Vợ phi công - Chương 09 phần 2

Làm sao một đứa bé mười lăm tuổi lại có thể bày tỏ sự trung thực một cách thản nhiên như vậy? Kathryn tự hỏi. Sự thật là điều quá mức chịu đựng đối với nhiều người lớn. Có thể tuổi trẻ đối mặt với thực tế tốt hơn, cô nghĩ, vì có ít thời gian để che giấu, để tạo ra những câu chuyện giả tưởng.

Kathryn dằn lòng lại để không lên giọng, để át đi nỗi sợ và sự hoài nghi của con gái, nhưng kinh nghiệm mách bảo cô không nên gây áp lực với Mattie vào lúc này.

“Mẹ ơi, ở đây có nhiều người lắm,” Mattie nói. “Toàn là người lạ. Họ xuất hiện khắp nơi.”

“Mẹ biết, Mattie ạ. Họ là nhân viên an ninh để giữ cho báo chí và công chúng không lại gần nhà.”

“Mẹ nghĩ những người lạ này có muốn vào nhà không?”

Kathryn không muốn dọa cho con gái sợ hơn mức cần thiết.

“Không, mẹ nghĩ là không,” Kathryn đáp. “Nhưng báo chí có thể phiền phức lắm. Nghe này, con cứ ngồi yên đấy. Chút nữa mẹ sẽ đến.”

“Cũng được,” Mattie dửng dưng

***

Kathryn đứng yên một phút tại quầy, tay cầm điện thoại, hối tiếc vì đã chấm dứt cuộc nói chuyện. Cô nghĩ đến việc gọi lại ngay cho Mattie, cố gắng trấn an nó, nhưng Kathryn biết làm thế cũng chẳng ích gì. Cô đã học được một điều, nói chuyện với một đứa bé mười lăm tuổi đôi khi đòi hỏi người lớn phải biết nhượng bộ. Kathryn gác máy rồi đi đến cửa phòng khách. Cô tựa vào khung cửa. Cô khoanh tay trước ngực và quan sát những điều tra viên và phi công.

Trên mặt Robert hiện lên câu hỏi.

“Mọi việc ổn chứ, chị Lyons?” Somers từ Ban An toàn hỏi.

“Rất ổn,” Kathryn đáp. “Rất ổn. Trừ mỗi việc con gái tôi đang lúng túng tiếp thu ý nghĩ là bố nó có thể đã tự sát và cướp đi sinh mạng của một trăm lẻ ba người.”

“Chị Lyons...”

“Tôi có được phép hỏi ông một câu này không, ông Somers?”

Kathryn nghe thấy sự tức giận trong giọng nói của mình, một sự bắt chước giọng con gái. Có lẽ giận dữ cũng lây lan, Kathryn nghĩ.

“Vâng, tất nhiên rồi,” Somers đáp, vẻ thận trọng.

“Ngoài tự tử, các ông còn hình dung ra những tình huống nào khác, dựa theo những gì có trên CVR về lý thuyết?”

Somers có vẻ không thoải mái. “Vào lúc này tôi không thể tùy tiện thảo luận việc đó, thưa chị Lyons.”

Kathryn thả, hai bàn tay nắm lại.

“Ồ, thật sao?” cô khẽ hỏi.

Cô nhìn xuống chân, rồi nhìn lên những khuôn mặt trong phòng khách. Tất cả đều bị ngược sáng, tỏa hào quang từ cửa sổ.

“Nếu vậy thì tôi e rằng vào lúc này tôi không thể tùy tiện trả lời các câu hỏi của ông,” cô nói.

Robert đứng dậy.

“Thẩm vấn đến đây là hết,” cô nói.

***

Cắm cúi bước đi trên bãi cỏ, cô cúi đầu xuống để tránh gió, chân in dấu rời rạc lên lớp băng tuyết trên cỏ. Chỉ vài phút sau, cô đã đến bờ kè biển, lớp đê chắn sóng bằng đá granite bị nước biển quét nhẵn bóng. Cô nhảy lên ngồi trên một tảng đá to bằng bồn tắm, cảm thấy người bị trượt, và nhận ra cách duy nhất để đứng thẳng là liên tục di chuyển, dừng bước không quá lâu trên mỗi tảng đá rồi lập tức nhảy sang tảng cạnh bên. Cứ như vậy, cô đến được “tảng đá phẳng”, tên mà Mattie đã đặt khi nó mới năm tuổi và lần đầu tiên tìm được cách giữ thăng bằng trên bãi đá ven biển. Kể từ đó, tảng đá phẳng trở thành điểm dã ngoại yêu thích của hai mẹ con vào những ngày nắng đẹp. Kathryn nhảy từ mép tảng đá xuống bãi cát rộng nửa mét vuông nép mình dưới những tảng đá - một căn phòng lộ thiên, một nơi tránh gió, một chốn ẩn nấp. Cô quay lưng về phía ngôi nhà và ngồi xuống mặt cát ướt. Cô thò tay ra khỏi tay áo rồi vòng tay ôm ngực trong lớp áo lông vịt kéo kín.

