Đêm qua anh ở đâu? - Chương 14 - Phần 1
14
Chỉ mới cởi quần áo thôi mà
Nola đã thu xếp cho xe đợi ở một ngã tư định trước đằng sau sân vận động Staples Center, và nhờ vào phép mầu nào đó - hoặc vì thực tế là thường chẳng ai bỏ về giữa chừng buổi lễ cả - cô đã chuồn ra được qua cửa sau và lên chiếc xe đang đợi mà không bị bọn săn ảnh đeo bám. Va li của cô để mở ở ghế sau, và tất cả đồ đạc được xếp gọn gàng nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của một nhân viên ở khách sạn Beverly Wilshire. Lái xe nói rằng ông ta sẽ để cô được riêng tư một lát trong lúc cô thay chiếc đầm bằng quần áo đi phố bình thường của cô.”
Cô nhanh chóng thay đồ rồi gọi điện cho Nola. “Sao mà cậu có thể thu xếp được những việc này?” cô hỏi ngay mà không chào bạn. “Cậu có tiền đồ xán lạn để làm một trợ lý đấy.” Thà rằng đùa cợt còn dễ chịu hơn là cố gắng miêu tả cho bạn buổi tối nay đã diễn ra như thế nào.
“Này, đừng tưởng bở cậu sẽ thoát được nhé - tớ muốn nghe tuốt tuột - nhưng kế hoạch có thay đổi một chút.”
“Kế hoạch thay đổi một chút á? Đừng nói với tớ rằng tớ phải ở lại đây đêm nay đấy chứ.”
“Cậu không phải ở lại đấy, nhưng cũng không thể về đây được. Bọn săn ảnh đã bu đầy quanh nhà tớ rồi. Phải có đến tám, có thể là cả chục gã ấy. Tớ đã rút dây điện thoại cố định ra rồi. Nhà tớ mà còn thế này thì tớ không thể tưởng tượng được nhà cậu sẽ thế nào. Tớ tuyệt nhiên không nghĩ rằng cậu muốn đương đầu với bọn này đâu.”
“Nola, tớ xin lỗi.”
“Ồ thôi nào! Cho đến giờ thì đây là việc thú vị nhất từng xảy ra trong đời tớ đấy, nên cậu đừng có mà nói nữa. Tớ chỉ tiếc là sẽ không được gặp cậu. Tớ đặt vé cho cậu trên chuyến bay của Hàng không Hoa Kỳ bay thẳng sang Philadelphia, và tớ đã gọi báo cho mẹ cậu rồi. Cậu cất cánh lúc mười giờ tối nay và đến nơi lúc gần sáu giờ sáng. Mẹ cậu sẽ đón cậu ở sân bay. Tớ hi vọng thế cũng ổn?”
“Cảm ơn cậu. Tớ cảm ơn mấy cũng không vừa. Còn trên cả ổn ấy chứ.”
Lái xe vẫn đứng ngoài, đang nói chuyện trên điện thoại di động, và Brooke muốn khởi hành trước khi ai đó phát hiện ra họ.
“Hãy đi đôi tất thật đẹp vào phòng khi cậu phải cởi giày ở cửa an ninh hàng không, vì tớ đảm bảo ở đó thế nào cũng có kẻ chụp ảnh cậu. Cười tươi hết cỡ rồi đến phòng chờ hạng thương gia - khả năng là họ sẽ không có ở đó.”
“Nhất trí.”
“À, mà nhớ để lại những thứ cậu thuê trên ghế sau ô tô ấy nhé. Ông lái xe sẽ trả tất cả mọi thứ về khách sạn và họ sẽ đảm bảo trả lại chúng cho nhà tạo mẫu.”
“Tớ không biết cảm ơn cậu thế nào được đây.”
“Ơn với huệ gì, Brooke. Cậu sẽ làm điều hệt như thế cho tớ nếu chồng tớ thành siêu sao trong một sớm một chiều và tớ bị bọn săn ảnh săn đuổi. Tất nhiên thế có nghĩa là tớ phải có một ông chồng thực thụ đã, điều mà cả hai bọn mình đều biết là rất ít khả năng xảy ra, và có nghĩa là ông chồng giả định đó của tớ phải có tí tẹo tài năng, mà điều này còn ít khả năng xảy ra hơn nữa...”
