

- Không chắc như vậy đâu, ông Hramenrich ạ. Akka nói. Tôi biết có một ngỗng trời già chẳng mong gì hơn là ngăn chặn một việc thâm độc đến thế.

Nghe nói đến đấy, sếu ngẩng đầu lên, tròn xoe mắt nhìn Akka.

Thật vậy, ngỗng già Akka chẳng có móng, chẳng có mò có thể chiến đấu được ra, Akka là một con chim ăn ngày, trời mới tối, dù muốn hay không là đã buồn ngủ rũ ra rồi; mà loài chuột thì lại chiến đấu trong đêm tối.

Nhưng Akka đã quyết giúp loài chuột đen, nên gọi Uykxi ở Vaxxiyaurê và ra lệnh dẫn đàn ngỗng về hồ Vômbsơ; đáp lại ý kiến phản đối; Akka nói giọng quyền thế: "Ta nghĩ rằng tốt hơn hết cho tất cả chúng ta là người hãy nghe lời ta. Ta phải bay đến tận cái tòa nhà bằng đã kia kìa, và nếu cả đàn theo ta thì không thể nào người trong trại lại không trông thấy và không bắn chúng ta được. Ta sẽ chỉ mang một người Tí Hon. Cậu ấy có thể giúp ta, vì có đôi mắt tốt và có thể thức đêm được".

Ngày hôm đó, chú bé vẫn ương ngạnh; nghe lời nói, chú ưỡn thẳng người cho cao được đến đâu hay đến đấy, và bước lên, hai tay chắp sau lưng, mũi hếch lên trời, để nói rằng chú không muốn đánh nhau với loài chuột một chút nào. Tốt hơn là Akka nên tìm một bạn chiến đấu ở nơi khác.

Nhưng chú bé vừa ló mặt ra là sếu liền linh hoạt hẳn lên. Cho đến lúc ấy sếu vẫn cuối đầu, mỏ tựa vào cổ, theo thói của sếu. Thế mà bỗng nghe phát ra một tiếng òng ọc từ tận đáy họng, tựa hồ nó cười vậy. Rồi thình lình nó chìa mỏ ra cắp lấy chú bé và tung lên cao khoảng hai ba mét. Nó làm đi làm lại bảy lần liền cái trò tung này, chẳng quan tâm gì đến tiếng kêu rú của chú bé, cũng như tiếng cà kíu ầm ĩ của đàn ngỗng: "Ông làm gì thế, ông Hramenrich? Đâu phải là con nhái. Con người đấy chứ, ông Hramenrich ạ".

Sau cùng, sếu đặt chú bé xuống đất, bình yên vô sự. Rồi quay về phía Akka, sếu nói:

"Tôi trở về Gliminyêhux đây, mẹ Akka à. Tất cả những ai ở đó đều rất lo khi tôi chia tay với họ. Đã có thể tin chắc rằng họ rất mừng khi được biết là Akka ngỗng trời, và Tí Hon, chú nhóc, đến cứu họ".

Nói xong, sếu vươn dài cổ, dang đôi cánh và bay vút đi như một mũi tên bật ra từ một cái cung căng hết mức. Akka thừa hiểu rằng ông Hramenrich giễu mình, nhưng không để lộ chút ý gì. Akka đợi chú bé nhặt xong đôi giày gỗ mà sếu đã làm văng đi, rồi nhắc chú bé lên lưng mình và bay theo sếu. Về phần mình, chú bé không cưỡng lại, và không nói một lời về ý định không muốn đi. Chú tức sếu quá sức, nên cứ thở phì phì, vẻ giận dữ. Cái loài cao cẳng, đỏ chân kia rõ ràng là đã tưởng rằng Nilx là đồ vô tích sự bởi vì bé nhỏ, nhưng chú sẽ tỏ ra cho nó biết rằng Nilx Hôlyerxôn ở Vaxtra Vemmenhơg có thể làm được gì.