“Mẹ kiếp,” cô nói, nhìn xuống chân.

Cô để tiếng ồn trắng của nước biển lấp đầy đầu óc, tống khứ những giọng nói và khuôn mặt trong nhà đi, những khuôn mặt đeo một lớp mạng thương hại mỏng bên trên tham vọng tột độ, những khuôn mặt với những cái miệng nghiêm nghị bên dưới những đôi mắt diều hâu. Kathryn lắng nghe tiếng sỏ kêu lạo xạo dưới những con sóng rút về biển cả. Trong những viên sỏi có một kí ức, nó đang mơn trớn cô, trêu ngươi cô. Cô nhắm mắt lại, cố gắng tập trung, nhưng rồi bỏ cuộc, và vào khoảnh khắc từ bỏ đó, cô tìm ra nó. Một kí ức về bố cô và cô, hai người mặc đồ bơi, ngồi trên những viên sỏi, để cho sóng biển len vào dưới chân, đẩy lăn những hòn đá nhỏ dưới đùi và bắp chân họ. Đó là mùa hè, một ngày nóng bức, lúc đó cô được chín hay mười tuổi. Họ đang ở Fortune’s Rocks, cô nhớ, và những viên sỏi cù lên da cô. Nhưng tại sao cô và bố lại ngồi trên biển mà không có bà Julia hay mẹ của cô ở đó? Có thể Kathryn nhớ đến khoảnh khắc này vì đó là một sự kiện hiếm hoi, khi chỉ có hai bố con cô vui đùa với nhau. Ông đang cười to, cô còn nhớ, cười to với một niềm vui chân thật, không màu mè, như một đứa trẻ, trong khi ông vốn dĩ hiếm khi cười như thế. Và cô nghĩ cô cũng sẽ cười với ông và quên đi tất cả, nhưng cô bị choáng ngợp trước hình ảnh bố cô vui vẻ - vui vẻ trước mặt cô - đến nỗi cô cảm thấy lòng dâng lên một niềm tôn kính hơn là cảm giác thoải mái, và kết cục là, cô cảm thấy bối rối. Khi ông quay sang hỏi cô có chuyện gì, cô chợt mơ hồ cảm thấy mình đã làm ông thất vọng. Thế là lúc đó cô cũng cất tiếng cười, thật to, thật chân thành, hi vọng ông sẽ quên đi nỗi thất vọng, nhưng khoảnh khắc đó đã trôi qua, và ông đã nhìn ra biển tự lúc nào. Cô nhớ tiếng cười của mình nghe thật rỗng tuếch và giả tạo, cô nhớ cái quay mặt đi của bố cô, sự chìm đắm trong hồi tưởng của ông, đến nỗi cô phải gọi to lên để khiến ông chú ý.

