Lan Lăng Vương (Tập 1) - Chương 2 - Phần 2
3.
Đầu tôi xoay chuyển nhanh chóng, vẫn chưa nghĩ ra điều gì thì Đan Tĩnh Hiên đã gần ngay trước mắt. Đó là một biệt viện vô cùng đường hoàng, hoa lê, cột sơn son, cửa sổ hoa bằng gỗ đỏ, những chiếc chuông gió bằng đồng treo dưới mái nhà đang kêu ting tang.
Tiếng cửa mở vang lên, mùi hương rất đậm bay ra. Một nữ nhân mặc áo lụa màu tím đang ngồi giữa phòng, trần nhà treo một hoành phi rất to, viết rõ ràng bốn chữ “Tử Khí Đông Lai”. Bà trạc ngoại tứ tuần, cây trâm vàng cài trên đầu tỏa sáng lấp lánh, khóe mắt đã có vài nếp nhăn vẫn không che giấu được vẻ xinh đẹp thời trẻ.
“Thanh Tỏa bái kiến cô mẫu.”
Tôi cúi người hành lễ, chầm chậm ngước đầu lên, thầm đánh giá bà, nghĩ bụng, “Không ngờ Nguyên Thị lại là một nhân vật như thế này, sang trọng tôn quý nhưng vẫn kiến người ta thấy e dè. Chẳng trách có thể ngồi vũng ngôi vị chính thê trong phủ đệ Tể tướng, nơi những cuộc tranh đấu giữa các nữ nhân luôn diễn ra rất ác liệt. Cho dù không còn vẻ đẹp của năm xưa nhưng bà vẫn ngồi vững trên chiếc ghế này mấy chục năm không đổ, chắc chắn là vì bà luôn sắp xếp mọi việc trong phủ Tể tướng một cách hài hòa, hợp lý.”
“Đứng lên đi!” Nguyên Thị lạnh nhạt nói, rồi thong thả nhấc tách trà lên nhấp một ngụm, chiếc nhẫn ngọc trên ngón tay trỏ tỏa ánh sáng lặng lẽ. Bà đặt tay xuống rồi nói tiếp, “Ngồi đi!”
Tôi nghe lời ngồi xuống, cúi đầu nhìn tay áo thêu chỉ vàng, không nói năng gì, chờ bà lên tiếng trước.
“Sao đột nhiên lại tới phủ Tể tướng thăm ta? Thực sự là muốn tới thăm ta hay vì không chịu nổi trong phủ Tư Không nữa? Đừng có làm loạn quy củ!” Nguyên Thị nhướng mày nhìn tôi, không nói vòng vo, âm điệu vẫn như bình thường, trong giọng nói không có nhiều lời trách cứ, nhưng lại chứa đựng sự coi thường, khinh bỉ.
Tôi không trả lời, vẫn cúi đầu, nói khẽ: “Cô mẫu, Thanh Tỏa có điều muốn nói với người.”
Nguyên Thị thấy tôi có vẻ điềm tĩnh thì hơi sững lại, tôi ngẩng đầu lên nhìn tì nữ bên cạnh bà, rồi bà lại nhìn tôi bằng ánh mắt đầy phức tạp. Nguyên Thị nhìn tôi giây lát, tôi không hề né tránh, cũng nhìn lại bà. Một lúc lâu sau, cuối cùng bà cũng hơi quay đầu lại một chút, ra lệnh cho các thị tì lui ra.
“Các ngươi lui ra trước đi!”
Nguyên Thanh Tỏa ngày trước vì say mê Vũ Văn Dung nên không chịu đưa thông tin tới phủ Tể tướng, kết quả là không lấy lòng được cả đôi bên. Bởi vậy lần này gặp Nguyên Thị, tôi nên thể hiện lòng “trung thành” của mình mới phải.
