Cuộc Lữ Hành Kỳ Diệu Của Nilx Holyerxon Qua Suốt Nước Thụy Điển - Chương XI - XII
Chương XI: Mũi Đất Cực Nam
Đảo Ơlanđ
Từ 3 đến 6 tháng Tư
Trong miền Nam cực đảo Ơlanđ có một lâu đài cổ của nhà vua gọi là Ôttenbuy, một trang viên khá rộng trải suốt bề ngang của đảo từ bờ nọ đến bờ kia. Đây vẫn là nơi ẩn náu ưa thích của bao nhiêu loài vật. Trong thế kỷ XVII, hồi các quốc vương thường đến săn bắn ở Ơlanđ thì trang viên chỉ là một khi vườn rộng để nuôi hươu. Vào thế kỷ thứ XVIII, ở đây có một trại nuôi dưỡng những ngựa giống quý, và một trại cừu có tới hàng trăm con. Ngày nay, ở Ôttenbuy không có ngựa nòi, cũng không có cừu cái. Ở đây, người ta nuôi rất nhiều ngựa tơ cho các trung đoàn kỵ binh.
Trong cả nước, không thể có một nơi nào thuận lợi cho thú vật bằng ở nơi đây. Dọc bờ biển phía Đông, đồng cỏ bao la cho cừu ăn xưa kia trải ra dài gần ba cây số; đó là đồng cỏ rộng nhất của toàn bộ đảo này; súc vật có thể đến đây ăn cỏ, chơi đùa và chạy nhảy thỏa thích. Lại còn có khu rừng nổi tiếng Ôttenbuy với những cây sồi trăm năm, mà dưới gốc, người ta được che nắng và tránh cái gió ghê gớm của Ơlanđ. Cũng không được quên bức thành dài Ôttenbuy, chạy từ bờ này sang bờ kia, ngăn trang viên với phần còn lại của đảo, chỉ cho các súc vật biết trang viên xưa của nhà vua rộng đến đâu, và báo cho chúng biết là đừng phiêu lưu đến một đất khác không được bảo vệ như ở đây.
Và cũng chẳng phải chỉ có những gia súc mới thấy thích thú ở Ôttenbuy. Cả đến những thú rừng, người ta nói thế, cũng cảm thấy rằng, trong một trang viên cổ của nhà vua, tất cả không trừ ai, đều có thể được che chở và trú ẩn; vì thế mà chúng tụ tập ở đây đông đến thế. Ngoài những con nai thuộc dòng giống lâu đời còn sống sót, và những con thỏ rừng, những con vịt nhiều màu, và những chim đa đa yêu thích đất này, mùa xuân và mùa thu người ta còn gặp ở đây hàng nghìn chim di cư. Những chim này đỗ xuống ăn cỏ và nghỉ ngơi, nhiều nhất là bờ phía Đông, thấp và lầy trước mặt đồng cỏ của cừu.
Cuối cùng, đàn ngỗng trời và Nilx đến Ơlanđ và hạ xuống bãi cát sỏi, như tất cả mọi chim khác. Sương mù trùm lên đảo cũng dày đặc như trên biển vậy. Nhưng cũng không vì thế mà Nilx bớt ngạc nhiên khi thấy bao nhiêu là chim trên cái khoảng đất hẹp mà mắt chú có thể nhìn thấy.
Đây là một bãi biển thấp, rải rác có đã và những vũng nước, có rong biển do sóng ném vào phủ đến một nửa diện tích. Nếu được lựa chọn, có thể Nilx đã không dừng lại đây, nhưng mà đàn chim thì ở đây dường như đang ở thiên đường vậy. Vịt và ngỗng xám ăn trên đồng cỏ, trên bãi cát sỏi, đang chạy nhảy những con chim mỏ nhái con và những loài chim khác sống ở các bờ biển. Những con cốc bơi dưới nước và bắt cá. Nhưng nhộn nhịp hơn hơn cả là trên những bãi rong dài phía trước bờ biển. Ở đây, chim đứng thành hàng sát nhau, mổ những ấu trùng và giun, chắc là nhung nhúc, vì chẳng nghe có tiếng chim nào phàn nàn là thiếu ăn cả.
