Bão đồng - Chương 10 - Phần 1
- 10 -
Nhưng cũng không có gì là khó hiểu, vì con người ở giữa trần gian, lại cũng người trần mắt thịt với nhau cả, chứ đâu phải chuyện mò kim đáy biển mà không hiểu.
Cải lâu lắm mới ăn bữa cá gỏi, lạ mồm ngon miệng, lại thêm có tý quốc lủi vào nữa, đúng là vừa no vừa say. Cơm nước xong, Cải vào giường Điền trong buồng ngả lưng. Cái giường hôm nào hai người thức suốt đêm, nghe Điền kể đoạn trường dẫn đến cái án kỷ luật lưu đảng tới tận bây giờ Điền vẫn còn đeo như đeo đá, rồi thình lình nghe tiếng kêu như cháy làng ở ngoài bờ đầm. Khi Điền và Cải hớt hải chạy ra đến ngõ thì gặp Viên đang đi về. Trời tối, hai ông anh chẳng ai nhìn rõ mặt cô em cắt không còn hạt máu. Nhưng khi nghe ông anh hỏi cái gì ở ngoài đó mà ầm ĩ thế? thì Viên lại tinh bơ, cứ như thể cái sự ầm ĩ ấy không phải do mình là thủ phạm gây ra, Viên bảo, họ đuổi trộm vào đầm sen ấy mà. Cải vào giường Điền trong buồng ngả lưng, định chỉ chợp mắt một tý rồi dậy, sang Phương Trì xem cái việc ông Mải nói anh em Thuật và Lận đang giữa kỳ giáp hạt lại rở rói ra xây sinh phần thực hư ra sao. Nhưng cơm no rượu say làm Cải ngủ chẳng biết giời đâu đất đâu. Khi choàng dậy thì trời chiều tháng tư, mặt trời đã đổ bóng khóm tre ngoài cổng nhà ông Mải xuống già nửa cái sân gạch. Túc mới lúc cơm rượu xong còn nằm ngay ra chiếc chiếu dưới đất, ngáy như kéo bễ, giờ Cải vừa đi vừa dụi mắt từ trong buồng ra đã không thấy bóng vía đâu. Ông Mải đang ngồi bên cái bàn uống nước, dáng vừa hút xong điếu thuốc, tay còn cầm chiếc se điếu đặt trên bát. Thấy Cải ra, ông cụ ngẩng lên bảo:
- Sao anh không nghỉ đi tý nữa.
- Con nghỉ thế đủ rồi.
- Túc nó nói anh dậy thì bảo anh ở đây chơi. Tối sang ăn bữa cơm rau mắm với vợ chồng, con cái nhà nó.
- Gớm, mới lúc trưa vừa ngồi với nhau xong, đã vẽ vời. Ông nói hộ con gửi lời cảm ơn. Con phải về huyện, tối nay có cuộc họp.
- Ừ, có họp thì phải về. Chứ không, ở được thì vui cho vợ chồng nó.
- Nhà anh ấy có chuyện gì vui, hả ông?
- Kể với người khác cũng chẳng là gì, nhưng với những người hoàn cảnh như vợ chồng nó thì cũng là vui rồi. Chả là đứa con gái đầu lòng năm nay đã hăm mốt tuổi, lớn ngộc nghệch mà đi thoát ly không đâu nhận. Ở nhà chồng con thì chẳng ai thèm lấy con nhà nghèo rớt mồng tơi, lại nghề ngỗng không, quanh năm mặt bán đất lưng bán giời. Giờ không biết nhờ vả ai, lại chạy vào được xí nghiệp gạch ngói huyện. Rõ khổ, cũng là cái chân vác đất, mà ở nhà làm nông dân vác đất thì bị coi là thấp hèn, còn đi thoát ly làm công nhân vác đất thì được coi là danh giá!