Kathryn vẽ những vòng xoắn ốc trên cát ướt. Đó là một trong những điểm chung giữa cô và Jack, cô nghĩ: Họ là trẻ mồ côi. Không phải mồ côi theo nghĩa đen, và không phải trong suốt thời thơ ấu, nhưng họ đều bị bỏ rơi khi còn quá nhỏ để biết chuyện gì đang xảy ra với mình. Trong trường hợp của Jack, anh đã trở thành trẻ mồ côi theo nghĩa bình thường hơn. Mẹ mất khi anh chín tuổi, còn bố anh, người chưa bao giờ biểu lộ cảm xúc của mình, dường như đã khép lòng lại sau cái chết của vợ đến nỗi Jack có cảm giác mơ hồ rằng anh chỉ còn sống một mình trên cõi đời này. Trong trường hợp của Kathryn, bố mẹ cô luôn hiện diện về mặt cơ thể nhưng vắng bóng về mặt tình cảm, thậm chí không thể làm được những việc cơ bản để chăm sóc một đứa trẻ. Trong gần như suốt tuổi thơ của mình, Kathryn và bố mẹ sống với bà Julia trong ngôi nhà đá chật hẹp cách thị trấn năm cây số về phía Tây Nam. Chính bà Julia là người đùm bọc bố mẹ cô, họ bị tinh giảm biên chế khi các xí nghiệp ở Ely Falls bắt đầu đóng cửa. Ông nội Kathryn mất khi cô mới ba tuổi, và bà Julia đã cưu mang bố mẹ cô bằng tiền buôn bán ở cửa hàng đồ cổ. Sự thỏa thuận khác thường này chẳng cải thiện được mối quan hệ giữa mẹ của Kathryn và bà Julia là bao, và đặt bà Julia ở vị thế kiểm soát mọi việc từ trong ra ngoài, điều này khiến bố của Kathryn đôi khi cũng không chịu nổi. Nhưng khi Kathryn còn bé, cô không hề gia đình mình có gì khác thường. Trong lớp học của cô, với sĩ số ba mươi hai từ lớp một rồi giảm dần từng năm cho đến khi chỉ còn lại mười tám học sinh tốt nghiệp, hầu hết những đứa trẻ khác dường như đều sống bên lề xã hội. Kathryn có những đứa bạn sống trong xe đầu kéo, hoặc không có lò sưởi vào mùa đông, hoặc nhà cửa lúc nào cũng tối om hoặc cửa chớp đóng kín suốt ngày để bố hoặc chú bác của chúng có thể ngủ ngon. Bố mẹ của Kathryn thường cãi nhau và ngày nào cũng uống rượu, mà ngay cả chuyện này cũng chẳng có gì bất thường. Điều bất thường nằm ở chỗ họ không xử sự như người trưởng thành.

Trong nhiều năm, bà Julia là người chăm lo cái ăn cái mặc cho Kathryn, dạy cô biết đọc và chơi piano, dắt cô đi học mỗi ngày. Vào buổi chiều, Kathryn thường giúp bà trông cửa hàng hoặc được đưa ra ngoài để chơi đùa. Họ cùng nhau chứng kiến những màn bi hài kịch của cuộc đời bố mẹ cô lần mở - có lẽ không phải lúc nào cũng từ xa, mà từ một nơi an toàn trong ngôi nhà cao và có hình thù kỳ dị của Julia. Trong gần suốt tuổi thơ của Kathryn, bà Julia và cô đã bị tuyển vào vai bố mẹ bất đắc dĩ của hai người là bố mẹ cô.

Khi Kathryn đi học cao đẳng và trong những lúc ngồi nghĩ ngợi ở ký túc xá tại Boston, cô đã đôi lần đinh ninh rằng mình sẽ không bao giờ có thể quay trở lại Ely được nữa, rằng cô không bao giờ còn muốn chứng kiến những cảnh say xỉn lặp đi lặp lại không ngớt giữa bố và mẹ cô. Nhưng vào một buổi chiều ấm áp bất thường của tháng giêng khi Kathryn đang học năm thứ nhất, bố mẹ cô đã rơi xuống thác Ely Falls, hình như họ đã tìm cách băng qua đó, không hiểu vì sao, và chết đuối. Kathryn bất ngờ phát hiện ra rằng cô đã bị đau thương vây kín – như những đứa con của mình đã chết – và khi phải quay lại Boston sau đám tang kép, cô không thể rời Ely hay bà Julia được nữa.

Giờ đây Kathryn nghĩ bà Julia ít nhất đã làm tốt vai trò bố mẹ, và đó là điều may mắn cho cô.

Cô điếng người trước tiếng bước chân trên một tảng đá ở sau lưng cô. Tóc Robert bị gió thổi tung, anh đang nheo mắt.

“Tôi cứ hy vọng cô sẽ chạy trốn,” anh nói, nhảy xuống khoảnh đất được che chắn.

Cô đút tay vào túi áo khoác và cố giữ tóc khỏi bị gió thổi bay có thể nhìn thấy mặt Robert.

Anh tựa lưng vào một tảng đá rồi vuốt tóc lại ngay ngắn. Anh lấy ra một chiếc bật lửa và một gói thuốc từ túi áo măng tô. Anh xoay người tránh gió, nhưng ngay cả ở nơi trú ẩn giữa những tảng đá, anh vẫn khó khăn lắm mới châm lửa được. Cuối cùng, điếu thuốc cũng bắt lửa, và anh rít một hơi sâu, đóng chiếc bật lửa lại. Anh cho nó vào túi, và lập tức gió thổi bay đóm lửa từ điếu thuốc của anh, dọa làm nó tắt ngóm.