Một lúc sau, Akka đỗ xuống cái tổ sếu lớn trên nóc lâu đài Gliminyêhux. Cái tổ tuyệt đẹp. Tổ đặt trên một cái bánh xe, và gồm nhiều lớp cành cây và cỏ khô. Cái tổ lâu đời đến nỗi rất nhiều cành cây nhỏ và cây bụi đã mọc rễ ở đấy, và khi ấp trứng trong hốc tròn ở giữa tổ thì mẹ sếu không những có thể thưởng ngoạn quang cảnh một phần tỉnh Xkônê, mà còn được ngắm ngay trước mắt những hoa tường vi dại và những dây thường xuân nữa.

Thoạt nhìn, Akka và chú bé thấy ngay rằng mọi thứ trong toàn thể tòa lâu đài đều lộn tùng phèo hết. Trên mép tổ ngồi hai con cú mèo, một con mèo xám và một tá chuột lọm khọm, vẩu răng, mắt sướt mướt lệ. Thật chẳng phải chút nào những con vật thường thấy trong các cuộc họp thanh bình.

Không một con nào trong bọn quay nhìn và chào đón Akka cả. Hoàn toàn bị hút vào mối bận tâm của mình, chúng đưa mắt nhìn theo những đường dài màu xám thấp thoáng trong những cánh đồng trơ trụi về mùa đông. Những con chuột đen, lặng như câm, đắm đuối trong một niềm tuyệt vọng cùng cực, chúng hiểu rất rõ là chúng không thể bảo vệ được tính mạng mình, cũng như tòa lâu đài. Hai con cú mèo đảo lia lịa đôi mắt tròn xoe làm thay đổi màu sắc của hai vòng lông quanh mắt, nom như hai mắt kính và nói đến sự hung tàn độc ác của loài chuột xám, giọng thê thảm và chua chát. Chúng thấy bắt buộc phải bỏ tổ mà đi vì nghe nói rằng bọn chuột xám không tha cả đến những quả trứng và những con chim non. Con mèo già lông vằn thì tin chắc rằng chuột xám sẽ giết chết mình vì chúng kéo đến đông như thế và nó cứ mãi trách móc độc ác những con chuột đen: "Sao các người lại ngu dại để cho các chiến sĩ giỏi nhất của mình đi mất cả? Sao các người lại có thể tin loài chuột xám? Thật không thể tha thứ được!".

Mười hai con chuột đen không đáp lại một lời, nhưng nếu dù đang buồn, cũng không thể không trêu mèo một chút: "Đừng sợ Miu ạ, sếu nói. Không thấy mẹ Akka và Tí Hon đến cứu lâu đài à? Miu có thể tin chắc rằng họ sẽ thành công. Giờ thì tôi đi ngủ đây, và tôi sẽ ngủ hết sức yên tâm. Ngày mai khi chúng ta thức giấc, chắc chắn rằng sẽ không còn lấy một con chuột xám nào ở Gliminyêhux nữa".

Chú bé nháy mắt với Akka, và ra hiệu cho biết là chú muốn chờ đến lúc sếu ngủ sau, đứng một chân ở cuối mép tổ thì đẩy cho ngã xuống đất; nhưng Akka ngăn lại. Akka chẳng có vẻ bực mình chút nào cả: "Ngần ấy tuổi đầu rồi mà không biết cách thoát khỏi những khó khăn tệ hại như thế thì thật là bất hạnh.Chỉ cần cái cặp cú mèo có thể thức suốt đêm kia, sẵn lòng mang giúp mấy lời nhắn tin của ta đi thì chắc là mọi việc sẽ ổn cả".

Hai con cú mèo nói là sẵn sàng thi hành mệnh lệnh của Akka. Ngỗng bèn cử cú chồng đuổi theo những con chuột đen đã ra đi, và bảo chúng trở về ngay lập tức. Vợ cú thì được phái đến gặp Phlammêa, con chim lợn ở nhà thờ Luid, mang một tin tối mật mà Akka chỉ hơi dám thầm thì nói nhỏ vào tai nó thôi.