Cải bỗng thấy nhói đau nơi lồng ngực. Cứ đà này ruộng đồng không biết còn những người nào gắn bó một nắng hai sương, khi thanh niên nam nữ cứ mười tám, đôi mươi, thậm chí mới mười lăm, mười bảy đã chỉ chực đi khỏi làng, làm bất cứ việc gì, dù là bê đá, vác đất, hót rác, đổ thùng vệ sinh, miễn được gọi là công nhân thì thế nào cũng đi bằng được. Ông Mải thoáng nhìn nét mặt Cải in hằn nỗi lo âu, liền cầm tách nước rót ra chén, đặt trước mặt Cải, bảo:
- Anh uống chén nước cho nóng này.
- Ông để con xin.
Cải hai tay bưng chén nước đặt lên môi. Am trà mới pha, rót nước đầu, hương vị còn nồng nhưng thơm, một mùi thơm dìu dịu. Cải uống xong chén nước, đứng dậy vào trong buồng, lục đống sách vở của Điền lấy một tờ giấy trắng, gấp làm phong bì. Lát sau quay ra, đưa ông Mải:
- Ông nói với vợ chồng anh Túc hộ con. Vì tối nay có cuộc họp, con không thể ở lại dự bữa cơm gia đình liên hoan tiễn cháu đi làm xí nghiệp được. Con gửi mừng anh chị và cháu mấy đồng, ông đưa giúp con.
- Anh cẩn thận quá. Gửi lời thì nói, gửi gói thì mở, tôi sẽ đưa tận tay vợ chồng bố Túc và nói đúng như lời anh vừa dặn.
- Dạ, con nhờ ông.
Khi Cải ở nhà ông Mải dắt xe ra thì khóm tre ngoài cổng đã đổ bóng rợp gần hết cái sân gạch. Cuối tháng tư trời nắng nóng nhưng không khí ẩm ướt, chứ không khô lồng như vào kỳ gió tây. Đồng đã vào cữ lúa chiêm hoe hoe vàng, nhưng vừa qua cơn gió lốc dễ ngang với trận bão mạnh cấp tám, cấp chín nên lá tướp khô nỏ, bông cời trắng phơ như cờ lông công trên cánh đồng. Nhìn màu lúa, biết chắc vụ thất bát, cùng cái đói kém đang rập rình mọi nhà. Cải đạp xe chầm chậm qua cánh đồng, rồi rẽ lối ngã ba ra đường trục chạy dọc xã Tiên Trung. Từ xa đã thấy lố nhố chỗ đầu làng Phương Trì đám người lúi húi kẻ cuốc, người đào, người gánh, kẻ vác… Người gánh đi lững thững, người khênh lẵng nhẵng như lôi như đẩy nhau đi, còn những người vác thì lệch một bên vai bước tấp tểnh như người què. Đúng là những người làm việc thổ mộc giữa kỳ giáp hạt, chưa đến mức đói vang mắt, nhưng cũng không thể bảo họ là những người ăn no vác nặng. Cải đạp xe đi trên đường cái, nhìn ngớp ra chỗ người đang làm. Hình như đang vượt nền hay sao, thấy rất đông tay mai, tay cuốc như kiêu đào ao hồ lấy đất cát dâng nền. Cải đi qua chỉ nhìn ngớp ra, chứ không dừng xe. Nhưng mới đi qua được một quãng, bỗng nghe tiếng người gọi:
- Bác Cải ơi, bác Cải!
Cải dừng xe, quay lại. Lận từ chỗ đám người khuân vác đất hớt hải chạy ra đường cái, vừa nói vừa thở, nhưng đã đổi cách xưng hô:
- Bí thư mới xuống ạ. Mời bí thư vào nhà bác Thuật em đây uống chén nước đã. Rồi bí thư có chỉ thị gì thì em với bác Thuật em xin lĩnh hội luôn, chứ cụ Sa, chắc bí thư cũng biết rồi, còn yếu lắm, đã làm việc được đâu. Mọi công việc của đảng uỷ, chính quyền giờ chỉ mỗi bác Thuật em giải quyết thôi ạ.
Cải làm như không biết cái chỗ đám người đông đông kia là thế nào, vừa dong xe đi sóng hàng với Lận, vừa hỏi:
- Hợp tác xã định xây dựng công trình gì ở đấy, mà chủ nhiệm lại phải ra tận nơi trực tiếp chỉ đạo thế?