Phần lớn đều phải tiếp tục cuộc lữ hành và chỉ dừng lại để nghỉ, con đầu đàn khi mới nhận thấy đàn của mình đã ăn lại sức, là liền gọi: "Các bạn đã sẵn sàng thì chúng ta lại lên đường thôi!".
- Không, không, đợi tí! Còn lâu chúng tôi mới no, những con khác đáp lại.
- Các bạn muốn ngốn đến nỗi không thể bay được nữa đấy chắc? Con đầu đàn hỏi
Xong, nó đập cánh và lấy đà bay lên. Những thường nó là phải quay lại vì những con khác không bay.
Xa nữa, quá những bãi rong cuối cùng, một đàn thiên nga đang bơi. Chúng không nghĩ đến việc đổ bộ vào bờ, mà cứ nghỉ trên mặt nước, để các làn sóng đu đưa mình. Chốc chốc, chúng vươn cổ xuống mò cái ăn dưới đáy biển. Khi kiếm được cái gì đặc biệt ngon lành, chúng kêu lên những tiếng giống như tiếng kèn tơ-rông-pet.
Được biết là có thiên nga, Nilx vội vàng về phía những bãi rong. Chú chưa bao giờ được thấy thiên nga hoang dã cả. Chú được cái may là có thể đến rất gần chúng.
Vả lại, không phải chỉ có mình chú ngắm đàn thiên nga. Ngỗng trời và ngỗng xám, vịt trời và chim cốc đứng thành vòng tròn quanh chúng. Những con thiên nga xù lông lên, giương cao cánh làm buồm và vươn dài cổ ra. Thỉnh thoảng, một con bơi đến gần một con ngỗng hay một con cốc, và nói với nó một đôi lời; nhưng con kia dường như không dám ngước mỏ lên trả lời.
Nhưng có một con chim nước nhỏ, một con quỷ đen ngòm mà tất cả các điệu bộ trang nghiêm kia làm cho nó khó chịu đến mức ngạt thở. Thình lình nó nhào xuống và biến mất dưới nước. Liền sau đó, con thiên nga kêu lên một tiếng và bỏ chạy, nhanh đến nỗi nước sủi bọt quanh mình nó. Rồi nó dừng lại và lấy lại cái vẻ đường bệ như cũ. Nhưng tức thì một con thiên nga khác lại kêu lên như con thứ nhất, rồi lại một con thứ ba nữa.
Nhưng không may con chim đen không thể ở dưới mặt nước lâu hơn nữa; nó hiện lên, bé nhỏ, đen thui, vẻ tinh quái vô cùng. Đàn thiên nga lao cả vào ó, nhưng thấy mình gặp phải một con chim bé nhỏ quá chừng, chúng bèn dừng lại ngay, tựa hồ chúng cho rằng nó không đáng để chúng bận tâm. Thế là con chim đen lại nhào xuống nước, và lại cắn vào chân chúng; chắc rằng nó làm cho các con thiên nga phải đau, nhưng cái bực nhất là chính không làm sao giữ được phong thế đường bệ của chúng nữa. Bỗng nhiên, chúng quyết định một điều. Chúng liền đập cánh ầm ầm, lao về phía trước, trông như là chạy trên mặt nước vậy; sau cùng, có đủ không khi dưới cánh, chúng liền bay vút lên.