“Thanh Tỏa bất tài đã uổng công dưỡng dục của cô mẫu. Nhưng tối qua, những lời con nói trước mặt Tể tướng đại nhân hoàn toàn là thật. Trên đời này, con chỉ còn cô mẫu là người thân, bao nhiêu năm nay nhờ có cô mẫu nuôi dưỡng mới có ngày hôm nay. Trong những ngày được gả tới Tư Không phủ, Thanh Tỏa luôn một lòng một dạ nhớ người.” Tôi nói vô cùng chân thành, hơi ngước mắt lên, thấy Nguyên Thị nghe xong những lời tôi nói, vẻ mặt uy nghiêm, căng thẳng đã hơi giãn ra một chút.
“Thực ra lần này Thanh Tỏa tới đây không phải là vì bản thân. Mà vì sợ là uổng công bao năm dạy bảo của cô mẫu nên tới đây để báo ân.” Tôi ngừng lại một lát, rồi nói tiếp: “Thanh Tỏa ngu muội, ngày trước ích kỷ cố chấp, không nghĩ tới ân tình của cô mẫu, đó là lỗi của Thanh Tỏa. Cô mẫu là phận nữ, có lẽ cũng hiểu được tâm trạng của thiếu nữ hoài xuân, trong lòng, chỉ mong chờ phu quân ban cho mình chút tình để được ở bên nhau sống cả đời, những việc khác thì quên hết sau lưng. Thanh Tỏa cũng chỉ là nhất thời hồ đồ.”
“Ồ? Mở mắt ra rồi?” Nguyên Thị im lặng giây lát rồi hơi nghiêng đầu, đưa mắt nhìn tôi, môi khẽ nhếch lên, giọng nói ra vẻ chẳng quan tâm.
“Người ta vẫn nói “Hoan hành bạch nhật tâm, triều Đông mộ hoàn Tây”[1], nam tử thường tình đều là hạng phụ tâm bạc hạnh, có mấy người được như cô phụ, thương yêu cô mẫu cả đời, mấy chục năm nay vẫn không thay đổi.” Tôi giả bộ thở dài, nịnh bà một câu. Trong lòng thầm nghĩ, “Nếu trên đời này đều là hạng đàn ông như Vũ Văn Dung, đứng núi này trông núi nọ, không biết đến chân tình thì tôi thà không yêu còn hơn.”
[1] Xuất phát từ “Tử Dạ ca”, là một khúc ca thời cổ đại. Tương truyền giai điệu của “Tử Dạ ca” là do một cô gái tên Tử Dạ sáng tác. Hai câu nói này để hình dung về đàn ông vốn là những kẻ phụ tình.
“Hoan hành bạch nhật tâm, triều Đông mộ hoàn Tây” Trái tim của người đàn ông trên đời này đều dễ thay đổi, chỉ có phụ nữ là luôn bị thiệt thòi. Nghe đến đây, Nguyên Thị bất giác tỏ ra xúc động.
“Nhưng là con gái của Nguyên gia, làm sao có thể nghĩ tới chuyện nhi nữ tư tình mà làm mất mặt tổ tông?” Tôi lập tức đổi giọng, âm lượng hơi to hơn. “Họ Nguyên vốn là Tông thất của Bắc Ngụy, là một họ lớn trong Hoàng tộc, thời cổ là họ Thác Bạt, sau thời Hán hóa mới đổi thành Nguyên[2]. Mấy trăm năm nay vô cùng hiển hách, làm sao có thể đánh mất sự tôn quý chỉ vì con? Thanh Tỏa nguyện từ nay nghe theo lời sai khiến của cô mẫu, giúp Tể tướng đại nhân một tay để giữ vững địa vị tông thất của gia tộc Nguyên Thị chúng ta.” Những lời này của tôi tràn đầy nghĩa khí, đôi mắt long lanh nước nhìn Nguyên Thị, ra vẻ chí lớn đã quyết. Nhưng trong lòng tôi thì cười thầm, “Trình độ nói dối của mình quả là quá siêu đẳng. Bảo vệ địa vị tông thất của Nguyên Thị chính là giúp đỡ chồng bà (Vũ Văn Hộ) nắm đại quyền trong tay sao? Tôi cũng là họ Nguyên. Giả dụ ông chồng hữu danh vô thực Vũ Văn Dung của tôi lên làm Hoàng đế chỉ chẳng phải cũng là quang phục lại Nguyên Thị?”