“Tớ mệt quá không tranh luận được, nhưng hãy nhớ rằng hiện giờ những cơ hội thành công của cậu trong hạnh phúc và tình yêu lớn hơn cơ hội của tớ đến, ờ, phải đến hàng chục ngàn lần ấy, vậy thôi đừng có nói nhăng nói cuội nữa đi. Tớ yêu cậu lắm.”
“Tớ cũng yêu cậu. Nhớ đấy - bít tất thật đẹp và gọi cho tớ.”
Trong thời gian ô tô đi từ sân vận động Staples Center đến sân bay Los Angeles, cô cẩn thận gói bộ váy đầm vào túi đựng quần áo được cấp sẵn, nhét đôi giày vào túi đựng giày, và xếp đồ trang sức và chiếc xắc gọn gàng vào những chiếc hộp bọc nhung xếp thành chồng trên ghế xe cạnh cô. Chỉ đến lúc cởi chiếc nhẫn mặt kim cương đại tướng từ ngón đeo nhẫn trái ra cô mới nhận thấy rằng nhà tạo mẫu vẫn giữ chiếc nhẫn cưới bằng vàng trơn của cô, và cô ghi nhớ trong đầu là phải nhắc Julian bảo cô gái kia trả lại nó. Cô cố cưỡng lại sự thôi thúc cho rằng đó là một dấu hiệu nào đó.
Hai ly Bloody trên máy bay và một viên thuốc ngủ Ambien đảm bảo một giấc ngủ lịm dài năm tiếng đồng hồ cực kỳ cần thiết đối với cô, nhưng phản ứng của mẹ cô ở chỗ nhận hành lý đã cho thấy là nó chẳng là điều kỳ diệu nào cho dung nhan của cô cả. Brooke mỉm cười vẫy tay khi nhìn thấy mẹ mình ở cuối cầu thang cuốn và suýt nữa thì va phải người đàn ông đứng trước mặt cô.
Mẹ cô ôm cô thật chặt, rồi đẩy cô ra cách bà một sải tay. Bà ngắm nghía bộ quần áo thể thao bằng nỉ, đôi giày đế mềm và mái tóc buộc đuôi ngựa của Brooke rồi tuyên bố, “Trông con khiếp quá.”
“Cảm ơn mẹ nhé. Con cũng thấy mình luộm thuộm quá.”
“Nào ta đưa con về nhà nào. Con có gửi hành lý không?”
“Không, chỉ có thế này thôi ạ,” Brooke nói và chỉ vào chiếc va li có bánh xe của mình. “Một khi ta phải trả lại hết váy, giày, túi, trang sức và đồ lót đi mượn thì chẳng còn mấy đồ đạc để đóng gói cả.”
Mẹ cô bắt đầu len lỏi qua mọi người để đi về phía thang máy. “Mẹ đã tự hứa rằng mẹ sẽ không hỏi một câu nào cho đến khi con sẵn lòng tâm sự.”
“Cảm ơn mẹ, con cảm kích về điều đó.” ‘
“Thế nên...”
“Thế nên sao ạ?” Brooke hỏi. Họ bước ra khỏi thang máy. Luồng hơi lạnh ở Philadelphia ập mạnh vào người cô, cứ như cô cần được nhắc nhở rằng cô không còn ở California nữa.
“Thế nên... mẹ sẽ luôn ở đó, chờ đợi, phòng khi con muốn tâm sự về bất kỳ điều gì cũng được.”
“Tốt lắm, cảm ơn mẹ.”
Mẹ cô giơ hai tay lên trời trước khi kéo mở cửa xe ô tô “Kìa Brooke! Con đang tra tấn mẹ đấy.
“Tra tấn mẹ ấy ạ?” Brooke giả tảng không tin. “Con đang chấp nhận lời đề nghị rất ân cần của mẹ để cho con được nghỉ xả hơi một chút đấy chứ.”
“Con biết tỏng là đề nghị đó không thật lòng mà!”
Brooke nâng chiếc va li của cô lên cốp xe rồi ngồi vào ghế bên. “Con có thể nghỉ ngơi thư giãn suốt đường về nhà trước khi cuộc thẩm vấn bắt đầu không mẹ? Tin con đi một khi mẹ khơi chuyện rồi là mẹ không thể bắt con ngừng nói được đâu đấy.”