Phần 3: Kẻ Dụ Chuột

Sau cùng, gần nửa đêm thì những con chuột xám mới tìm ra một cái lỗ thông gió dưới hầm nhà để ngỏ. Lỗ ở khá cao trên mặt tường, nhưng lũ chuột chồng nhau lên, và chẳng bao lâu con táo bạo nhất trong bọn đã lên đến cái lỗ, sẵn sàng chuôi vào lâu đài mà trước đây bao ông cha chúng đã ngã quỵ dưới chân tường.

Con chuột xám đứng một lúc không động đậy, ở lỗ thông hơi, chờ bị tấn công. Bộ phận chủ lực của toán quân bảo vệ lâu đài chắc đã đi rồi, nhưng con chuột xám cho rằng những chuột đen để lại giữ lâu đài sẽ không đầu hàng mà không chiến đấu; tim đập hồi hộp, nó nghe ngóng những tiếng động nhỏ nhất, nhưng tất cả đều im lặng.

Thế là thủ trưởng bọn chuột xám mạnh dạn lên và nhảy vào bóng tối.

Những chuột khác, con trước, con sau lần lượt theo thủ trưởng. Chúng luồn vào lâu đài rất thận trọng, đề phòng những sự bất ngờ. Chúng chỉ không tiến lên nữa khi trên sàn không đủ chỗ đứng chân cho những kẻ xâm lược mới đến.

Dù chưa bao giờ vào lâu đài, chúng cũng chẳng khó khăn gì mà không tìm ra đường. Nhanh chóng thôi, chúng tìm ra giữa các tường những ngõ ngách mà bọn chuột đen đã theo để lên những tầng trên. Nhưng trước khi bước vào những ngõ ngách ấy, chúng lại lắng tai nghe ngóng nữa. Những con chuột đen vắng bóng thế này làm cho chúng lo ngại hơn một trận chiến đấu công khai nhiều. Chúng không dám tin ở hạnh phúc của chúng thì chúng lên được tầng trên.

Ngay cửa vào, mùi lúa mì chất từng đống, xộc vào mũi chúng. Nhưng chưa đến lúc hưởng thụ cuộc chiến thắng. Trước tiên, chúng phải xem xét thật tỉ mỉ những gian phòng trống trải mênh mông. Chúng leo lên lò sưởi ở giữa căn bếp rộng, và suýt chết đuối trong một cái giếng ở cuối gian nhà. Chúng xem xét từng chiếc cửa sổ nhỏ trên mái nhà, nhưng chẳng tìm thấy bọn chuột đen ở một xó nào cả. Khi đã làm chủ được tầng gác này, chúng bắt đầu chiếm lấy gác hai, cũng thận trọng như thế. Lại một phen leo trèo gian khổ và nguy hiểm giữa những bức thành cổ, mỗi lúc một lo sợ bị tấn công bất ngờ. Mặc dù bị hương thơm dễ chịu của lúa mì thu hút, chúng buộc lòng phải giữ hết sức trật tự, khám xét gian phòng rộng của lính canh gác ngày xưa có những cột to, có những chiếc bàn đá của họ, cái lò sưởi, những hốc sâu của các cửa sổ và cái lỗ khoét giữa sàn, mà ngày xưa người ta dội nước chì đun chảy xuống đầu quân địch.

Chuột đen vẫn đâu chả thấy. Quân chuột xám liền đánh bạo lên tầng ba. Phòng lớn của chúa lâu đài cũng lạnh lẽo, chẳng trang hoàng gì hết, như tất cả các phòng khác. Cuối cùng, chúng lên đến tầng cao nhất, chỉ là một phòng duy nhất rất rộng và trống không. Nơi độc nhất mà chúng không hề nghĩ đến việc khám xét là cái tổ sếu to trên nóc nhà. Đúng lúc ấy, trên tổ mụ cú mèo đánh thức Akka dậy, báo cho biết là Phlammêa, chim lợn đã chuẩn y lời thỉnh cầu của Akka và gửi đến cho cái mà ngỗng mượn.

