Thủy Hử - Chương 54 - Phần 2

Tiều Cái bèn truyền lệnh thủy quân, đóng yên Thủy Trại, đêm ngày canh phòng cho cẩn thận, đề phòng địch tràn qua, và mời Tống Giang lên núi để yên nghĩ. Tống Giang không chịu lên núi, liền hạ trại ở bến Áp Thủy, rồi cho các tướng bị thương lên núi để dưỡng bệnh.

Sa trường muôn dặm cát bay,

Anh hùng thua được xưa nay chuyện thường,

Ba quân bền giữ gan vàng,

Nước non có hội phong quan ngại gì?

Nói về Hô Duyên Chước thu quân đắc thắng trở về trong trại, tháo ngựa Liên Hoàn, thưởng công các tướng, tính tất cả giết chết quân rất nhiều, bắt sống được năm trăm người và hơn ba trăm ngựa chiến. Hô Duyên Chước liền cho người về báo tiệp ở kinh sư, rồi nhất diện khao thưởng quân ở trại. Bấy giờ Cao Thái Úy ở kinh sư nghe tin Hô Duyên Chước đánh được giặc Lương Sơn Bạc, sai người về báo tiệp, thì hớn hở vui mừng đến ngày hôm sau vào tâu cho Thiên Tử biết. Thiên Tử nghe tin cả mừng liền lấy mười bình rượu ngự, một áo cẩm bào, và mười vạn quan tiền, phái một viên Sứ Quan đem ra cho Hô Duyên Chước, và khao thưởng ba quân. Khi Sứ Giả tới nơi Hô Duyên Chước cùng Hàn Thao ra ngoài hai mươi dặm đón tiếp vao trong trại, lạy chịu ơn vua, đặt tiệc đãi Sứ Giả, rồi sai Hàn Thao chia tiền thưởng quân và đem năm trăm người mới bắt đem giam trong trại, để đợi khi được đầu đảng sẽ giải kinh sư.

Quan Sứ thân hỏi Bành Đoàn Luyện, Hô Duyên Chước liền đáp rằng:

- Bữa trước mới kéo quân đến đây, vì ham bắt Tống Giang, vào gần đất giặc, nên bị gian đồ bắt mất, nhưng ngày nay chắc là quân giặc không dám thò ra nữa. Vậy tôi định phân binh để đánh kỳ cho phá hết sơn trại, lấp phẳng thủy nhai, bắt cả gian tặc, mà phá tan sào huyệt mới nghe. Song còn hiềm một nổi bốn mặt toàn thị hồ nước, không có đường lên, vậy duy còn có cách dùng súng hỏa bác mà bắn đánh, thì thể nào cũng có thể phá được. Trước đây tôi nghe ở kinh sư có một người tên là Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn, chế súng Hỏa Bạc có thể bắn xa tới mười bốn mười lăm dặm, đạn đá đến đâu, đất lỡ trời long, núi tan đá vỡ đến đó.Vả chăng người đó võ nghệ tinh thông, cung tên thạo giỏi, nếu được Thiên Sứ về kinh, nói Quan Thái Úy cho người đó ra đây, thì thế nào cũng có thể phá tan quân giặc ngay.

Thiên Sứ nghe nói vâng lời, rồi sáng hôm sau bái biệt trở về kinh sư, Thiên Sứ vào chào Cao Thái Úy, đem lời của Hô Duyên Chước thuật lại cho Cao Thái Úy nghe. Cao Thái Úy cả mừng, lập tức cho đòi quan phó sứ kho Giáp Trượng là Lăng Chấn đến.