Lận đang đi chợt như bước hẫng, tụt lại vài nhịp chân. Cải thấy thế cũng bước chậm lại, chờ Lận lên kịp mới lại nói, như để Lận đỡ ngượng:
- Chắc là mới tạo mặt bằng, chứ cũng chưa có ý định xây dựng công trình gì hả? Thế là phải. Giữa lúc đói kém, rở rói ra làm gì cho bàn dân thiên hạ eo xèo. Hẩng tập trung lo cho dân qua kỳ giáp hạt đi đã!
- Dạ, dạ dạ…!
Lận chỉ há hốc mồm, bật ra rặt một từ ấy. Bởi Lận, và cả ông anh túc trí đa mưu nữa, có lẽ cũng chưa tính tới cái nước pháo chọc nách bất ngờ này. Thế nên, Lận chỉ ư hừ mong rút ngắn quãng đường từ chỗ cây đa đầu làng về tới nhà ông anh. Một khi tới nhà rồi thì mọi việc ứng phó thế nào đã có ông anh Thuật chèo chống, đâu vào đấy hết. Thế mới không lo thất thố điều gì. Không những không lo thất thố, mà thực, cũng không còn cách gì hơn, bởi một việc đại sự như xây dựng công trình sinh phần gia tộc, cái đầu củ chuối của Lận làm sao có thể tính hết mọi kẽ, mà chả ư hừ cho qua chuyện. Cải cũng nghĩ câu nói của mình làm Lận khó bắt lời, liền lảng sang chuyện khác, với cách xưng hô cởi mở, thân tình hơn:
- Dưới này các cậu cử những ai đi mua sắn?
Quả nhiên, Lận đã có phần thanh thoát, liến láu:
- Chúng em cử ba người, do anh Điền làm trưởng đoàn. Đi cũng được mươi hôm rồi, nhưng chưa thấy tin tức gì. Hôm qua bên Tiên Tiến cũng đi Bắc Cạn mua sắn về, bác Thuật em cho người sang hỏi, họ bảo không gặp đoàn Tiên Trung đâu.
Cải nghe bỗng thấy lo lo, vội hỏi:
- Trong ba người đi, có ai thông thuộc đất Bắc Cạn, hay có quen biết ai ở trên ấy không?
- Có thì chỉ có bác Liểu, cũng một hai lần cửa hàng mua bán đi miền ngược mua sắn về bán cho dân. Chứ anh Điền chắc là chưa lên đấy bao giờ.
Hai người vừa chuyện, vừa không nén được sự mong ngóng đợi chờ. Nhưng đã đến lối ngõ vào nhà Thuật. Trong khi Lận săng sái bước qua cánh cổng gỗ vào sân oang oang gọi ông anh trưởng, thì Cải dừng xe trước hai bức tường cổng xây cao to như cổng làng, bên trên cuốn hình bán nguyệt, hai bên đắp hai con rồng châu đầu nhìn vào, không biết là mặt trời hay bông sen, trái bưởi mà chỉ thấy rực lên màu đỏ thẫm màu tiết đỉa. Cải đang ngước nhìn hai con rồng chầu, đoán già đoán non, thì nghe tiếng bước chân lịch bịch trên sân gạch và tiếng người nói, giọng rin rít như bật hơi qua kẽ răng:
- Thật chả mấy khi rồng đến nhà tôm thế này. Mời bí thư vào trong nhà. Chú
Lận, dong xe đạp của bác Cải vào nhà ngang cho khỏi nắng. Ôi giời, anh em các ông gặp nhau ở đâu mà quý hoá thế này!
Thuật vừa nói vừa săng sái dẫn Cải vào nhà. Có lẽ từ khi về huyện, mãi hôm nay Cải mới có dịp bước chân qua cổng nhà chủ tịch xã Tiên Trung.