Cô nhẹ cả người khi mẹ cô chỉ chuyện gẫu suốt đường về đến căn hộ của bà trong trung tâm thành phố, kể với Brooke về tất cả những người bà đã gặp ở câu lạc bộ chạy thể thao mới. Thậm chí đến lúc họ đỗ xe trong ga ra dưới tầng hầm tòa nhà và vào thang máy để lên căn hộ hai giường ngủ trên tầng năm thì bà vẫn cứ vui vẻ độc thoại triền miên. Chỉ đến khi họ bước vào trong phòng và đóng cửa lại thì bà mới quay lại phía Brooke, cô đã chuẩn bị tinh thần đương đầu.
Mẹ cô, trong một phút gần gũi hiếm hoi, đưa bàn tay khum khum lên áp vào má Brooke.
“Trước hết, con đi tắm đi đã. Có sẵn mấy cái khăn sạch trong nhà tắm rồi và mẹ đã để loại nước gội đầu oải hương mới mà mẹ rất thích trong ấy. Sau đó con phải ăn. Mẹ sẽ làm trứng cuộn cho con - chỉ lòng trắng thôi, mẹ biết rồi - và một ít bánh mì nướng. Rồi con đi ngủ. Mắt đỏ là tệ lắm, và mẹ đoán rằng con chẳng ngủ được mấy trên máy bay. Phòng ngủ thứ hai đã được trải chăn ga gối sẵn sàng rồi và mẹ đã bật điều hòa ở mức cao nhất rồi.” Bà rụt tay lại và đi về phía bếp.
Brooke thở hắt ra, kéo chiếc va li vào phòng ngủ, và đổ vật xuống giường. Cô ngủ thiếp đi trước khi kịp cởi giày.
Rốt cuộc, khi cô tỉnh giấc vì buồn tiểu đến mức không thể nhịn thêm được nữa thì mặt trời đã xế bóng đằng sau tòa nhà. Đồng hồ chỉ bố giờ bốn mươi lăm phút và cô nghe thấy mẹ cô đang lấy bát đĩa từ máy rửa bát ra. Chỉ mất mười giây để cái đêm hôm trước ập về. Cô chộp lấy điện thoại di động của mình và vừa bực bội vừa hài lòng khi thấy mười hai cuộc gọi nhỡ và cũng từng ấy tin nhắn, tất cả đều từ Julian, bắt đầu từ khoảng mười một giờ đêm hôm trước theo giờ California và tiếp tục suốt đêm đến tận sáng hôm nay.
Cô lê mình ra khỏi giường và đi vào phòng tắm trước hết rồi mới sang bếp, nơi mẹ cô đang đứng trước máy rửa bát, dán mắt vào chiếc vô tuyến nhỏ đặt dưới một tủ chạn. Oprah đang ôm một vị khách mời của chương trình không rõ là ai trong lúc mẹ cô lắc đầu.
“Mẹ à,” Brooke nói và băn khoăn đến lần thứ bao nhiêu không biết rằng mẹ cô sẽ làm gì nếu rốt cuộc cũng đến một ngày nào đó chương trình Oprah thôi không phát sóng nữa. “Ai đang lên ti vi đây hả mẹ?”
Bà Green thậm chí không quay lại. “Mackenzie Phillips đấy,” bà trả lời. “Lại nữa rồi. Con tin được không? Oprah đang gặp cô ta để xem cô ta xoay xở ra sao sau lần tuyên bố ban đầu.”
“Thế cô ta xoay xở ra sao ạ?”
“Cô ta là người nghiện ma túy đang điều trị hồi phục, đã có quan hệ tình dục với cha đẻ của cô ta trong mười năm liền. Con biết đây, mẹ không phải là nhà tâm lý học, nhưng mẹ sẽ không bảo rằng dự đoán của cô ta về hạnh phúc lâu dài là sáng suốt đâu nhé.”
“Cũng phải thôi.” Brooke vớ lấy một túi bánh Oreo một trăm calo từ chạn rồi xé mở nó ra. Cô đút vào miệng vài miếng bánh. “Chúa ơi, bánh ngon quá. Sao nó lại đủ có một trăm calo thôi nhỉ?”
Mẹ cô khụt khịt. “Vì nó chỉ cho con vài mẩu vụn kiết lõ thôi. Con phải ăn năm gói mới cảm thấy hơi hơi đã. Toàn là trò bịp bợm í mà.”
Brooke cười nhẹ.
Mẹ cô tắt ti vi đi. Bà quay lại đối diện với Brooke. “Bây giờ mẹ làm món trứng và bánh mì nướng cho con nhé, con thấy sao?”