Nguyên Lăng Chấn, người ở Lăng Yên, là một tay võ nghệ cao cường, làm nghề chế súng rất giỏi ở triều nhà Tống, nên vẫn gọi là Oanh Thiên Lôi xưa nay. Bấy giờ Oanh Thiên Lôi đến bái kiến Cao Thái Úy, Thái Úy cấp văn bằng trao cho làm chức Thống Lĩnh Hành Quân, truyền lệnh sắp sửa yên mã khí giới để ra đi lập tức. Lăng Chấn vâng lệnh ra về sửa soạn các đồ dùng, chế thuốc làm súng cùng các thứ giá súng đạn, xếp cả lên xe, và sắp đủ cung đao mã giáp, dẫn ba bốn mươi tên quân hoá đi ra địa phận Lương Sơn. Khi ra tới trại, Lăng Chấn chào chủ Tướng là Hô Duyên Chước, và Tiên Phong là Hàn Thao, rồi thăm dò các nơi xung yếu ở sơn trại, và đặt ba thứ súng để đánh. Ba thứ súng đó một là Phong Hỏa Bác, hai là Kim Luân Bác, ba là Tử Mẩu Bác, đều sai đặt giá súng ở bên Bến Nước, để phòng bị sẵn sàng ở đó.

Khi đó Tống Giang ở trong tiểu trại trên bến Áp Chủy, đương cùng với quân sư Ngô Học Cứu, để bàn cách phá quan quân. Bỗng thấy người vào báo, nay có một tay giỏi nghề súng đạn, tên là Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn, ở đông kinh mới đến trại quân, hiện dã dựng các giá súng ở Bến Nước, để sắp sửa đánh vào sơn trại nay mai. Ngô Dụng nghe báo, bảo với Tống Giang rằng:

- Sơn trại đây, bốn mặt toàn thị là hồ nước, thành Uyển Tử cách nước lại càng xa, dẫu có Phi Thiên Hỏa Bác cũng khó lòng mà đánh vào ngay được. Nay hãy tạm bỏ tiểu trại này, mà đóng cả ở trên núi, xem họ đánh chác ra sao rồi ta sẽ liệu.

Tống Giang nghe nói, liền bỏ tiểu trại ở bên Áp Chủy, mà kéo về tất cả ở trên sơn trại. Tiều Cái, Công Tôn Thắng đón tiếp vào Tụ Nghĩa Sảnh mà hỏi rằng:

- Nay quân giặc đã dùng thứ súng như vậy, thì ta dùng cách nào để đối địch cho lại?

Vừa hỏi được một câu, thì bỗng thấy có ba tiếng súng nổ luôn, đánh vào Thủy Trại ngoài bến Áp Chủy. Tống Giang thấy vậy, trong lòng bối rối lo âu, cùng các vị Đầu Lĩnh đều thất sắc ngây người không biết làm sao cho được.

Ngô Học Cứu nói bàn rằng:

- Bây giờ nếu có một người dụ được Lăng Chấn vào gần Bến Nước mà bắt được hắn, thì mới có thể bàn đánh phá quân giặc được.

Tiều Cái nói:

- Nếu vậy thì ta cho Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, ba anh em họ Nguyễn, đem thuyền ra Bến Nước cứ thế này... mà làm. Trên bờ thì Chu Đồng, Lôi Hoành thì cứ theo cách thế này... mà tiếp ứng, thì may ra có thể thành công được.

Sáu vị Đầu Lĩnh coi thủy trại đều vâng lời, rồi Lý Tuấn cùng Trương Hoành dẫn bốn năm mươi tên thủy thủ rất thạo, chèo hai cái thuyền, theo đám lau lách đi trước, Trương Thuận cùng ba anh em họ Nguyễn dong hơn bốn mươi chiếc thuyền nhỏ, tiếp ứng theo sau. Khi Lý Tuấn, Trương Hoành ra đến ngoài bến, liền nhảy lên bờ đến chỗ giá súng của Lăng Chấn mà reo hò toan kéo đổ. Quân sĩ thấy vậy liền vào báo với Lăng Chấn. Lăng Chấn nghe báo, vội lấy hai khẩu súng phong hỏa, rồi cắp dao lên ngựa, dẫn hơn nghìn quân hăm hở đuổi theo.

