Vợ phi công - Chương 11 phần 2
Khi đã có số điện thoại, cô gọi điện đến viện dưỡng lã
“Forest Park,” một phụ nữ trẻ trả lời.
“Ồ, xin chào,” Kathryn hồi hộp nói. “Tôi muốn nói chuyện với bà Matigan Rice.”
“Ái chà, hay thật,” cô gái nói, Kathryn nghĩ cô ta đang ăn hoặc nhai kẹo cao su.
“Đây là cuộc gọi tìm bà Rice lần thứ ba trong ngày hôm nay,” cô ta nói tiếp, “và chẳng có ai gọi cho bà ta trong bao lâu nhỉ, xem nào, dễ cũng sáu tháng rồi đấy.”
Cô ta phát ra tiếng hút, như đang uống nước bằng ống hút.
“Mà dù thế nào đi nữa, bà Rice cũng không nghe điện thoại được. Bà ấy rất yếu, không thể rời phòng, và ngoài những vấn đề sức khỏe khác ra thì bà ấy nghe kém lắm, thế nên nghe điện thoại là việc bất khả thi.”
“Bà ấy thế nào rồi?” Kathryn hỏi.
“Vẫn thế.”
“Vậy à,” Kathryn ngập ngừng. “Tôi chỉ đang cố gắng nhớ lại... bà Rice vào đây khi nào.”
Đầu dây bên kia im lặng.
“Chị có phải là thân nhân không đấy?” cô ta hỏi vẻ cảnh giác.
Kathryn suy nghĩ về câu hỏi đó. Cô có phải là thân nhân không? Jack, vì lý do riêng, đã chọn cách không thừa nhận mẹ mình còn sống, và do đó, theo logic mà nói thì bà không còn sống nữa - chắc chắn đã không còn sống đối với Kathryn và Mattie. Kathryn không biết nên làm Matigan Rice sống lại bằng cách nào. Có phải Jack nói dối về mẹ vì cảm thấy xấu h? Phải chăng anh và bà có một vướng mắc không thể tháo gỡ?
“Không, tôi không phải là thân nhân,” Kathryn đáp. “Sắp có một buổi lễ tưởng niệm dành cho con trai bà ấy, và tôi muốn báo tin cho bà ấy biết.”
“Con trai bà ấy chết rồi ư?”
“Vâng.”
“Tên anh ta là gì?”
“Jack. Jack Lyons.”
“OK.”
“Anh ấy vừa thiệt mạng trong một vụ tai nạn máy bay,” Kathryn nói thêm.
“Thật ư? Ý chị là vụ tai nạn máy bay Vision đó à?”
“Phải.”
“Ôi, Chúa ơi, vụ đó thật đáng sợ nhỉ? Loại người gì mà lại đi tự sát rồi giết luôn những người vô tội như thế?”
Kathryn im lặng.
“Chà, đây là lần đầu tiên tôi hay tin con trai bà Rice có mặt trên chuyến bay đấy. Chị có muốn tôi cố gắng báo tin cho bà ta không? Tôi không thể hứa với chị là bà ta sẽ hiểu...”
“Vâng,” Kathryn lạnh lùng nói. “Tôi nghĩ cô nên tìm cách báo tin cho bà ấy.”
“Có lẽ tôi nên báo với người phụ trách của tôi trước đã. À mà cá chị đã báo cho chúng tôi nhé, tôi hy vọng chị không có người thân trên chuyến bay đó.”
“Thật ra là tôi cũng có.”
“Ôi, Chúa ơi, tôi rất tiếc.”
“Chồng tôi chính là phi công,” Kathryn nói.
***
Những ngày sau khi gặp linh mục, Kathryn và Cha Paul thường xuyên nói chuyện với nhau, và vị linh mục đã hai lần lái xe đến nhà bà Julia để viếng thăm. Tại cuộc gặp đầu tiên ở nhà thờ, Robert đã khẳng định cần phải có an ninh, còn Cha Paul dường như không nghĩ rằng việc này nằm ngoài tầm kiểm soát của mình, dù trong chuyện này, theo những gì đã xảy ra, ông đã tự tin thái quá. Sau nhiều lần nhắc lại, Kathryn đã có thể nói nhiều hơn chữ tưởng nhớ, dù Cha Paul không đòi hỏi nhiều hơn thế, và cô cảm kích điều đó. Giờ đây mỗi khi nghĩ đến Cha Paul, cô đều cảm thấy rùng mình một cách nhẹ nhõm, vì nếu không có sự thu xếp chu đáo của ông, buổi lễ tưởng niệm sẽ thất bại thảm hại.