[2] Lý Văn Đế Nguyên (Thác Bạc) Hồng của Bắc Ngụy vốn họ Thác Bạt, nhưng ba năm trước khi chết đổi thành họ Nguyên. Trong hai mươi chín năm thời gian ông tại vị, hành động quan trọng nhất và cũng gây nhiều tranh cãi nhất của ông là dời đô và Hán hóa.
“Thanh Tỏa, nghe những lời nói tự đáy lòng của con, cô mẫu thực sự đã có cái nhìn khác về con. Nhưng tình hình trong Tư Không phủ ta cũng biết đôi chút, Vũ Văn Dung chỉ giả bộ chấp nhận con vì nể tình cô phụ con, chỉ sợ rằng hắn không được tốt như những gì thể hiện.” Nguyên Thị tỏ vẻ hiền hòa, vỗ tay tôi, nhẹ nhàng. Nhưng trong lòng tôi lại thoáng run rẩy, xem ra ngoài tôi ra, trong Tư Không phủ, bà ta còn có tai mắt khác. Hơn nữa ý tứ của bà trong lời nói rõ ràng là muốn nói, Vũ Văn Dung chẳng buồn nhìn ngươi lấy một cái thì ngươi giúp ta được gì?
“Kì thực việc lấy lòng tranh sủng, Thanh Tỏa không phải là không biết, chỉ là một nam nhân như chàng, cho dù hôm nay chàng để mắt tới con thì ngày mai cũng sẽ bỏ con lại sau lưng? Con là người của phủ Tể tướng, thực ra từ thái độ của chàng đối với con là có thể biết chàng có thật lòng trung thành với cô phụ hay không. Chỉ cần con còn ở bên chàng một ngày thì cô phụ vẫn còn có thể nắm rõ trong tay hành tung của chàng.” Tôi nói khẽ, lời vừa thốt ra, cảm giác thanh âm mềm mại mà rõ ràng, như tiếng trân châu rơi xuống đĩa ngọc.
Tôi còn nhớ mang máng ngày trước khi ở thế giới hiện đại, lúc đọc thơ từ, tuy rằng tôi rất lười biếng nhưng thi thoảng cũng cảm thấy mình có thể nói ra hoa ra ngọc. Còn giờ đây, tôi lại dùng âm thanh này để nói ra âm mưu trong lòng, nói những lời đi ngược với trái tim.
“Hảo hài tử, lần này tới đây, quả nhiên con đã thoát thai hoán cốt, không ngờ có tâm tư cẩn mật như thế, quả không uổng công cô mẫu thương yêu con.” Nguyên Thị nở nụ cười hài lòng, tháo chiếc nhẫn đeo ở ngón trỏ ra đặt vào lòng bàn tay tôi, nói: “Không hổ danh là con gái của Nguyên gia, không có cái nhìn tầm thường, hạn hẹp như hạng phu nhân thông thường, chỉ biết giao cuộc đời của mình vào tay lũ nam nhân. Nữ nhân là phải biết tự tính toán cho mình.”
Suy nghĩ của Nguyên Thị quả là tiến bộ, rất hợp với ý tôi, bất giác tôi đánh giá bà cao hơn một chút, sắc mặt tỏ vẻ kinh ngạc, nói khẽ: “Ân tình của cô mẫu Thanh Tỏa xin nhận, nhưng vô công bất thọ lộc, chiếc nhẫn này quá quý giá, Thanh Tỏa không dám nhận.”
“Cho con thì con cứ cầm lấy.” Nguyên Thị lồng chiếc nhẫn vào ngón tay tôi, mỉm cười, đôi lông mày ngọc nhướng lên, thong thả nói: “Vô công bất thọ lộc, nhưng ta biết con sẽ lập công.”
“Tạ ơn cô mẫu!” Tôi cúi người xuống hành lễ, trong lòng thầm thở phào. Xem ra hiện nay tôi đã qua được cửa ải của Nguyên Thị, có sự giúp đỡ của bà, cho dù là ở phủ Tể tướng hay Tư Không phủ, tôi cũng sẽ có địa vị hơn. Chỉ có như vậy thì tôi mới có tư cách bàn điều kiện với Vũ Văn Dung.