Liệu Robert Hart có nói thật không? cô tự hỏi. Anh ta có lấy làm vui vì cô đã bỏ chạy không? “Họ đi chưa?” cô hỏi.

“Chưa.”

“Thì sao?”

“Họ sẽ ổn thôi. Họ phải làm việc này. Tôi nghĩ thật sự họ không hy vọng cô sẽ tiết lộ chuyện gì.”

Cô tựa cùi chỏ lên hai đầu gối, cột tóc lại.

“Chúng tôi cần phải tổ chức đám tang,” cô nói.

Anh gật đầu.

“Mattie và tôi cần tưởng nhớ Jack,” cô nói. “Mattie cần tưởng nhớ bố nó.”

Và cô chợt nghĩ chuyện này đúng là như vậy. Jack cần được tưởng nhớ.

“Đó không phải là tự sát,” cô nói. “Tôi chắc chắn điều đó.”

Một con mòng biển kêu rít lên và bay về phía họ. Họ nhìn lên con chim đang chao lượn trên đầu.

“Khi tôi còn nhỏ,” cô kể, “tôi thường nghĩ rằng kiếp sau mình muốn làm mòng biển. Cho đến khi bà Julia bảo với tôi rằng chúng bẩn lắm.”

“Loài chuột của biển,” Robert nói, dùng chân gí điếu thuốc xuống cát. Anh đút tay vào túi và trông như rúc mình sâu hơn vào lớp áo măng tô. Anh đang lạnh, cô nhận thấy điều đó. Vùng da quanh mắt đã trở nên trắng bệch.

Cô vén một lọn tóc khỏi miệng mình.

“Người dân ở Ely,” cô tiếp lời, “họ nói rằng đừng bao giờ sống gần bãi biển. Vào mùa đông sẽ rất buồn thảm. Nhưng tôi chưa bao giờ thấy trầm cảm.”

“Tôi ganh tị với cô đấy,” anh nói.

“Thật ra thì, tôi đã từng trầm cảm, nhưng không phải vì biển.”

Bây giờ cô mới nhận ra dưới ánh sáng ban ngày, mắt anh có màu nâu đỏ chứ không phải màu nâu.

“Nhưng với những cánh cửa sổ thì sống gần biển là địa ngục,” cô nói thêm, nhìn về hướng ngôi nhà. “Muối biển làm mòn hết.”

Anh cúi người thấp xuống cát, nơi đó ấm hơn.

“Khi Mattie còn nhỏ, tôi rất sợ phải sống quá gần biển. Tôi phải trông chừng nó suốt ngày.”

Kathryn nhìn ra biển, nghiền ngẫm về mối nguy hiểm ngoài đó.

“Mùa hè hai năm trước, một bé gái đã chết đuối cách đây không xa. Một bé gái năm tuổi. Cô bé ở trên tàu với bố mẹ và bị sóng đánh rơi xuống biển. Tên cô bé là Wilhemina. Tôi nhớ mình đã nghĩ đó là một cái tên con gái thật cổ điển.”

Anh gật đầu.

“Khi chuyện đó xảy ra, tôi chỉ nghĩ rằng biển thật nguy hiểm, nó có thể tóm gọn một người trong tích tắc. Chuyện đó xảy ra quá nhanh, đúng không? Mới phút trước cuộc sống còn bình thường, phút sau đã không được như vậy nữa.”

“Cô là người hiểu rõ điều đó hơn ai hết.”

Cô ấn gót giày xuống cát.

“Anh đang nghĩ rằng chuyện còn có thể tồi tệ hơn nữa, phải không?” Kathryn hỏi.

“Đúng.”

“Có thể người trên máy bay là Mattie.”

“Đúng.”

“Nếu thế thì thật là không thể chịu đựng nổi. Thực tình là không chịu đựng nổi.”

Anh xoa hai bàn tay để làm sạch cát dính.

“Cô có thể đi xa, cô biết đấy, cô và Mattie.”

“Đi xa?”

“Đến Bahamas. Đến Bermuda. Trong vài tuần, đến khi việc này chìm lắng.”

Kathryn cố gắng hình dung mình ở Bermuda vào lúc này với Mattie, rồi

“Tôi không thể làm thế,” cô nói. “Như vậy họ sẽ nghĩ chuyện xảy ra với Jack là thật. Họ sẽ nghĩ chúng tôi bỏ trốn. Vả lại, Mattie sẽ không đi. Tôi không tin là nó sẽ chịu đi.”