Lý Tuấn, Trương Thuận thấy vậy liền dẫn người chạy thẳng. Lăng Chấn hất hả chạy đuổi theo đến bên gần Bến Nước, thấy có một dãy hơn bốn mươi chiếc thuyền nhỏ, và có hơn trăm quân thủy ở đó. Bấy giờ Lý Tuấn, Trương Thuận nhảy xuống cả thuyền, cố ý trùng trình không đẩy thuyền ra vội. Khi trông thấy nhân mã của Lăng Chấn tới nơi, thì kêu gọi ầm ĩ, rồi nhảy xuống cả nước một lượt.

Lăng Chấn thấy vậy, liền đến cướp cả thuyền, Chu Đồng, Lôi Hoành đứng đối ngạn bên kia liền đánh trống reo hò ầm cả lên. Lăng Chấn cướp được dãy thuyền, bèn sai quân kéo cả xuống thuyền chèo chở quay vào để đánh. Khi đến giữa dòng nước, chợt thấy Chu Đồng, Lôi Hoành ở trên bờ đánh một hồi chuông, liền ở dưới nước có bốn năm mươi tên thủy quân, nhoi lên nhổ hất tất cả lái thuyền, làm cho nước chảy vào thuyền như suối vậy. Đoạn rồi đám thủy quân thừa thế, mà đánh lật đổ cả thuyền, các quân sĩ trong thuyền đều bị lăn xuống nước cả. Lăng Chấn thấy vậy toan quay thuyền trở lại, thì bỗng thấy thuyền mình cũng mất cả bánh lái, nước rĩ vào thuyền như suối chảy, rồi hai bên có hai tên Đầu Lĩnh nhoi lên đánh đổ lật thuyền cho Lăng Chấn ngã lăn xuống nước. Bấy giờ Nguyễn Tiểu Nhị chực sẵn dưới thuyền, vớ được Lăng Chấn, liền ôm choàng lấy mà kéo lên trên bờ. Lên đến bờ, có người tiếp tay, mà trói Lăng Chấn lại, giải lên trên núi. Đám quân lính ở dưới này bắt được hai trăm người còn sống. Còn thì chết đuối quá nửa, và có mấy người chết hụt, chạy về báo cho Hô Duyên Chước biết.

Hô Duyên Chước nghe báo, lập tức dẫn quân ra đuổi. Khi tới nơi, đã thấy các thuyền trở về bến Áp Chủy, người không thấy một ai, mà cung tên bắn cũng không sao tới. Hô Duyên Chước lấy làm căm tức vô cùng, song không làm thế nào được, đành phải nín hơi nuốt giận, mà dẫn quân mà lui về. Bên kia bọn Đầu Lĩnh bắt được Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn, giải về trên núi liền cho người báo với Tống Giang. Tống Giang dẫn hết thảy các Đầu Lĩnh trong Trại, đi xuống cửa quan thứ nhì để đón tiếp.

Khi trông thấy Lăng Chấn, Tống Giang thân hành cởi trói ra, rồi giận mắng chúng rằng:

- Tao bảo các ngươi đón mời Thống Lĩnh lên núi tử tế, sao các ngươi xử vô lễ như thế?

Lăng Chấn nghe nói lấy làm cảm tạ vô cùng, Tống Giang liền nâng chén rượu tiếp phong rồi bắt tay mời lên trên núi. Được một lát, lên tới Đại Trại, Lăng Chấn trông thấy Bành Dĩ cũng dự ở đó, trong lòng rất lấy làm phân vân, không biết nói sao cho được? Bành Dĩ khuyên Lăng Chấn rằng:

- Hai vị Đầu Lĩnh Tiều, Tống thay Trời làm Đạo, chiêu nạp hào kiệt, mong trừ những sự bất bình, để giúp cho nhà cho nước... vậy chúng ta đến đây, chỉ nên theo mệnh là hơn.