Cáo từ Nguyên Thị, từ Đan Tĩnh Hiên đi ra, trời đã ngả hoàng hôn. Những bông hoa mẫu đơn rực rỡ đầy trong đình viện soi bóng dưới ánh chiều tà đỏ rực như lửa. Bởi vì cô mẫu đã cho kẻ hầu lui ra từ trước nên lúc này trong sân không một bóng người, tôi men theo con đường nhỏ khúc khuỷu đi qua một cánh cổng nguyệt nha[3]. Trước mắt bỗng nhiên mở ra một khoảng không rộng lớn, đó là một mặt hồ trong vắt, soi bóng xuân sắc cả khu vườn, ánh chiều tà chiếu xuống những gợn sóng lăn tan, khiến mặt nước như được dát vàng.
[3] Cổng nguyệt nha là cánh cổng hình trăng khuyết.
Một phong cảnh đẹp khiến tôi bất giác thấy thư thái cả người, thở dài một tiếng, giang hai cánh tay ra, vươn vai thật dài mà quên mất trong tay mình vẫn còn cầm chiếc nhẫn, nó bay lên cao rồi tôi mới ý thức ra mình vừa làm rơi đồ, quay đầu lại đã thấy chiếc nhẫn ngọc lăn tròn đi mấy trượng. Cúi người định nhặt nó lên thì thấy một bàn tay với những ngón tay trắng trẻo thuôn dài nhẹ nhàng giữ nó lại, giọng nam nhân lạnh lùng vang lên trên đầu, lạnh nhạt nhưng đầy châm biếm: “Đây là món đồ mà nàng phải cúi lưng quỳ gối mới lấy được, sao lại nỡ vứt lung tung thế này?”
Tôi sững lại, men theo gấu áo gấm màu trắng xanh nhìn lên trên, đối diện với một gương mặt thanh tú đến mức yếu ớt. Đó chính là đương kim Hoàng thượng Vũ Văn Dục, ngài mặc bộ quần áo bình thường, đứng trước mặt tôi, đôi mắt màu nâu nhạt tràn đầy vẻ thất vọng và khinh bỉ.
“Đúng là chẳng dễ dàng gì.”
Trong mắt ngài thoáng qua một tia phẫn nộ, nhưng tôi vờ như không thấy, bật cười rạng rỡ, nói với vẻ tự trào, rồi đưa tay ra: “Vậy xin Hoàng thượng hãy để vật về chủ cũ.”
Vũ Văn Dục thấy tôi có phản ứng như vậy thì hơi ngỡ ngàng. Lúc này tôi mới nhớ ra đây là thời cổ đại, gặp Hoàng thượng là một việc vô cùng trọng đại, lẽ ra phải tam bái cửu khấu. Nhưng tôi lúc này thực sự chẳng còn tâm trạng để mà thỉnh an ngài.
“Hôm qua sơ kiến[4], còn tưởng Nguyên cô nương là người khéo ăn khéo nói, tất sẽ coi thường danh lợi. Ban nãy đi qua, vô tình nghe thấy tiếng nữ nhi trong trẻo như tiếng trân châu rơi đĩa ngọc. Lời nói vẫn có đầu có cuối động lòng người nghe, nhưng giờ từng câu từng chữ lại khiến người ta vô cùng thất vọng.” Bàn tay Hoàng thượng dừng trong không trung, đặt chiếc nhẫn trả lại vào lòng bàn tay tôi, tiếng thở dài rất nhẹ, trong mắt liếc qua một vẻ nuối tiếc rất chân thành.
[4] Sơ kiến: Lần đầu gặp mặt.
Tôi bỗng dưng thấy tim mình ấm áp một cách kỳ lạ, sự thất vọng của ngài ngày hôm nay cũng là vì ngài đã từng thực sự quý mến tôi. Tôi vô thức ngước mắt lên nhìn Vũ Văn Dục, cảm thấy trên gương mặt anh tuấn trẻ trung của ngài hiển hiện một sự phẫn nộ và bất lực, dường như vô cùng thống hận cái thời buổi loạn thế này, nhưng lại không thể lún sâu vào trong đó, có một cảm giác cao thượng và cô đơn dù rằng đứng giữa muôn người.