Sau khi kiểm soát toàn bộ lâu đài cẩn thận như thế, lũ chuột xám thấy yên tâm. Chúng biết là chuột đen đã tếch cả rồi, không chống cự lại chúng nữa; và thế là hết sức vui mừng, chúng nhảy bổ đến những đống lúa mì.

Chúng vừa ngấu nghiến nhai được mấy hạt lúa thì nghe tiếng sáo thổi lanh lảnh dưới sân. Chúng ngẩng đầu lên lắng tai nghe, vẻ lo sợ, nhảy mấy cái như muốn bỏ các đống lúa mình, nhưng rồi lại tiếp tục ăn.

Tiếng sáo lại nổi lên gay gắt và nhức nhối, thế là một việc lạ lùng xảy ra: một con, hai con, rồi một đàn chuột bỏ lúa mì mà chạy, theo con đường ngắn nhất, xuống nhà hầm để ra khỏi lâu đài. Tuy vậy, nhiều con vẫn không nhúc nhích. Chúng nghĩ đến nỗi khó nhọc để chiếm lấy Glimminyêhux, và không muốn rời khỏi chốn này. Nhưng chúng lại nghe những điệu sáo, và phải chạy theo đồng đội. Chúng chen lấn nhau như điên, chạy theo các hành lang hẹp giữa các bức tường, xô đẩy nhau để ra cho thật nhanh.

Giữa sân, một con người bé tí đang thổi sáo. Chung quanh, chuột đứng thành vòng tròn lắng nghe, ngạc nhiên và mê mẩn. Cứ mỗi phút lại những chuột khác kéo đến. Một lúc, con người hạ ống sáo xuống, xòe bàn tay ra, để ngón cái vào mũi, nhạo lũ chuột: bây giờ tưởng như lũ chuột sắp chồm lên vồ con người bé nhỏ ấy và nhai ngấu nghiến, nhưng nó lại bắt đầu thổi thì chúng đều khuất phục uy lực của nó.

Khi đã nhử được tất cả những con chuột xám ra khỏi Glimminyêhux thì con người bé nhỏ ấy bắt đầu đi thong thả bên đường, và tất cả đi theo. Điệu sáo bên tai chúng dịu dàng đến nỗi không làm sao mà cưỡng lại được.

Con người bé nhỏ đi trước lũ chuột, kéo về phía Valbuy. Nó đưa chúng đi ngoằn ngoèo, không biết bao nhiêu khúc quanh co, qua bao hàng rào, bao hào hố; khắp nơi, nó đi đâu chúng theo đó. Nó vẫn thổi chiếc sáo, hình như làm bằng sừng con vật gì đó, nhưng nhỏ lắm, đến nỗi chẳng có con vậy nào ngày nay mà có sừng bé đến thế. Chẳng có ai có thể nói được kẻ nào đã chế ra chiếc sáo đó. Phlammêa, chim lợn đã tìm được chiếc sáo trong một chỗ lõm vào tường ngọn tháp ở nhà thờ Lunđ. Nó đem cho Bataki, con quạ, xem và c đều cho rằng đây là một trong những chiếc sừng ngày xưa người ta dùng để trấn áp các giống chuột nhắt. Quạ là bạn của Akka, và chính nhờ quạ mà Akka biết được rằng Phlammêa có một bảo vật như vậy.

Và dĩ nhiên là lũ chuột không thể nào chống lại nổi chiếc sáo. Ánh sao còn chiếu, là chú bé còn đi trước chúng nó, vừa đi vừa thổi, và chúng nó cứ đi theo không ngớt.

Chú thổi đến hừng đông, thổi đến lúc mặt trời mọc và đám đông chuột xám vẫn đi theo chú mãi, càng đi càng bị cuốn xa những vựa lúa mì rộng lớn của Glimminyêhux.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3