“Một số thân nhân đã đến Ireland,” anh nói.

“Thì sao? Ở trong một nhà nghỉ với một trăm gia đình đang phát rồ khác à? Hay đi đến điểm rơi máy bay và đợi thợ lặn đem các phần thi thể lên? Không, tôi không nghĩ vậy.”

Cô lần tay trong túi áo lông vịt. Một chiếc khăn giấy Kleenex đã dùng. Tiền xu. Một thẻ tín dụng quá hạn. Vài tờ tiền lẻ. Một ống kẹo ngậm Lifesavers.

“Anh ăn không?” cô hỏi, chìa ống kẹo về trước.

“Cám ơn cô.”

Ngồi thu mình chán, anh đứng dậy trên cát, tựa lưng vào đá.

Anh ta sẽ làm hỏng áo măng tô, cô nghĩ.

“Ở đây đẹp thật,” anh nói. “Phần đẹp đẽ của thế giới.”

“Đúng vậy.”

Cô duỗi chân ra trước mặt. Cát tuy ẩm nhưng lại ấm một cách kỳ lạ.

“Chừng nào chuyện này chưa kết thúc thì truyền thông vẫn còn điên cuồng,” anh nói. “Tôi rất lấy làm tiếc.”

“Đó không phải là lỗi của anh.

“Dù tôi cũng chưa bao giờ chứng kiến chuyện như cảnh ở trước cổng.”

“Lúc đó thật đáng sợ.”

“Cô hẳn đã quen với cuộc sống tĩnh lặng ở đây.”

“Một cuộc sống tĩnh lặng, bình thường,” cô đáp.

Anh vòng tay qua đầu gối, hai bàn tay đan vào nhau phía trước.

“Cuộc sống của cô trước đây thế nào? Hàng ngày cô thường làm gì?”

“Mỗi ngày mỗi khác. Anh muốn biết ngày nào?”

“Vậy à, tôi cũng chẳng biết. Những ngày thứ năm thì sao?”

“Những ngày thứ năm.” Cô nghĩ ngợi một lát. “Vào thứ năm, Mattie thường thi đấu khúc côn cầu trên cỏ hoặc bóng vợt. Buổi trưa tôi tập với ban nhạc. Hôm đó ở căn tin có pizza. Buổi tối chúng tôi ăn gà nướng. Chúng tôi xem Seinfeld và ER.”

“Còn Jack?”

“Khi nào có ở nhà thì Jack có mặt trong tất cả các sự kiện. Anh ấy tham gia hết. Các trận đấu. Món gà nướng. Seinfeld. Còn anh thì sao? Anh thường làm gì khi không làm việc cho Liên đoàn?”

“Tôi là trợ giáo,” anh đáp. “Tôi dạy bay trong thời gian rảnh rỗi tại một sân bay ở Virginia. Thật ra thì đó chỉ là một cánh đồng cỏ, với vài chiếc máy bay Cessna. Các lớp học rất vui, chỉ có điều họ không chịu xuống đất.”

“Cái gì không chịu xuống đất?”

“Các học viên trong những chuyến bay một mình đầu tiên của họ.”

Cô bật cười.

Họ ngồi trong sự im lặng dễ chịu, tựa lưng vào đá. Âm thanh dìu dặt của biển chợt trở nên thật thanh bình.

“Có lẽ tôi nên bắt đầu nghĩ đến những chi tiết của đám tang,” cô nói sau một lúc im lặng.

“Cô có dự định tổ chức ở đâu chưa?”

“Tôi nghĩ phải làm ở nhà thờ Thánh Joseph ở Ely Falls thôi,” cô đáp. “Đó là nhà thờ Công giáo gần nhất.”

Cô dừng lại.

“Chắc chắn họ sẽ ngạc nhiên khi thấy tôi,” cô nói.

“Chúa ơi,” Robert thốt lên.

Bối rối trước phản ứng này, cô cảm thấy Robert giật giật tay áo cô, bảo cô đứng dậy. Cô quay lại để nhìn thứ mà Robert đang nhìn. Một thanh niên cột tóc đuôi gà đang chĩa ống kính to gần bằng một chiếc tivi về phía họ. Kathryn có thể thấy ảnh phản chiếu của cô và Robert trong ống kính khổng lồ.

Cô nghe thấy tiếng tách, tách, tách nhẹ nhàng, chuyên nghiệp của kẻ làm nhiệm vụ.