Đàn thiên nga ra đi rồi, các loài chim khác tiếc lắm: những con đã cười vì các trò tinh nghịch của con chim đen, giờ lại trách nó là láo xược. Chú bé trở lại đất liền, đứng nhìn những con mỏ nhát con. Chúng giống những con chim dang tí xíu. Cũng như chim dang, thân chúng nhỏ, cẳng cao, cổ dài, cử động nhẹ nhàng và uyển chuyển; nhưng lông chúng không xám mà bụng chúng hung hung đen. Chúng đứng thành một hàng dài trên bãi biển mà các đợt sóng quét vào rửa sạch. Cứ mỗi lần một đợt sóng tràn vào là cả hàng chạy vội về phía Nam. Nhưng đợt sóng vừa bị biển hút lại, là chúng lại ra. Cứ thế, chúng tiếp tục hàng giờ liền.
Đẹp nhất tất cả các loại chim là những con vịt biển nhiều màu. Loại này đúng là họ hàng với vịt thường vì thân hình cũng nặng nề và hai vai bè bè, mở rộng, chân có màng, nhưng chúng chưng hơn nhiều. Bộ lông chúng trắng, quanh cổ là một dải rộng màu vàng; đôi cánh tô điểm nhiều màu mà nổi lên rực rõ là màu lục, màu đỏ và màu đen, và các đầu cánh cũng đen; cái đầu thì màu lục sẫm, óng ánh như tơ.
Một con trong bọn chúng xuất hiện trên bãi, những loài chim khác reo lên:
- Nhìn chúng kia kìa! Xem chúng chưng diện đến mức thế nào!
- Nếu không đẹp đến thế, chúng ta chẳng cần phải đào đất làm tổ và đã có thể ấp trứng giữa ban ngày ban mặt như chúng ta đây cả rồi. – Một con vịt mái nâu nói vậy.
- Cứ để chúng chưng diện tùy thích: có làm gì đi nữa thì cũng chẳng bao giờ trông được, với cái mũi như thế kia. – Một con ngỗng xám nói.
Mà đúng thế thật. Những con vịt biển nhiều màu có một cái bướu to ngay chỗ mỏ mọc ra, làm hỏng cả bộ mặt của chúng.
Dọc bờ biển, những con hải âu và những con én biển đang bay lượn kiếm mồi.
- Các bạn ăn gì vậy? – Một con ngỗng trời hỏi
- Cá ngạnh, cá ngạnh Ơlanđ. Ở đời chẳng có gì ngon bằng, một con hải âu đáp. Có muốn nếm thử không? Và nó bay đến chỗ con ngỗng, mồm ngậm đầy cá con.
- Khiếp! Đằng ấy tưởng là ta muốn ăn cái bẩn ấy à? – Ngỗng nói
Ngày hôm sau, sương mù vẫn đặc như thế. Đàn ngỗng trời ăn trong đống cỏ, Nilx ra mép nước nhặt những con trai. Có nhiều trai lắm. Nghĩ rằng ngày mai có thể đến một nơi không tìm ra được cái gì để ăn cả. chú quyết đan thử một cái túi nhỏ để chứa đầy những con trai. Trong đồng cỏ, chú tìm thấy cỏ lách khô, dài và chắc, liền bắt đầu đan túi. Công việc này mất mấy tiếng đồng hồ, những làm xong chú lấy làm hài lòng lắm.
Vào lúc giữa trưa, tất cả các con ngỗng trời trong đàn chạy lại hỏi xem chú có trông thấy con ngỗng đực trắng không.
- Không, không, ngỗng đực không đi với tôi, Nilx đáp.
- Lúc nãy nó ở với chúng ta, Akka nói – không biết giờ nó ra làm sao rồi
Nilx hoảng hốt đứng vụt lên. Chú hỏi xem có ai thấy một con cáo, hay con chim ưng, hay những con người ở quanh đây không. Chẳng ai thấy cái gì khả nghi cả. Hẳn là ngỗng đực đã lạc trong sương mù rồi.