Có lẽ Hoàng đế cũng không phải là người vô năng, chỉ là ngài đã quá chân thành, không biết cách che giấu nên mới không thể che giấu được ánh sáng của mình, cuối cùng bị Vũ Văn Hộ đầu độc chết.
Nghĩ tới đây, trong lòng tôi bất giác thấy xúc động, cất đi vẻ mặt phớt đời của mình, nhẹ giọng nói: “Hoàng thượng đã bao giờ từng nghĩ tới những thứ người muốn đạt nhất là gì chưa?” Chủ đề thay đổi quá nhanh khiến Vũ Văn Dục sững lại, nhất thời không trả lời được.
“Để có được thứ mình muốn nhất, luôn phải hi sinh một cái gì đó. Có những lúc, vì mục đích đó mà làm những việc mình không muốn làm, đó cũng là điều khó tránh.” Tôi thở dài, u buồn nói.
Trong lòng tôi nào phải không oán hận cái hoàn cảnh này, để bảo toàn bản thân mà phải luồn cúi người khác, nói những lời không muốn nói, làm những việc không muốn làm. Tôi thực sự hận mình không thể về thế giới hiện đại. Nếu cho tôi một cơ hội mới, tôi chắc chắn sẽ trân trọng cuộc sống trên ghế nhà trường mà mình đã từng căm ghét.
Thấy tôi nói rất chân thành, Vũ Văn Dục thoáng tỏ vẻ kinh ngạc, đôi mắt nâu nhạt ngỡ ngàng nhìn tôi.
“Thanh Tỏa ngu muội, chỉ là cảm thấy có những lúc mềm thì nắn, rắn thì buông, thuận theo thời thế cũng không phải là việc xấu. Muốn đạt được mục đích thì trước tiên phải bảo toàn cho mình, chẳng phải sao?” Những lời này không hiểu tôi nói với ngài hay nói với chính mình, tôi bỗng thất thần, nắm chặt chiếc nhẫn trong lòng bàn tay, hành lễ một cách cung kính và xa cách, lên tiếng: “Trời không còn sớm nữa, Thanh Tỏa xin cáo lui.”
Vũ Văn Dục có vẻ trầm tư suy nghĩ, gợn sóng trong đáy mắt chuyển động, dường như đang nghiền ngẫm những lời tôi vừa nói. Sau khi đã đi rất xa rồi, tôi không kìm được liền quay đầu lại nhìn, thấy ngài vẫn đứng bất động ở nơi cũ, hoang mang nhìn về phía tôi vừa rời đi. Dưới gốc cây hoa quế, những cánh hoa trắng như tuyết đậu lên vạt áo trắng xanh của ngài, nghĩ tới vị Hoàng đế tao nhã này cuối cùng bị người ta đầu độc chết, trong lòng bất giác thấy nỗi buồn khôn tả.
Quay đầu lại, nỗi thương xót trong mắt vẫn chưa kịp tan đi thì vừa đi qua những thân cây xanh mướt, tôi thoáng thấy một bóng người cao lớn, một bộ y phục màu xanh khổng tước, nơi thắt lưng đeo một viên ngọc bội cùng màu với cái đai lưng có cúc bằng bạch ngọc. Bóng người đó chắp tay sau lưng, đứng sau gốc hoa lê ở cách đó không xa, đang nhìn tôi chăm chú, đôi mắt đen láy sâu thẳm thật khó dò. Nhìn kỹ lại, hóa ra là Vũ Văn Dung. Giây phút ánh mắt chạm vào nhau, chàng vội vã quay người đi, cứ như thể không nhìn thấy tôi, rồi nhanh nhẹn đi về phía trước.