Quả như lời đồn. Dinh cơ nhà Thuật khang trang, bề thế vào loại nhất nhì huyện này, chứ không khác. Không xây kiểu nhà tầng leo trèo mỏi chân, lại mùa màng được hạt thóc, củ khoai khuân lên vác xuống đú chết, nhà Thuật làm đặc kiểu các cụ ngày xưa, nhà hình gọng bừa, hay như ngày nay các nhà kiến trúc sính chữ vẫn nói là hình chữ u. Giữa là nhà trên quay hướng nam, rộng năm gian, hai đầu đông tây là hai cái buồng làm phòng ngủ kín đáo và ấm cúng. Gian chính giữa là bàn thờ gia tộc, bên ngoài, thay vào chỗ ngày xưa các cụ thường kê bộ sập gụ nổi màu mận, thì nay kê bộ bàn ghế sa lông đóng bằng loại gỗ lát nổi vân hoa, mà bạn đọc đã thấy khi Thuật ngồi chờ vợ đi sang gọi Lận vào để bàn việc thả Điền và ông Tinh, cùng mấy người làng Phương Lưu, đang bị Lận bắt gian ngoài trụ sở xã. Hai gian bên thì, một phía tây kê chiếc giường ba xà, còn phía đông kê chiếc bàn quay mặt ra cửa sổ ngoài vồng và đặt một chiếc ghế tựa, hẳn là chỗ để Thuật đọc tài liệu, báo chí và ký giấy tờ mỗi khi có người đến tận nhà xin chủ tịch xã chữ ký đơn từ gì chăng. Còn nhà dưới, nối với nhà trên theo hình gọng bừa, là hai dẫy nhà ngang, phía tay phải, nhìn từ nhà trên xuống, một gian buồng theo đúng nghĩa của nó để thóc gạo, hòm xiểng, ra khoá vào mở, người ngoài không thể tự tiện dòm dỏ; tiếp đến là gian dành cho con cái nghỉ ngơi, cũng khá rộng và thoáng mát. Dẫy nhà ngang phía tay trái làm bếp núc, đặt cối xay thóc, giã gạo và đê vật dụng làm lụng trong nhà, ngoài đồng. Ngôi nhà xây đặc kiểu ngày xưa, mà ngày nay các nhà kiến trúc, đã tân kỳ lại hay hoài cổ, vẫn gọi là biệt thự cổ, nghe vừa sang lại vừa có vẻ sành chơi. Xung quanh nhà, từ ngõ vào sân, từ sân ra cầu ao, rồi ra vồng, đều xây gạch hết các lối đi. Đúng như ông Mải nói với Cải hôm đầu tiên anh xuống chơi, sau ngày về nhận chức bí thư huyện, nhà Thuật không còn một lối đi nào không xây, dễ chánh Bậc giàu nhất xã này ngày xưa cũng không có dinh cơ xây khắp trong nhà ngoài sân, vườn vồng như nhà chủ tịch Thuật bây giờ. Bên ngoài, cách một cái sân lát toàn gạch vuông đỏ au là bức tường hoa chạy đối diện với nhà trên, cũng chia làm năm gian tường theo năm gian nhà, hai gian bên đắp nổi mỗi gian một hình hoa thị to như cái chiếu, còn gian chính giữa đắp chữ thọ có hai cuốn thư hai bên. Sau bức tường hoa là một hàng cau cũng đủ năm cây, không biết có phải giống cau Nhân Lý mà mới thấp thè thẹ đã ôm bụng chửa đẫy đà trên bẹ tàu thế kia. Ngoài bức tường hoa và hàng cau là đến cái ao, không to, chỉ chừng già nửa sào, chạy hình chữ nhật dọc theo với bức tường hoa và ngôi nhà, nên từ trong nhìn ra hay từ ngoài nhìn vào, cả ba công trình ấy đều hài hoà, ăn nhập vào nhau, tôn thêm vẻ đẹp cho nhau.
Sau khi dẫn Cải vào trong nhà, kéo ghế mời bí thư ngồi, Thuật gọi em trai vào cửa buồng nói thầm gì đó, chỉ thấy Lận nghe xong, quay ra chào, bác Cải ở chơi với bác Thuật em nhá, em có việc chạy nhoáng đi đằng này một tý. Còn Thuật cũng xin phép anh, tôi đi dội qua mấy gáo nước, vừa ở chỗ làm về, quần áo lấm hết cả.