Theo chương trình, cô cùng bà Julia và Mattie phải đến nhà thờ một tiếng trước giờ làm lễ để có thể đi lại dễ dàng và không gặp trở ngại trên đường, vì đường sá sau đó đã tắc nghẽn đến độ không có gì - thậm chí một chiếc xe cấp cứu - có thể lọt qua. Mattie mặc váy lụa dài màu xám và áo khoác đen cắt ngắn. Người nó run bần bật khi Cha Paul nói giờ đây bố nó đã hạ cánh an toàn. Julia và Kathryn mặc vest và nắm tay nhau. Hay chính xác hơn là Julia nắm tay Kathryn, còn Kathryn nắm tay Mattie, và sự truyền dẫn sức mạnh này, ý chí của sức mạnh từ người này sang người kia và người kế tiếp, đã giúp cho Kathryn, và cô nghĩ cũng giúp cả bà Julia và Mattie nữa, vượt qua buổi lễ. Nhưng cuối cùng, khi Kathryn đứng dậy từ hàng ghế, quay lưng lại để nhìn phía sau nhà thờ và thấy hàng hàng lớp lớp phi công mặc vest đen, phi công của nhiều hãng hàng không, đa số chưa bao giờ gặp Jack, rồi đến những hàng học sinh từ các lớp học của cô, trong đó một số em đã tốt nghiệp và quay về để tham dự sự kiện này, cô đã khụy xuống suýt ngã, và chính Mattie, đột ngột đổi vai trò, đã đỡ cô dậy, giúp cô đứng vững. Mattie, Kathryn và Julia sau đó đã đi đến cuối dãy ghế, và Kathryn nghĩ rằng đó có thể là quãng đường dài nhất cô từng đi qua. Vì trong lúc đi, cô có cảm giác mơ hồ rằng khi cô đến được cửa nhà thờ và ngồi vào chiếc xe màu đen đang đợi bên ngoài, cuộc đời của cô với Jack sẽ thật sự chấm dứt.
Ngày hôm sau, báo chí đăng ảnh chụp Kathryn rời khỏi nhà thờ Thánh Joseph, và cô ngạc nhiên không chỉ vì mình xuất hiện đồng loạt trên trang nhất một số tờ báo trên sạp báo ngoài cửa hiệu Ingerbretson, mà còn bởi chính bức ảnh đó: Cô nhận thấy nỗi buồn đã làm biến đổi khuôn mặt, đào những hố sâu, kẻ những nếp nhăn và làm cơ bắp chảy xệ, khiến khuôn mặt cô gần như không thể nhận ra. Trong ảnh, Kathryn nắm chặt tay con gái làm điểm tựa, trông cô bần thần, hoang mang và già đi nhiều tuổi.
Lúc này cô nhíu mày để nhớ lại bức ảnh đó, và những bức ảnh khác, xui xẻo nhất là ảnh chụp cô và Robert ở chỗ trú ẩn ngoài bãi biển, Robert kéo tay áo cô, cả hai trông thoáng sợ hãi và bị dồn vào đường cùng. Cô nghĩ đó là một bức ảnh đặc biệt đau đớn, vì trong thực tế, Robert đã nổi đóa trước thủ đoạn không biết xấu hổ của tay phóng viên ảnh. Đến tận bây giờ cô vẫn còn nghe tiếng Robert hét lên với tay phóng viên ảnh trong lúc anh leo lên đá và đuổi theo gã qua bãi cỏ. Sau đó, sự phẫn nộ của Robert và cuộc rượt đuổi khiến Kathryn cảm thấy tràn đầy tự tin đến nỗi cô đã xúc động đến mức đưa ra tuyên bố khi vừa bước vào nhà - lời tuyên bố lập tức tan thành mây khói khi Somers nhắc đến mẹ của Jack.