Tôi hơi sững người lại, vô thức đi sau lưng chàng, từng bước từng bước đi theo. Những lời tôi vừa nói với Vũ Văn Dục, chàng nghe được bao nhiêu? Những lời tôi nói với Nguyên Thị trong Đan Tĩnh Hiên, chàng biết được bao nhiêu? Nếu đã nghe thấy hết rồi thì vì sao chàng không tới chất vấn tôi như thường lệ? Tôi còn nhớ mang máng, trong sách sử đã hình dung Vũ Văn Dung như một minh quân của Bắc Chu, anh minh thần võ. Giờ xem ra quả nhiên tôi không nhớ lầm, tuy rằng chàng còn trẻ tuổi, nhưng đã có tâm tư thâm sâu khó lường.
Trong Ngọc Lâm Uyển rộng lớn lúc này chỉ còn lại hai chúng tôi, mặt trời đã ngả về Tây, sắc trời tối lại, xung quanh bốn bề yên tĩnh đến độ có thể nghe thấy tiếng chân chàng đạp lên những chiếc lá khô. Tôi nhẹ nhàng dừng bước, nghĩ bụng cách chàng xa một chút thì tốt hơn. Nhưng đằng trước lại vang lên một giọng nói thánh thót như chuông bạc: “Tiểu nữ Nhan Uyển tham kiến Tư Không đại nhân.”
Là nàng ta! Tôi giật mình, nép mình ra sau gốc hoa lê theo phản xạ, lưng dựa vào thân cây, từng cánh hoa lê rơi xuống như một chiếc rèm châu đung đưa trước mặt tôi.
“Giữa vườn tình cờ gặp giai nhân, đúng là may mắn của bổn nhân.” Lén đưa mắt nhìn ra Vũ Văn Dung thoáng dừng lại, hình như hơi quay đầu về phía tôi nép, chắp tay sau lưng, mắt nhìn Nhan Uyển, giọng nói thì vô cùng phong lưu. Tôi quay đầu lại, thầm chửi một tiếng, “Đúng là đồ dê xồm!”
“Không biết Tư Không đại nhân còn nhớ Uyển nhi không? Hồi nhỏ chúng ta từng gặp nhau trong phủ Tể tướng.” Giọng nói của Nhan Uyển chứa đầy sự e thẹn. Tôi hơi ngỡ ngàng, lẽ nào nàng ta thích Vũ Văn Dung?
“Ồ, đương nhiên còn nhớ. Nhan cô nương là tứ tiểu thư của nhà Kinh lược, rất biết làm canh hạt sen.” Vũ Văn Dung cười nói, giọng nói cao quý mà xa cách, lại còn một vẻ trầm ấm rất quyến rũ. Tôi bất giác lườm hắn một cái, trong lòng cười thầm, thiên hạ này hóa ra vẫn còn chuyện như thế, chồng mình trêu ghẹo người con gái khác, vợ thì đứng trốn sau gốc cây, không dám lộ mặt.
“Không ngờ Tư Không đại nhân còn nhớ Uyển nhi.” Trong giọng nói của Nhan Uyển chất chứa niềm hân hoan và xúc động, nũng nịu nói, “Đây là canh hạt sen mà thần thiếp đích thân nấu, mời đại nhân nếm thử để xem tay nghề của Uyển nhi có tiến bộ hay không?”
“Đa tạ thành ý của tiểu thư.” Vũ Văn Dung nhận cái lồng ngọc trong tay nàng ta, dịu dàng nói tiếp: “Không còn sớm nữa, hay là ta đưa tiểu thư về phòng nghỉ ngơi, tối nay còn có yến tiệc nữa đấy.”
“Vậy phiền Tư Không đại nhân.” Trong giọng nói của Nhan Uyển dường như không muốn nhưng lại vô cùng e thẹn.
Hừ, hắn đúng là dịu dàng chu đáo! Tôi liếc hai người sánh vai nhau bỏ đi, hoàng hôn đẫm sắc đỏ, nhìn từ đằng xa, đúng là tài tử giai nhân. Tôi lắc đầu, thở dài trong lòng, nếu cô gái đó thực sự yêu Vũ Văn Dung thì chắc chắn hắn cũng chỉ trêu hoa ghẹo nguyệt vài ngày, rồi thì nàng ta sẽ lại chìm đắm trong đau khổ mà thôi.