Tống Giang cũng lấy lời uyển chuyển mà dỗ dành Lăng Chấn vào đảng. Lăng Chấn đáp rằng:

- Tiểu đệ ở đây hầu các ngài cũng được, không lấy gì làm ngại. Duy còn mẹ già cùng vợ con ở cả kinh sư, nếu lỡ ra ai biết tất là nguy hiểm đến tính mạng, vậy biết làm sao cho tiện được?

Tống Giang nói:

- Cái đó Thống Lĩnh bất tất phải quan tâm, mấy hôm nữa, tôi xin cho người đón về đây lập tức.

Lăng Chấn tạ rằng:

- Nếu được Đầu Lĩnh chu toàn như thế, thì chúng tôi dẫu chết cũng cam tâm.

Tiều Cái liền đặt tiệc ăn mừng, và thưởng cho quân sĩ. Ngày hôm sau các vị Đầu Lĩnh cùng bàn kế để phá ngựa Liên Hoàn. Chợt thấy Kim Báo Tử Thang Long đứng lên nói:

- Tiểu Đệ nghĩ được một kế này, tất phải nhờ đến một thứ khí giới kia, và một người Ca Ca tôi mới có thể phá trận Liên Hoàn được.

Ngô Dụng đón lấy nói:

- Nếu được như vậy, thì còn gì hơn nữa? Người ấy là ai? Dùng thứ quân khí gì? Xin hiền đệ cho được biết.

Thang Long vâng lời, liền chắp tay đến trước để kể tên người đó cho các vị Đầu Lĩnh nghe. Mới hay:

Đã nên khẳng khái ra đời,

Làm cho động đất kinh trời mới nghe

Tuồng gì bọ nước xăm xoe,

Mũ cao áo rộng toan đè nén nhau.

Giống người ai kém ai đâu,

Quyết đem máu đỏ mà lau gươm thù.

Có công tất cũng nên trò,

Cái gương công lý ngàn thu vẫn còn.

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi này ba đoạn văn tự một đoạn tả Tống Giang phóng quân xa; Một đoạn Hô Duyên Chước liên hoàn quân; đều là những văn rất tinh thần biến động. Một đoạn tả bắt Lăng Chấn, coi như bắt trẻ con, sở dĩ như thế, là trước khi tác giả chưa hạ bút, trong vốn có một tứ lạ tả Liên Hoàn Mã, chẳng tiện đột nhiên mà tả ra, cho nên trên chữ Liên Hoàn, điên đảo sinh ra hai chữ Phóng xa quân, trước đoạn văn (Liên Hoàn) lại có một đoạn văn Phóng xa, khiến độc giả choáng mắt vì lạ, song bỗng đâu một biến, biến ra thứ trận như bài sơn đảo hải.

Nay thử xem phóng xa coi khinh, liên hoàn thấy trọng, đem khinh dẫn trọng là một lạ vậy. Phóng xa liên hoàn một bầy, lấy từng đội dẫn cả bầy, là hai lạ vậy; Phóng xa các người tự chiến, liên hoàn nhất tề tiến ra, là ba lạ vậy; Phóng xa chợt tan chợt hợp, liên hoàn liền khóa với nhau, đem ly dẫn hợp là bốn lạ vậy; Phóng xa tiền quân thua, chuyển làm hậu quân, liên hoàn không trước không sau, thẳng xông ra vậy, đem tiền chuyển hậu dẫn ra không hậu không tiền, là năm lạ vậy; Phóng xa có tiến, có thoái liên hoàn chỉ tiến không thoái, đem tiến thoái dẫn ra tiến thôi, là sáu lạ vậy; Phóng xa tả nhân, liên hoàn tả mã, lấy nhân dẫn mã là bảy lạ vậy. Xem thế một đám hoa đống gấm văn chương, chỉ do một trận Liên Hoàn tả ra, rồi sau đến đoạn thứ hai tả đến bản đề, song lại chăng vội thu kết ngay nữa; lại từ chỗ ngựa nảy ra súng, làm một chót đuôi, song lại sợ hai phen chiến trận nguy nan, mà tả đến dụng súng, khiến văn tự thụt đi không nổi lên, mớt đem bút rồi, mực đương, tả bắt Lăng Chấn như đồ trẻ con vậy. Hỡi ôi! Chỉ vì một đoạn hoá ra ba đoạn, đáng bảo là trong khoảng một đoạn rất khéo biến ra, mà hai đoạn trước sau cũng chỉ là một đoạn giữa nối liền làm một, mà mỗi một đoạn một biến rất khéo, nào ai muốn nổi lên tranh cái tiếng tài tử với tác giả kia, ta thấy rõ ràng là không thể sánh kịp.