Sau hôm ở cửa hiệu Ingerbretson về, Kathryn thôi không còn để mắt đến báo chí hoặc tivi nữa. Sau lễ tưởng niệm, cô chỉ định ở lại nhà bà Julia một đêm, nhưng không ngờ chuyến thăm đó lại kéo dài qua lễ Giáng sinh. Cũng như Mattie, Kathryn không thể đặt chân về nhà, và cô cũng không thể bảo Mattie về nhà với cô khi chưa dọn dẹp hết những kỷ vật có thể khiến Mattie lao ra khỏi cửa. Chỉ một lần duy nhất, lúc ở nhà bà Julia, có người vô tình quên tắt tivi, thế nên trước khi Kathryn kịp nhận ra chuyện gì đang xảy ra, cô đã đứng ngây người xem đoạn phim đồ họa mô phỏng những sự kiện xảy ra sau vụ nổ trong buồng lái của chuyến bay Vision 384. Theo diễn biến đó, buồng lái đã đứt rời khỏi thân máy bay, còn thân máy bay thì nổ tung thành từng mảnh nhỏ trong một vụ nổ thứ hai. Đoạn phim đồ họa mô tả đường di chuyển của nhiều bộ phận khi rơi xuống biển. Theo phóng viên, cú rơi có thể diễn ra trong khoảng chín mươi giây. Kathryn không thể rời mắt khỏi màn hình. Cô dõi theo đường vòng cung của buồng lái đồ họa khi nó rơi xuống nước, làm nước bắn lên và chìm nghỉm.
Những cuộn mây màu trắng sữa đang dày lên, làm giảm ánh sáng chiếu vào cửa sổ phòng ngủ của khách. Kathryn ngồi dậy trên giường, quyết tâm bắt tay vào dọn dẹp. Cô nghe tiếng bước chân ngoài hành lang nên vội thả hai chân xuống cạnh giường. Chắc là bà Julia, cô nghĩ, đến để giúp một tay. Nhưng khi Kathryn ngước lên, cô nhận ra người đang đứng ở khung cửa không phải là bà Julia, mà là Robert Hart.
“Tôi đến nhà bà của cô,” anh ta nói ngay, “cụ bảo cô đã về đây.”
Anh đút tay vào túi áo khoác thể thao, chiếc áo có màu mềm mại mơ hồ, có lẽ là màu nâu sẫm. Trông anh thật khác khi mặc quần jean. Tóc anh hơi rối, giống như anh mới dùng tay vuốt tóc lại.
“Tôi đến đây không phải vì công việc,” anh nói. “Tôi được nghỉ vài ngày. Tôi muốn xem cô thế nào rồi.” Anh bước vào phòng.
Cô tự hỏi anh có gõ cửa phía sau nhà không, và giả dụ có, thì tại sao cô lại không nghe thấy.
“Tôi rất vui khi gặp lại anh,” cô nói và tự ngạc nhiên về chính mình.
Mà đúng là vậy. Cô có thể cảm thấy một khối nặng – không phải toàn bộ trọng lượng, chỉ là một phần nhỏ nhùng nhằng – trượt khỏi vai mình.
“Mattie thế nào rồi?” anh hỏi, đi vào phòng và ngồi xuống chiếc ghế sơn mài đỏ.
Đó sẽ là một bức ảnh thú vị, Kathryn chợt nghĩ, người đàn ông ngồi trên ghế sơn mài đỏ trên nền sơn xanh đọt chuối. Một người đàn ông hấp dẫn. Một khuôn mặt thu hút. Chỏm tóc và mái tóc màu đất, kết hợp với tướng ngồi hơi thõng vai, đút tay vào túi, khiến anh trông hao hao người Anh, như một nhân vật trong một bộ phim về Thế chiến thứ hai. Một người đang chìm trong suy tư, cô nghĩ
“Kinh khủng,” Kathryn đáp, cảm thấy nhẹ nhõm khi có người để nói về Mattie. Bà Julia đã quá mệt mỏi nên cô không muốn tạo thêm gánh nặng cho bà với những mối bận tâm của riêng mình. Bà đã chịu khổ sở quá nhiều, nhiều hơn bất kỳ người phụ nữ bảy mươi tám tuổi nào.