Đối với Nilx tai họa này không phải là nhỏ; chú liền đi tìm ngỗng đực. Sương mù trùm lấy chú, làm cho chú có thể chạy khắp nơi mà không bị ai trông thấy. Chú đi đến tận cái mõm của đảo, nơi có cây đèn biển và khẩu đại bác để bắn làm hiệu, khi có sương mù. Nơi nào cũng vẫn cái cảnh nhung nhúc những chim là chim, mà tuyệt không thấy ngỗng đực trắng đâu cả. Chú đánh liều vào tận trong sân trang viên Ôttenbuy và xem xét tất cả các gốc sồi thân rỗng trong vườn: chẳng nơi nào tìm thấy dấu vết ngỗng đực cả.
Chú tìm đến tận lúc đêm xuống. Bấy giờ chú đành phải quay về bờ đảo phía Đông. Chú bước những bước nặng nề, lòng hết sức chán nản. Không có ngỗng đực rồi chú sẽ ra sao? Khi chú đến giữa đồng cỏ rộng, thì một cái bóng trắng hiện lên từ màn sương mù. Đó là ngỗng đực. Nó vẫn bình yên vô sự và rất sung sướng được gặp lại đàn ngỗng trời. Sương mù làm nó lạc hướng đến độ phải bay quanh đồng cỏ rộng suốt cả ngày, nó kể lại như vậy, Nilx vòng tay ôm lấy cổ nó, và nằn nì nó nên cẩn thận hơn, và không nên đi xa đàn nữa. Không, không bao giờ.
Nhưng sáng hôm sau, lúc Nilx đang dạo chơi trên bờ biển thì các con ngỗng trời lại chạy đến hỏi nó ngỗng đực đi đâu.
Nilx chẳng trông thấy ngỗng đực đâu cả. Như vậy là nó lại biến mất một lần nữa. Cúng như hôm trước, nó lại lạc trong sương mù.
Nilx rất hoảng sợ, lại đi tìm. Chú tìm thấy một chỗ mà bức thành của Ôttenbuy bị đổ một đoạn; nhờ chỗ đó chú trèo qua được. Phía ngoài bức thành, hòn đảo mở rộng ra, và có những cánh đồng, bãi cỏ và ấp trại.
Chú trèo lên đến tận cao nguyên ở giữa đảo, nơi chẳng có nhà cửa gì hết, ngoài những cối xay gió; ở đây cỏ thưa thớt đến mức đá vôi trắng lộ ra mặt đất.
Chẳng thấy dấu vết ngỗng đực nơi nào cả, sắp tối rồi và phải quay về với đàn ngỗng trời, chú tin là ngỗng đực đã mất toi rồi. Chú tuyệt vọng quá đến mức hầu như lê bước đi không nổi.
Chú leo lên thành, rồi chợt nghe tiếng một hòn đá đổ xuống bên cạnh. Quay lại, hình như chú thấy một vật gì cựa quậy trên một đống đá sát ngay bức thành. Chú bước nhẹ đến gần, và trông thấy con ngỗng đực đang nặng nhọc leo lên những hòn đá mỏ ngậm mấy sợi rễ cây dài. Ngỗng đực không trông thấy chú bé, và chú thì cũng không lên tiếng gọi, vì chú muốn biết tại sao ngỗng đực đã đi mất hút liền liền như vậy.
Chẳng lâu la gì chú đã biết rõ lý do. Tận trên đỉnh đống đá có một con ngỗng mái tơ màu xám đang nằm nghỉ, trông thấy ngỗng đực, nó reo lên vui vẻ. Nilx ườn đến gần hơn nữa để có thể nghe chúng nói gì và được biết là con ngỗng xám bị thương một cánh không bay được. Đàn của nó đã bỏ rơi nó, không có ngỗng đực trắng hôm trước nghe tiếng nó kêu và đến cứu thì nó đã chết đói rồi. Ngỗng đực vẫn tiếp tục mang cái ăn lại cho nó. Cả hai đều hy vọng rằng ngỗng mái sẽ khỏi trước khi ngỗng đực lên đường, nhưng ngỗng mái vẫn chưa thể bay, chưa thể đi được. Nó buồn khổ, ngỗng đực an ủi nó, nói rằng mình vẫn chưa lên đường. Sau cùng, ngỗng đực chào nó, hứa ngày mai sẽ trở lại.