“Được ạ. Nghe có vẻ tuyệt đấy mẹ. Con đang đói đến chết lên được đây,” cô nói trong lúc dốc tuột nốt túi bánh Oreo vào miệng.
“Con nhớ lúc các con còn bé và mẹ làm bữa sáng cho các con ăn tối vài lần mỗi tháng không? Cả hai con đều thích thế.” Bà kéo một chiếc chảo rán từ ngăn tủ trượt ra và đổ nhiều dầu ăn vào đến nỗi trông như nó bị ngập nước.
“Ừmm, dĩ nhiên là con nhớ rồi. Chỉ có điều con khá chắc rằng mẹ đã làm thế hai đến ba lần mỗi tuần chứ không phải mỗi tháng, và con cũng chắc rằng chỉ có mình con thích nó mà thôi. Anh Randy và bố thường gọi pizza mỗi lần mẹ làm món trứng buổi tối.”
“Ồ thôi đi Brooke, đâu có thường xuyên đến thế. Mẹ vẫn nấu nướng suốt mà!”
“À há!”
“Tuần nào mẹ chả nấu một nồi gà tây cay to tướng. Các con đều thích món đó.” Bà đập sáu quả trứng vào một cái bát và bắt đầu đánh trứng. Brooke mở miệng định phản đối khi mẹ cô cho món “nước xốt đặc biệt” tự chế theo kiểu của bà vào trứng - một chút sữa đậu nành pha va ni làm cho trứng có vị ngọt đến buồn nôn - nhưng rồi nghĩ lại không nói thì hơn. Cô sẽ phủ đẫm nước xốt cà chua rồi nuốt chửng, như mọi khi.
“Đó là món đã chế sẵn!” Brooke vừa nói vừa xé thêm một gói Oreo. “Mẹ chỉ việc cho thêm thịt gà tây và một bình xốt cà chua vào nữa thôi.”
“Món đó ngon và con biết rằng đúng là thế.”
Brooke cười tủm tỉm. Mẹ cô biết rằng bà một đầu bếp rất dở, không thể tự gán cho mình cái mác gì khác ngoại trừ khủng khiếp, và cả hai người thường thích thú tung hứng chủ đề nho nhỏ này.
Bà Green dùng rũa xắt miếng trứng đậu nành va ni từ chiếc chảo chống dính ra và chia nó vào hai đĩa. Bà lấy bốn lát bánh từ lò nướng điện ra và cũng chia vào hai đĩa mà không nhận thấy rằng bà chưa hề ấn nút “Nướng” trên lò. Bà đưa cho Brooke một đĩa và chỉ về phía chiếc bàn nhỏ ngay bên ngoài bếp.
Họ mang đĩa ra ngoài bàn và ngồi vào chiếc ghế mọi khi của mình. Mẹ cô quay vào bếp và mang ra hai lon Coca ăn kiêng, hai chiếc nĩa, một con dao, một bình cổ đựng mứt nho Smucker, và một chai xịt vị bơ, bà quẳng bừa tất cả những thứ đó lên bàn. “Bon appetit (1)!” bà uốn giọng nói.
(1) Tiếng Pháp: Chúc ngon miệng.
“Ngon quá!” Brooke nói trong lúc vần miếng trứng có mùi va ni quanh chiếc đĩa. Cô xịt bơ lên miếng bánh chưa nướng của mình và giơ lon Coca lên cao. “Chúc mừng!”
“Chúc mừng! Vì...” Brooke thấy mẹ mình tự ngừng lại, chắc hẳn đang định nói vì cái gì đó chẳng hạn như sự đoàn tụ, hoặc khởi đầu mới, hay là nhắc tới Julian một cách tế nhị. Thay vào đó, bà nói, “Vì món ngon và khách quý!”
Họ ăn mau chóng, và Brooke ngạc nhiên thích thú vì mẹ cô vẫn chưa hỏi cô một câu nào. Tất nhiên điều đó có tác dụng như bà mong đợi là làm cho Brooke thèm được trò chuyện về tình hình mà chắc hẳn bà đã biết rồi. Mặc dù vậy, Brooke dềnh dang mãi mới cắm được phích vào ấm điện. Lúc họ đã yên vị trên đi văng với những cốc trà Lipton và chuẩn bị xem ba tập cuối phim Brothers & Sisters trên đầu DVR, Brooke nghĩ cô sắp nổ tung.