“Mattie đang vật vã lắm,” Kathryn kể đơn giản với Robert. “Nó bồn chồn, lo lắng, không tập trung được vào bất kỳ việc gì. Thỉnh thoảng nó cố xem tivi, nhưng việc đó bây giờ không an toàn nữa. Ngay cả khi chương trình nó xem không phải là tin tức thì vẫn luôn có cái gì đó khiến nó nhớ đến bố. Tối qua, nó đi đến nhà của Taylor để gặp vài đứa bạn, và khi trở về nó cực kỳ cáu bẳn. Một người bạn của bố Taylor có mặt tại nhà đã hỏi Mattie là sắp tới có phiên tòa xét xử không, và Mattie đã mất hết tự chủ. Bố của Taylor phải chở nó về.”
Kathryn nhận ra Robert đang nhìn cô chăm chú.
“Tôi cũng không biết nữa,” cô nói. “Tôi lo lắm, Robert ạ. Thực sự rất lo. Mattie dễ nổi cáu lắm. Nó rất mong manh dễ vỡ. Nó không chịu ăn uống gì cả. Đôi khi nó phá ra cười như điên dại. Dường như nó không còn biết cách phản ứng phù hợp với bất kỳ thứ gì nữa. Dù tôi cũng muốn biết thế nào là phù hợp. Tôi bảo Mattie rằng cuộc sống không phải đã tan biến, chúng ta không thể phá bỏ các luật lệ, và nó đáp, khá đúng, rằng mọi luật lệ đều đã bị phá vỡ rồi.”
Anh gác chéo chân theo kiểu đàn ông, mắt cá chân này đặt trên đầu gối chân kia.
“Giáng sinh của cô thế nào?” anh hỏi.
“Buồn lắm. Rất thảm hại. Từng phút đều rất thảm hại. Điều tồi tệ nhất là chứng kiến Mattie cố gắng. Như thể nó mắc nợ tôi và bà Julia vậy. Như thể nó mắc nợ bố nó. Giờ tôi chỉ ước giá như chúng tôi đã hủy toàn bộ mọi việc. Còn anh thì sao?”
“Buồn,” anh đáp. “Thảm hại.
Kathryn mỉm cười.
“Cô đang làm gì trong này?” anh hỏi, nhìn quanh phòng, như để tìm manh mối từ một món đồ nào đấy.
“Tôi đang cố tình tránh né dọn dẹp nhà cửa. Trước nay tôi luôn dùng phòng này làm nơi nghỉ ngơi. Tôi ẩn nấp trong đây. Anh đang làm gì ở đây? Đó mới là câu cần hỏi đấy.”
“Tôi được nghỉ vài ngày.”
“Thì sao?”
Anh bỏ chân xuống, đút tay vào túi quần.
“Vào đêm cuối cùng, Jack không nghỉ ở căn hộ dành cho phi hành đoàn,” anh nói.
Không khí trong phòng trở nên ngột ngạt và nặng nề.
“Anh ấy đi đâu?” Kathryn khẽ hỏi.
Sao người ta lại có thể mau mắn đặt ra một câu hỏi mà mình không muốn nghe câu trả lời thế nhỉ, Kathryn tự nhủ, và đây không phải là lần đầu tiên. Tựa như một phần của lý trí thách thức phần còn lại.