Trước sau hai đoạn đều rất khéo biến ra kia, như đoạn trước tả phóng xa quân, khi mỗi một đội muốn đi, phải có trước một đội tiếp hậu, một tiếp một chờ, ví như lông cánh vịt vậy. Thi Nại Am lại bỗng đâu tính đến khi đội thứ năm muốn đánh, phải tiến xa mười viên tướng áp hầu, như lộ ngấn tích, bèn khiến hai chữ "Phóng xa" cả thua, mới đem đội thứ năm tiếp chiến bèn tả Tống Giang đem mười viên tướng, cho khỏi cái lỗi đứt nối vậy. Song lại tính đến một thiên chương pháp, trong đội thứ năm lại biến khác ra, chỗ đó vẫn lộ ngấn tích, đánh đến chuột chạy cùng đường, ở chỗ đội thứ tư khi tiếp chiến, tả đến đội thứ năm đã đến sớm làm phảng thấn, thực khổ tâm thay cho một thợ lành nghề văn tự.

Lại như trước một đoạn tả đội thứ năm Phóng xa quân, một đội thắng một đội, vốn thế vậy, khi đến đội thứ tư, bỗng đâu trên trận bay ra ba khẩu đao, đã mà một biến, biến ra hai khẩu đao hai chiếc roi biến ra hai chiếc roi, càng biến càng lạ, càng lạ càng kinh, càng kinh càng vui, thực văn chương xem thấy thú!

Một đoạn sau Tiều Cái truyền lệnh, hãy mời Tống Giang về núi, Tống Giang cố ý chẳng chịu, đọc đến cho rằng, ý bảo diệt kẻ kia chỉ trong một sớm một chiều, biết đâu chính vì mưu để thu súng Lăng Chấn, đó là bút pháp tuyệt kỳ, chẳng phải bút mực tả ra mà được?

Lại như cần tả đến dùng súng, lại tả ra phép bắn súng ở chỗ chẳng gần cũng chẳng xa, nay xem chỗ Lăng Chấn tới, chỉ là ca ngợi, đặt giá súng để bắn, thấy uy thế của chúng, làm cho Tống Giang phải bỏ trại thu quân lẩn về núi, thực là bút pháp tuyệt kỳ, chẳng phải bút tục tả ra mà được?

Tả tiếp luôn sự dùng súng, bắn ba chỗ, lại nói ra rằng, hai chỗ bắn khắp mặt nước, một chỗ bắn vào trong tiểu trại, tả hai chỗ bằng khắp mặt nước cho rõ thủy bạc rộng rãi, một chỗ bắn vào tiểu trại cho rõ sức súng rất xa mạnh!

Đến như sau là trước hồi này, lại có riêng bút khéo tài tình, như sắp tả Liên Hoàn Mã đã tả trước một ngự mã ban cho để dẫn ra; sắp tả áo giáp Từ Ninh, lại tả trước bao nhiêu giáp binh mã để dẫn ra, bao nhiêu ngựa liên hoàn, chỉ một ngựa vua ban làm điều động, đều chẳng phải bút pháp tầm thường mà tả nổi như thế!