Nilx để cho ngỗng đực đi, và khi đã đi khuất rồi, lại đến lượt chú trèo lên đống đá. Chú tức giận vì đã bị đánh lừa, và định nói cho cái con ngỗng tơ lông xám này biết rằng ngỗng đực là sở hữu của chính chú. Ngỗng đực sẽ phải đưa Nilx đến Lapplanđ không thể có chuyện để nó ở lại phía sau vì con này được. Nhưng lúc nhìn gần con ngỗng tơ xám, chú hiểu tại sao ngỗng đực đã mang cái ăn đến cho nó trong hai ngày, và tại sao ngỗng đực lại không muốn nói gì về việc này cả. Ngỗng mái có cái đầu nhỏ đẹp vô cùng; bộ lông như một chiếc áo lụa mềm mại nhất và đôi mắt hiền từ và như van lơn.
Trông thấy chú bé, ngỗng muốn chạy trốn, nhưng cánh bên trái nó bị trật khớp và kéo lê trên mặt đất, không cho nó nhúc nhích được tí nào
“Đừng sợ! – Nilx nói, cơn giận đã nguôi – Ta là Tí Hon. Bạn đường của Martin, ngỗng đực đây!”
Rồi chú ngừng lời, không biết nói gì hơn.
Ở các loài vật, đôi khi có cái gì đó làm cho chúng ta phải tự hỏi xem là mình đang có việc với ai. Gần như ta sợ rằng đó là những con người đã biến hình thành vật. Con ngỗng xám nhỏ này cũng thế. Tí Hon vừa tự giới thiệu, là nó đã nghiêng cổ và cuối đầu về phía trước chú, duyên dáng vô cùng; rồi nói giọng hay đến nỗi Nilx không thể tin rằng đó là tiếng của một con ngỗng.
- Tôi rất sung sướng được cậu đến giúp đỡ. Ngỗng đực trắng đã nói với tôi rằng không có ai thông minh và tốt bụng bằng cậu.
Nó nói với một phong thái làm cho Nilx thấy sợ. Đây không thể là một con chim được, Nilx tự nhủ, chắc rằng đây là công chúa đã bị pháp thuật biến thành chim.
Bỗng Nilx rất muốn cứu con ngỗng. Chú lùa đôi bàn tay bé nhỏ vào dưới lông ngỗng, và nắn chiếc xương cánh. Xương không gãy; chỗ đau là ở khớp xương. Ngón tay chú bé vào sâu một chỗ trống: “Can đảm lên một tí!”. Chú nói rồi nắm mạnh xương cánh, nắn nó lại. Chú làm việc đó rất nhanh và rất khéo, dù đây là lần đầu, nhưng chắc đã làm ngỗng đau lắm, vì con chim nhỏ đáng thương kêu lên một tiếng nhức nhối, rồi ngã vật xuống giữa cái hòn đá, bất tỉnh nhân sự.
Nilx sợ quá. Chú muốn cứu nó, và thế là đã giết chết nó. Chú nhảy xuống chân đống đá và bỏ chạy. Đối với chú hình như vừa giết chết một con người.
Sáng hôm sau, trời đẹp. Sương mù đã tan, Akka ra lệnh tiếp tục cuộc bay. Chỉ mình ngỗng đực là bàn khác đi, Nilx hiểu rất rõ là nó không muốn rời con ngỗng xám nhỏ. Nhưng Akka không chút để ý đến điều đó, và đàn ngỗng lên đường.