Còn lại một mình, Cải ngồi ngắm dinh cơ nhà Thuật mà thầm suy nghĩ mung lung. Đây là lần đầu tiên Cải đến nhà Thuật, và cũng là nhà Phượng, chị chủ tịch uỷ ban xã Tiên Trung trú mưa với anh trong chiếc lều giữa đồng không mông quạnh đêm nào. Cải lần đầu đến nhà Thuật, nhưng những lời đồn về ngôi nhà này, con người kia, một người đàn ông căn cơ và nhiều tham vọng, cũng là một người đàn ông độc đoán, gia trưởng và đa nghi đến nhẫn tâm, thì hôm nay Cải mới thấy hiển hiện ra ngay trước mắt, in đậm từ cách bài trí trong nhà đến tường hoa, ao vồng. Còn trước đây, Cải cũng có nghe, nhưng vốn là người không thích nghe hơi nồi chõ, nên thường nghe đâu bỏ đấy, không mấy đê tâm. Nhung cũng có một chuyện nghe đã lâu, dễ đến hơn chục năm, nhưng mỗi khi có dịp gặp lại bóng dáng của nó như hôm nay, lại làm Cải bỗng dưng nhớ lại…
***
Trong một lần đến công tác ở huyện đội, chỗ quen biết cũ, cơm chiều xong, Cải hỏi mượn chiếc xe đạp của cơ quan xuống Tiên Trung thăm người quen. Minh, huyện đội phó, cũng người Tiên Trung, từng gắn bó với Cải thời gian đơn vị pháo cao xạ của anh về đón lõng máy bay Mỹ ở mấy xã ven sông, thấy Cải hỏi trực ban mượn xe, Minh đoán già đoán non, rồi thẳng thắn bảo: “Anh lấy xe đi đâu, chứ xuống Tiên Trung thì tốt nhất là không nên xuống nữa, anh Cải ạ!”. Rồi Minh kéo Cải ra bờ kênh, trước cửa cơ quan huyện đội, hai người lính, hai người đàn ông thủ thỉ với nhau đến tận khuya về một người đàn bà và người đàn ông thứ ba. Người đàn bà ấy là Phượng. Còn người đàn ông thứ ba bấy giờ cũng là một người lính, ấy là Thuật, chồng Phượng, chủ tịch xã Tiên Trung bây giờ.
Cải nghe Minh kể, ban đầu không thể tin, hay lòng trung thực và sự bao dung làm anh không thể tin một người đàn ông, một người lính từng đối mặt với mũi tên hòn đạn, lại có thể làm một việc đốn mạt đến như vậy. Nhưng khi nghe Minh bảo, lúc đầu nghe nhà em nói em cũng không tin, đã cưới cheo thành vợ thành chồng rồi còn làm thế, liệu ăn đời ở kiếp với nhau có thật sự tin yêu nhau đến đầu bạc răng long? Nhưng sau nghe mẹ em, cũng là chỗ chị em thúc bá với mẹ chị Phượng, rồi bao nhiêu người làng trong, xóm ngoài thì thào cũng giống như nhà em kể, thì em mới thật sự tin. Cải nghe, bỗng như chết lặng mươi giây, rồi mới nhìn Minh hỏi gạn lần nữa: “Dẫu tay Thuật có đốn mạt như thế chăng nữa, thì ai người ta lại mang kể ra ngoài, mà xóm láng lại nghe được cơ chứ?”. Ối giời, ông nói thế quá bằng bảo tôi bịa ra chuyện để hù doạ ông từ nãy đến giờ. Mà thôi, ông thích đi thăm em Phượng dưới Tiên Trung thì cứ đi, lấy hẳn cái xe Pha-vơ-rít của tôi mà đi cho oách, tội gì lấy cái xe đạp công tàng tàng ấy. Nhưng tôi dặn trước, nếu xảy ra chuyện gì, chớ có bảo ở huyện đội xuống nhá, kẻo mang tiếng huyện đội quyết thắng chúng tôi đấy. Bấy giờ, Cải mới nửa tin nửa ngờ, thốt ra cái câu làm anh từ nãy đến giờ vẫn chưa tin là Minh kể câu chuyện có thật trăm phần trăm: “Chẳng lẽ cô ấy lại trống trải đến nỗi mang chuyện chăn gối của vợ chồng ra ngoài kể!”