“Chúng tôi không biết,” Robert đáp. “Như cô đã biết, anh ấy là người Mỹ duy nhất trong phi hành đoàn. Khi máy bay hạ cánh, Martin và Sullivan lên xe của họ rồi lái về nhà. Chúng tôi biết rằng Jack đã đến căn hộ, tuy rất ngắn ngủi, vì anh ấy đã gọi hai cuộc điện thoại, một cuộc cho cô và một cuộc cho một nhà hàng để đặt bàn tối hôm đó. Nhưng theo người giúp việc, không có ai ngủ lại đó vào tối thứ hai. Có vẻ như Ban An toàn đã biết chuyện này một thời gian rồi. Nó sẽ xuất hiện trong bản tin hôm nay. Buổi trưa,
Kathryn nằm xuống giường và nhìn lên trần nhà. Cô không có ở nhà khi Jack gọi điện, và anh đã để lại lời nhắn trong máy ghi âm. Chào cưng, anh đây. Anh sắp xuống dưới để kiếm gì ăn. Em gọi điện cho Alfred chưa? Hẹn sớm gặp lại em nhé.
“Tôi không muốn cô bị bất ngờ. Tôi không muốn cô nhận tin này một mình.”
“Mattie...,” cô thốt lên.
“Tôi đã báo với bà Julia rồi,” anh nói. Anh đứng dậy, đi qua phòng, ngồi xuống ở cuối giường, gần như không chạm lên mép giường. Anh mặc áo cotton màu sẫm, có lẽ là màu xám, dù Kathryn tự hỏi có phải màu đó cũng được gọi là màu nâu sẫm không.
Đầu óc cô cảm thấy bị xô đẩy, đè nén. Nếu Jack không ngủ trong căn hộ phi hành đoàn thì anh đã ngủ ở đâu? Cô nhắm mắt, không muốn nghĩ đến điều đó. Nếu có người hỏi, cô hẳn đã nói rằng cô biết chắc chồng cô chưa bao giờ thiếu chung thủy. Chuyện này không giống Jack, cô muốn nói với Robert như vậy. Đó hoàn toàn không phải là anh ấy.
“Chuyện này sẽ chấm dứt,” Robert nói.
“Đó không phải là tự sát.” Cô cảm thấy thôi thúc ít nhất phải nói ra điều này. Cô cảm thấy như vậy một cách tuyệt đối.
Anh nghiêng người qua, đặt tay lên tay cô. Theo bản năng, cô rút tay lại, nhưng anh nắm chặt.
Cô không muốn hỏi, cô đã không hỏi, nhưng cô phải hỏi, và cô có thể thấy rằng anh đang chờ đợi câu hỏi. Cô từ từ ngồi dậy, rút tay lại, và lần này Robert thả ra.
“Cuộc hẹn đặt bàn cho bao nhiêu người?” cô hỏi hết sức
“Cho hai người.”
Cô bặm môi. Như thế cũng không có ý nghĩa gì, cô nghĩ. Có thể là cho Jack và một người trong phi hành đoàn, phải không nhỉ? Cô thấy ánh mắt của Robert hướng ra cửa sổ rồi quay lại. Người nào trong phi hành đoàn? cô tự hỏi.
“Cô giữ liên lạc với Jack thế nào mỗi khi anh ấy đi xa?” Robert hỏi.
“Anh ấy gọi cho tôi. Như thế dễ hơn, vì lịch của tôi lúc nào cũng vậy. Anh ấy gọi cho tôi ngay sau khi đến căn hộ phi hành đoàn. Nếu cần liên lạc thì tôi sẽ để lại tin nhắn trong hộp thư thoại của anh ấy. Chúng tôi đã thỏa thuận với nhau như thế vì tôi không bao giờ biết khi nào thì anh ấy đang cố chợp mắt.”
Cô nghĩ đến sự thỏa thuận đó. Đó là đề nghị của cô hay của Jack? Họ đã làm thế trong nhiều năm rồi, cô không nhớ nổi đã bắt đầu như thế nào nữa. Và đó dường như luôn là một hệ thống hợp lý, không có gì phải hỏi. Kỳ lạ thật, cô nghĩ, một sự việc nhìn ở góc độ này thì ra thế này, nhưng khi nhìn ở góc độ khác thì lại ra một thứ hoàn toàn khác. Hoặc có lẽ nó không kì lạ đến mức đó.
“Rõ ràng chúng ta không thể hỏi phi hành đoàn,” cô nói.
“Đúng.”
Cô nghĩ đến câu hỏi mà Mattie đã hỏi cô vào ngày nó nhận được tin đồn về vụ tự sát: Làm sao mẹ biết rằng mẹ biết một ai đó?