Nilx nhảy lên lưng ngỗng đực, và ngỗng bay theo đàn, dù chậm chạp và miễn cưỡng. Nilx sung sướng được rời hòn đảo. Cái chết của con ngỗng tơ đè nặng lên lương tâm chú, và chú không thể quyết định kể với ngỗng đực kết quả tai hại của việc cứu chữa của chú. Chú nghĩ là có lẽ cứ để cho Martin ngỗng đực đừng bao giờ hay biết chút gì cả lại tốt hơn. Đồng thời chú lấy làm lạ là ngỗng đực trắng lại có thể bỏ ngỗng xám mà đi như vậy.
Bỗng nhiên ngỗng đực bay ngoặt trở lại; nghĩ đến con ngỗng tơ nó chẳng tài nào yên tâm được. Chẳng cần gì đi Lapplanđ nữa.
Chỉ mấy cái đập cánh là nó đã tới đống đá. Nhưng chẳng thấy ngỗng tơ đâu cả.
“Lông-tơ-mịn! Lông-tơ-mịn! Em ở đâu!” – Ngỗng gọi to
“Cáo bắt mất nó rồi cũng nên”, Nilx nghĩ bụng. Nhưng đúng lúc ấy chú nghe một tiếng đáp nhỏ:
“Em đây, ngỗng đực, em đây. Em vừa tắm buổi sáng xong!”
Và con ngỗng xám tơ dưới nước đi lên, bình an vô sự. Nó kể rằng, Tí Hon đã nắn lại cánh cho nó, và nó đã khỏi, và sẵn sàng theo đàn.
Những giọt nước trên bộ lông óng ánh của nó khác nào những hạt trai đang chảy xuống; và lại một lần nữa, Nilx tự bảo rằng đó là một nàng công chúa thật là bé nhỏ, xinh đẹp.
Chương XII: Con Bướm Lớn
Thứ tư, 6 tháng Tư
Đàn ngỗng bay dọc theo hòn đảo hẹp, mà từ trên cao nhìn xuống trông thấy toàn cảnh. Chú bé cảm thấy lòng thanh thản. Tối hôm trước chú chán nản và buồn rầu bao nhiêu, trong lúc lang thang trên đảo tìm ngỗng đực, thì bây giờ chú sung sướng bấy nhiêu. Hình như ở giữa đảo là một cao nguyên trơ trụi, bao quanh là một dải đất rộng giàu có và phì nhiêu, dọc các bờ biển. Nilx bắt đầu hiều ý nghĩa của câu chuyện nào đó mà chú đã nghe kể tối hôm trước.
Chú đang nghỉ dưới chân của một trong các nhà xay sức gió, mọc trên cao nguyên, thì hai người chăn cừu tới gần, có những con chó đi theo, và đi trước là một đàn cừu rất đông. Chú bé không phải đứng lên, vì chú ở rất kín dưới những bậc thang của nhà xay, nhưng tình cờ thế nào mà hai người chăn cừu lại đến ngồi ngay trên cầu thang ấy, và Nilx đã phải ngồi ở đó mãi cho đến lúc họ bỏ đi.
Một trong hai người chăn cừu là một chàng trai trẻ, bề ngoài trông chẳng có chút gì đặc biệt cả, người kia là một ông già kỳ quặc. Thân hình ông ta cao và gầy dơ xương, đầu nhỏ, khuôn mặt có những nét dịu dàng và mềm mỏng. Có thể nói là thân hình và cái đầu ông không hài hòa với nhau. Ông ngồi im lặng và một lúc nhìn vào sương mù với cái nhìn mệt mỏi vô cùng. Anh này đã lấy bánh mì và pho mát từ cái túi ra để ăn tối. Anh chẳng trả lời câu nào, nhưng hình như nghe ông ta nói không sốt ruột chút nào.
"Tôi kể cho anh nghe chuyện này, Êrik à. - Ông già nói. Tôi đã suy nghĩ, và tôi tin rằng, xưa kia trong cái thời mà người và vật đều to lớn hơn ngày nay nhiều thì loại bướm dài mấy dặm, cánh rộng như hai cái hồ màu xanh với những ánh bạc, và đẹp đến độ tất cả những súc vật khác đều đứng lại ngắm con bướm khi nó bay".