. Hơ hớ hớ, đúng là ông anh yêu bà chị Phượng xã em thật rồi. Thế mà lại cứ bảo do hoàn cảnh đưa đẩy, chứ thực, tớ với Phượng chưa có tý ty gì gọi là đi quá tình đồng chí nghĩa đồng bào! Nhưng thế cũng không oan, gió mưa tầm tã mà cởi hết áo xống con người ta ra, để phơi bộ ngực trần, với hai trái bưởi trắng nõn nà, lại cao to rắn chắc như hai ngọn thiên thai, nhẽ nào về cô ấy chả cảm sốt 40 độ C là còn nhẹ đấy. Thế nên chẳng cứ ông Thuật, vào hoàn cảnh em đêm tân hôn em cũng phải “kiểm tra” xem có còn nguyên vẹn, hay sứt mẻ mất rồi. Nhưng em làm khác, làm có chuẩn bị, làm không để ai biết, kể cả vợ, chứ không bị động để đến lúc lột hết của người ta ra, mới cuống cà kê đi tìm đồ trắng. Nghe cứ như chuyện hài, mà lại là thật, bao nhiêu người kể lại đều thật như thế, mà anh còn không tin thì tuỳ.
Đám cưới của Thuật và Phượng rất đơn giản, vì Thuật trước khi chuyển quân vào khu Bốn được về thăm nhà mấy ngày, bố Thuật lại đang ốm thập tử nhất sinh, muốn nhân việc con trai về phép cưới chạy tang, kẻo nhỡ có thế nào lại phải chờ sau ba năm đoạn tang mới cưới dâu được, ở nhà quê thường là vậy, giá không làm gì thì chẳng làm sao, nhưng đã có việc rở rói ra là y như rằng lời ra tiếng vào, thôi thì hay dở, tốt xấu cứ tuồn tuột lôi ra, như thể mọi cái đều nhỡn tiền. Và cái việc Phượng đi giao ban với Cải về trú mưa đêm trong chiếc lều giữa đổng không mông quạnh, tưởng rơi vào quên lãng từ bao giở bao giờ, bỗng lại được khơi dậy qua cái miệng của mấy bà dòng dòng ngồi lê mách lẻo. Mẹ Thuật, và cả ông bố đang ốm thập tử nhất sinh, cũng biết chuyện ấy từ lâu, nhưng chẳng ai để tai, vì cái sự nam nữ làm việc với nhau đi đêm về hôm cũng là lẽ thường. Còn như việc người ta đồn thổi kia, thực cũng chẳng ai mục sở thị, chỉ suy bụng ta ra bụng người cả thôi. Nhưng bây giờ con trai về cưới vợ lại rộ lên, cứ như cái sự ấy đã nhỡn tiền. Thuật một mặt cũng tin lời bố mẹ, rằng thiên hạ chỉ đồn thổi lên thế thôi, chứ làm gì có chuyện chủ tịch xã lại ăn nằm với chỉ huy trưởng đơn vị pháo cao xạ. Mặt khác, những ngày Thuật đi vắng, Phượng đi lại chăm sóc bố mẹ và các chị, các em Thuật không khác gì nàng dâu trong nhà, nên không thể chỉ vì lời đồn mà nỡ nuốt lời thề hẹn với nhau được. Chung quy lại cả nhà đều muốn Thuật cưới Phượng trước ngày trở lại đơn vị, cho trong ấm ngoài êm, nhất là những người trong dòng tộc Phạm Khắc lại càng mong họ có nàng dâu đứng đầu cả hàng xã. Thuật ngoài mặt cũng thuận theo gia đình và họ tộc, nhưng trong lòng vẫn còn nỗi ấm ức chưa biết giãi bày cùng ai, mà thực ra, có giãi bày cũng không ai có thể trả lời được trót lọt, trừ một người duy nhất, là Phượng.
Nhưng Phượng cũng không thể trả lời được trót lọt, hay đúng hơn, Phượng có giãi bày thế chứ giãi bày nữa, Thuật cũng không tin, trừ khi…