Kathryn đứng dậy và đi đến cửa sổ. Cô đang mặc áo thun cũ rộng thùng thình và quần jean sờn gối mà cô đã mặc mấy ngày rồi. Cả đôi tất mà cô đang đi cũng không sạch. Cô không nghĩ hôm nay mình sẽ gặp ai. Cô nghĩ khi đau buồn thì ngoại hình là thứ đầu tiên bỏ đi. Hay nhân phẩm mới là thứ đầu tiên?
“Tôi không cn khóc được nữa,” cô nói. “Giai đoạn đó qua rồi.”
“Kathryn...”
“Đó là chuyện chưa có tiền lệ,” cô nói tiếp. “Tuyệt đối không có tiền lệ. Chưa có phi công nào từng bị buộc tội tự sát trong hãng hàng không cả.”
“Thật ra, không phải là không có tiền lệ,” Robert nói. “Từng có một vụ.”
Kathryn quay mặt lại từ cửa sổ.
“Ở Maroc. Một máy bay của hãng Royal Air Maroc đã rơi gần Agadir vào tháng tám năm 1994. Chính phủ Maroc, dựa theo đoạn băng CVR, cho rằng tai nạn đó là do hành động tự sát. Có vẻ như phi công đã cố tình ngắt chế độ bay tự động và hướng máy bay xuống đất. Chiếc máy bay bị vỡ trước khi va chạm. Bốn mươi bốn người chết.”
“Chúa ơi!”
Cô đưa tay lên che mắt. Không thể không thấy, dù chỉ trong một tích tắc, nỗi khiếp đảm của cơ phó khi chứng kiến cơ trưởng tự sát, cơn hoảng loạn kinh hoàng của các hành khách trong máy bay khi họ cảm thấy sự rơi đột ngột.
“Chừng nào họ mới công bố đoạn băng?” cô hỏi. “Đoạn băng của Jack?”
Robert lắc đầu. “Tôi ngờ rằng họ sẽ không bao giờ công bố nó. Họ không cần phải làm thế. Đoạn trích được lấy dựa theo Đạo luật Tự do Thông tin. Khi các đoạn băng được công bố, thì nội dung của nó hoặc là không có gì nhạy cảm, hoặc là đã được kiểm duyệt kỹ càng.”
“Vậy là tôi sẽ không bao giờ phải nghe nó.”
“Tôi nghĩ vậy.
“Nhưng vậy thì... làm sao chúng ta biết được chuyện gì đã xảy ra?”
“Ba mươi cơ quan khác nhau ở ba quốc gia đang điều tra về vụ nổ này,” Robert nói. “Tin tôi đi, Liên đoàn ghét lời cáo buộc tự sát hơn bất kỳ ai khác – thậm chí chỉ là manh mối của một vụ tự sát. Tất cả các nghị sĩ ở Washington đang kêu gọi kiểm tra tâm lý phi công gắt gao hơn, mà theo quan điểm của Liên đoàn thì đó là một cơn ác mộng. Vụ này càng được giải quyết sớm thì càng tốt.”
Kathryn xoa bóp cánh tay, làm cho máu lưu thông. “Tất cả chỉ là chuyện chính trị, phải không?” cô hỏi.
“Thường là thế.”
“Vì vậy mà anh mới đến đây.”
Anh ngồi trên giường, im lặng. Anh lấy tay vuốt phẳng ga trải giường. “Không. Không phải bây giờ.”
“Vậy anh đến đây với tư cách là...?”
“Tôi ở đây,” anh đáp, ngước lên. “Tôi chỉ ở đây, vậy thôi.”
Cô gật đầu chậm rãi. Cô muốn mỉm cười. Cô muốn nói với Robert Hart rằng cô rất vui khi anh có mặt ở đó, rằng trải qua toàn bộ chuyện này một mình là điều vô cùng khó khăn, và rất khó khăn khi không được ở bên người duy nhất mà cô cần, đó là Jack.
“Áo anh mặc có phải loại tốt không?” cô hỏi nhanh.
“Không hẳn.”
“Anh có muốn làm việc”