"Khốn nỗi là nó to quá. Đôi cách đỡ thân nó thật khó khăn. Chỉ cần nó khôn ngoan, cứ bay trên mặt đất thôi thì còn may không xảy ra việc. Nhưng nó đã liều bay trên biển Baltika. Nó bay chưa được bao xa thì bão đã làm lung lay đôi cánh của nó. Anh cũng hiểu, Êrik à, cái gì phải xảy đến khi đôi cánh bướm mong manh phải phơi ra trước bão tố biển Baltika. Đôi cánh, chẳng mấy chốc đã bị những đợt cuồng phong giật tung và cuốn đi, con bướm đáng thương rơi xuống biển. Ở đó nó bị những đợt sóng đánh đi, đánh lại cho đến khi bị giạt vào mấy tảng đá ngầm trước bờ biển tỉnh Xmelanđ. Mắc cạn, nó nằm dài ra đó".
"Tôi cho rằng, Êrik ạ, nếu xác bướm mà nằm trên đất liền thì nó đã nhanh chóng thối rữa và tan thành bụi rồi. Nhưng vì nó rơi xuống biển, ở đó nó được chất vôi thấm vào, và đã cứng lại như đá. Anh còn nhớ là chúng ta đã tìm thấy ở trên bờ những hòn đá những con giun đã hóa đá. Tôi tin rằng đó là việc đã xảy ra cho thân hình con bướm lớn. Tôi tin là nó đã thành ra một khối đá dài và hẹp nằm giữa biển Baltika. Anh nghĩ thế nào?".
Ông già ngừng lại để chờ một câu trả lời, người con trai trẻ lắc đầu:
- Bác kể tiếp đi, và cho cháu biết bác có ý định gì?
- Này để ý xem, Êrik ạ, đất Ơlanđ mà anh với tôi đang sống đây, không phải gì khác cái xác bướm ấy. Chỉ cần suy nghĩ là thấy hòn đảo này đúng là một con bướm. Ở mạn Bắc, ta thấy cái ngực thắt lại và cái đầu tròn, ở mạn Nam là cái bụng, trước mở rộng ngang ra, rồi thu hẹp và cuối cùng thót lai thành cái mũi nhọn.
Ông già ngừng lại một lúc và lo ngại nhìn người bạn trẻ, xem anh ta tiếp nhận lời khẳng định của mình như thế nào, nhưng anh chàng vẫn tiếp tục ăn một cách thản nhiên và chỉ ra hiệu cho ông kể tiếp câu chuyện.
- Con bướm vừa thành ra một khối đá vôi thì rất nhiều hạt giống cỏ cây bị gió thổi đến, đã thử bắt rễ xuống đây. Các hạt giống thấy khó lắm mới bám được vào khối đá trơ trụi và trơn trượt. Một thời gian dài chỉ có cỏ lách là có thể mọc nổi ở đây thôi. Rồi đến một loài hoa thảo và loài hướng dương. Nhưng mãi đến nay nữa, ở đây, trên cao nguyên này, vẫn không đủ cây cối để phủ kín hết được khối đá, vì đá lộ ra khắp nơi. Mà cũng chẳng ai nghĩ đến việc cày bừa cũng như gieo hạt ở đây, bởi vì lớp đất mỏng đến thế.
Nhưng nếu anh công nhận rằng cao nguyên và các núi đồi là do xác con bướm tạo nên, thì anh có quyền hỏi rằng chỗ đất trải ra bên dưới kia, chung quanh đảo, là ở đâu mà ra
- Cháu định hỏi bác điều ấy đấy
- Thế này! Anh nhớ rằng hòn đảo đã lưu lại dưới biển rất nhiều năm và trong khoảng thời gian ấy, tất cả các thứ mà biển đẩy đi; rong biển, cát, vỏ sò, vỏ ốc đều chất lại thành đống ở đó. Rồi, từ hai bên sườn cao nguyên, có những phen đá và đất đổ lở xuống. Như thế đảo có những bờ ruộng để cho lúa mì, các loài hoa và các loài cây có thể mọc lên được.