“Vậy, chắc hẳn mẹ nóng lòng muốn biết những gì xảy ra đêm qua lắm nhỉ,” cô nói sau khi đã nhấp một ngụm trà.
Bà Green vớt túi trà ra và để cho nó róc nước một giây rồi bỏ lên chiếc khăn giấy trên bàn. Brooke có thể khẳng định rằng bà đang rất cố tránh nhìn cô trực diện. Mọi việc hẳn là tệ lắm, cô tự nhủ. Mẹ cô dứt khoát không phải kiểu người điềm tĩnh. “Bất cứ lúc nào con sẵn sàng kể,” bà lơ đãng nói và phẩy tay với cái vẻ Mẹ chẳng vội gì hoàn toàn không thể tin được.
“Ờ, con nghĩ là... Chúa ơi, con thậm chí không biết bắt đầu từ đâu nữa. Mọi cái cứ rối tung rối mù cả lên.”
“Bắt đầu từ đầu ấy. Lần cuối mẹ nói chuyện với con là khoảng buổi trưa và con đang sắp sửa mặc bộ váy đầm lên người. Nghe như lúc đó mọi việc đang rất tuyệt. Thế đã xảy ra điều gì vậy?”
Brooke tựa lưng vào đi văng và đặt chân lên mép bàn nước bằng kính. “À phải, đó là lúc mà mọi việc sắp hỏng bét cả. Con vừa mới mặc váy và đeo đồ trang sức xong thì Margaret gọi đến.”
“Được rồi...”
“Vâng, đó là chuyện lộn xộn khủng khiếp mà ngay lúc này không bõ đi vào chỉ tiết, nhưng tóm lại là bà ấy sa thải con.”
“Bà ấy cái gì?” Mẹ cô dựng lên vì quan tâm. Nét mặt bà biểu cảm y như lúc Brooke từ trường tiểu học trở về nhà và kể rằng cô đã bị bọn con gái láo lếu ở trường trêu chọc thế nào trong giờ ra chơi.
“Bà ấy sa thải con. Bảo rằng họ không thể tin tưởng con nữa. Rằng bệnh viện đó không tin là con chuyên tâm vào công việc.”
“Gì chứ?”
Brooke cười và thở dài. “Đúng thế đây.”
“Bà đó mất trí rồi là cái chắc,” mẹ cô vừa nói vừa đập tay xuống bàn.
“À, con thật cảm động vì lá phiếu tín nhiệm của mẹ, mẹ à, nhưng con phải thừa nhận rằng bà ấy cũng có lý. Vài tháng qua con đã không được bình xét hiệu quả công việc hạng A cộng nữa.”
Mẹ cô im lặng một thoáng, dường như đang cố gắng tìm ra điều gì đó để nói. Khi bà nói, giọng bà chùng xuống và đắn đo. “Con biết rằng lúc nào mẹ cũng quý Julian. Nhưng mẹ sẽ không nói dối - nhìn thấy những bức ảnh đó làm mẹ chỉ muốn tự tay giết chết nó thôi.”
“Mẹ nói gì cơ?” Brooke thì thầm, cảm thấy như bị phục kích. Cô chưa quên hẳn những bức ảnh - những bức ảnh mà chồng cô tả lại là giống những bức ảnh Sienna/ Balthazar đã bị phát tán - nhưng cô đã cố đẩy ý nghĩ về chúng vào tận cùng sâu kín trong đầu cô.
“Mẹ xin lỗi, con gái yêu. Mẹ biết rằng đây không phải là việc của mẹ, và mẹ đã tự thề với mình rằng mẹ sẽ không nói một lời, nhưng con không thể cứ giả vờ như không có gì xảy ra vậy. Con phải tìm hiểu xem thực hư thế nào chứ.”
Brooke phát bẳn. “Con nghĩ rõ ràng là anh ấy và con có khối thứ phải làm cho rõ. Con không còn nhận ra Julian này nữa, mà chẳng phải vì những bức ảnh khốn kiếp nào đó của bọn săn ảnh đâu.”
Brooke nhìn sang mẹ mình và chờ câu trả lời, nhưng bà lặng thinh.
“Sao ạ?” Brooke hỏi. “Mẹ đang nghĩ gì vậy?”
“Con chưa xem những bức ảnh ấy phải không con?”