***

Họ đang ở trong nhà bếp khi cô quay lại, Somers cuốn một bản fax trong tay, Rita đung đưa điện thoại dưới cằm. Không cởi áo khoác ra, Kathryn nói cô có một tuyên bố ngắn cần thông báo. Somers ngước lên từ bản fax.

“Chồng tôi, Jack, chưa bao giờ cho tôi hoặc bất kì ai thấy dấu hiệu nào của sự bất ổn, nghiện thuốc, nghiện rượu, trầm cảm, hoặc đau ốm,” cô nói.

Cô nhìn Somers gấp bản fax làm bốn.

“Theo như tôi biết,” cô tiếp tục, “anh ấy luôn luôn mạnh khỏe, về thể chất lẫn tinh thần. Chúng tôi sống rất hạnh phúc. Chúng tôi là một gia đình bình thường, hạnh phúc sống trong một cộng đồng nhỏ. Tôi sẽ không trả lời bất kỳ câu hỏi nào khác nếu không có luật sư hiện diện, và không có thứ gì được đưa ra khỏi nhà này nếu không có giấy tờ yêu cầu hợp pháp. Như các vị đã biết, con gái tôi đang ở với bà cố của cháu trong thị trấn này. Không ai được phỏng vấn hoặc liên lạc họ bằng bất kỳ cách nào. Chấm hết.”

“Chị Lyons này,” Somers nói. “Chị đã liên lạc với mẹ của Jack chưa?”

“Mẹ anh ấy chết rồi,” cô đáp nhanh.

Và rồi, trong sự im lặng tiếp theo, cô biết có chuyện gì đó không ổn. Có thể đó là cái nhướn mày nhỏ nhất, nét cười thoáng hiếm hoi trên mặt Somers. Hoặc có thể sau đó cô đã tưởng tượng ra những tín hiệu này. Sự im lặng tuyệt đối đến nỗi dù cho có đến chín người trong phòng, nhưng tất cả những gì cô nghe thấy là tiếng tủ lạnh chạy rì rì.

“Tôi không nghĩ vậy,” Somers nhẹ nhàng nói, nhét tờ giấy gấp tư vào túi áo.

Sàn nhà dường như lún xuống và chao đảo như chuyến tàu lượn cao tốc ở công viên giải

Somers lôi ra một tờ giấy xé từ quyển sổ tay ở một túi khác.

“Matigan Rice,” ông ta đọc. “Nhà dưỡng lão Forest Park, 47 Phố Adams, Wesley, Minnesota.”

Chuyến tàu tăng tốc rồi lao thẳng xuống từ độ cao mười lăm mét. Kathryn cảm thấy xây xẩm mặt mày.

“Bảy mươi hai tuổi, sinh ngày 22 tháng mười năm 1924. Ba đời chồng. Li dị ba lần. Chồng đầu tiên là John Francis Lyons. Một con trai, John Fitzwilliam Lyons, sinh ngày 18 tháng tư năm 1947, Bệnh viện Faulkner, Boston.”

Miệng Kathryn khô khốc, cô liếm môi trên. Có lẽ có chuyện gì đó mà cô hiểu chưa đúng.

“Mẹ của Jack còn sống ư?” cô hỏi.

“Đúng.”

“Jack luôn nói là...”

Cô dừng lại. Cô nghĩ về điều Jack luôn nói. Mẹ anh đã mất khi anh mới chín tuổi. Vì bệnh ung thư. Kathryn liếc nhanh sang Robert, và cô có thể thấy từ nét mặt anh ta rằng anh ta cũng bị bất ngờ. Cô nghĩ đến sự ngạo nghễ, sự quả quyết thiển cận của mình khi đưa ra lời tuyên bố chỉ vài giây trước.

“Dường như là thế,” Somers nói.

Tay điều tra viên đang thích thú việc này, Kathryn nghĩ.

“Làm sao ông phát hiện ra bà ấy?” cô hỏi.

“Bà ấy có tên trong hồ sơ quân đội của anh ta.”

“Còn bố của Jack?”

“Đã qua đời.”

Cô ngồi xuống chiếc ghế gần nhất và nhắm mắt lại. Cô cảm thấy hơi váng vất, căn phòng quay cuồng khó chịu dưới mi mắt cô.

Trong ngần ấy năm qua, cô nghĩ, vậy mà cô không hề biết gì. Trong ngần ấy năm qua, Mattie có một bà nội. Một bà nội là cảm hứng đặt tên cho nó.

Nhưng tại sao? cô thầm hỏi.

Jack, tại sao? Cô thầm hỏi chồng mình.