Ở đây, chỗ cao trên lưng bướm, chỉ thấy có những cừu cái, những bò cái và những con ngựa bé tí, ở đây chỉ có những con chim te te và những con chim óc cau. Không có công trình xây dựng nào ngoài những nhà xay gió và những túp lều tồi tàn bằng đá mà chúng ta, những dân chăn cừu trú ẩn. Nhưng, trên các bờ biển, có những nhà nông dân lớn, có những nhà thờ và những nhà mục sư, những xóm chài và cả một thành phố.
Ông già ngừng lời và nhìn người kia. Anh này đã ăn xong và đang lúi húi buộc chặt túi lương thực của mình.
- Cháu muốn biết là bác có mục đích gì? -
Cuối cùng anh ta nói:
- À! Đây này, - ông già hạ thấp giọng, gần như thì thầm, đôi mắt nhỏ, mệt mỏi vì đã cố tìm ra tất cả những gì thực sự không có, nhìn dõi vào sương mù - Đây là điều mà tôi muốn biết: những nông dân ở trong những sân vây kín đằng kia dưới chân cao nguyên, và những tàu đánh cá mòi ngoài biển, những người buôn bán ở Borghôlm, những người đi săn cứ mùa thu mùa hè nào cũng tới đây, những du khách đi dạo trong các phế tích của lâu đài Borghôlm, những người đi săn cứ mùa thu thì đến đây bắn chim đa đa, những họa sĩ leo lên ngồi trên đỉnh núi này để vẽ những con cừu và những cối xay gió, tôi muốn biết có bao giờ một kẻ nào trong số đó hiểu rằng hòn đảo này nguyên là một con bướm đã từng bay trên không với những cánh rộng lớn, rực rỡ không?
- Ồ! Có chứ, - anh chàng chăn cừu nói, - một người nào đó trong bọn họ sẽ ngồi trên bờ biển vào một buổi chiều, sẽ nghe tiếng họa mi hót trong những rừng cây nhỏ dưới chân mình, ngắm eo biển Kalmar sẽ phải hiểu hòn đảo này không thể được tạo ra như tất cả các đảo khác được.
- Tôi muốn biết, ông già nói tiếp, có một người nào trong bọn họ ó ý muốn đem cho các cối xay này những chiếc cánh to đến mức có thể bay lên trời, to đến mức đủ sức nhấc bổng cả hòn đảo ra khỏi biển cả, và làm cho nó bay như một con bướm giữa các con bướm khác không?
- Trong điều bác nói có cái đúng, - chàng trai đáp lại, - vì trong những đêm hè, lúc bầu trời như một cái vòm xanh bao la trùm lên đảo, đôi khi cháu thấy đúng là hòn đảo đang muốn cất mình khỏi mặt biển và bay lên.
Nhưng ông già, cuối cùng đã kéo được chàng trai vào câu chuyện, rồi ông lại không nghe anh ta nói nữa. Ông lại tiếp tục, giọng còn hạ xuống thấp hơn: "Tôi muốn biết rằng có người nào đó có thể giải thích được cho tôi tại sao ở đây, trên cao nguyên này, người ta cảm thấy nhớ quê hương đến như thế này. Tôi cảm thấy tất cả mọi ngày, trong suốt cả cuộc đời, và tôi tin rằng cái tình quê hương ấy len vào lồng ngực của tất cả những ai sống ở đây. Tôi muốn biết rằng, có người nào đó lại không hiểu là có tâm trạng mòn mỏi đó, vì toàn thể hòn đảo này là một con bướm đang khao khát được một đôi cánh".