Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - Hồi 5 - Chương 18 - Phần 1
Chương XVIII: TIẾN CỬ NGƯỜI HIỀN
Sau khi Gia Cát Lượng làm thừa
tướng, đặc biệt cho xây dựng ở phía nam Thành Đô một “đài đọc sách”, để tập hợp
các nhà nho gia, kiêm tiếp đãi hiền sĩ bốn phương. Ông ta cũng đặc biệt đưa ra
hai nguyên tắc lớn để thu thập nhân tài: một là có tầm hiểu biết rộng, hai là
có năng lực thực tế.
1. Đạo lý trị quốc, xem trọng cử hiền.
Theo như ghi chép lịch sử, Gia
Cát Lượng là một nhân vật bi kịch một đời tận tụy cho đến chết, bởi thế mà
không ít nhà sử học phê bình Gia Cát Lượng không biết dùng người, chẳng hữu
hiệu bồi dưỡng thế hệ kế cận mới tạo thành thất bại sau này. Thực ra trong Tam
quốc diễn nghĩa, sau khi mô tả tô vẽ quá mức kỳ tài của Gia Cát Lượng, để giải
thích cho thất bại của Thục Hán, không thể không cho là Gia Cát Lượng không
biết dùng người, tạo ra ấn tượng sai lầm Thục Hán thiếu nhân tài.
Trong Tam quốc diễn nghĩa có
nói: “Thục Trung không còn đại tướng, đến như Lưu Hóa cũng được cử làm tiên
phong”, như vậy là rất không công bằng, trong thời gian Gia Cát Lượng còn sống
và cả sau này nữa, Thục Trung có rất nhiều nhân tài, giỏi văn giỏi võ không kém
thời đại Lưu Bị. Thất bại của Thục Hán, có những nguyên nhân khác, riêng về
nhân tài thì một chút cũng không thiếu vậy.
Trong “Gia Cát Lượng văn tập”
từng chỉ rõ đạo lý trị quốc, phải xem trọng việc tiến cử hiền tài. Bởi thế Gia
Cát Lượng điều hành nước Thục rất quí trọng nhân tài. Như trên đã nói, ông từng
đề bạt Trương Nghi xuất thân hèn kém, Vương Bình không biết chữ nào, chỉ cần là
người có tài thực sự, bất luận bối cảnh xuất thân, đều có thể được trọng dụng,
Trương Nghi và Vương Bình sau này đều lập công lớn, trở thành nhân vật quan
trọng của vương triều Thục Hán.
Dương Hồng là thuộc hạ của Lý
Nghiêm, khi Lưu Bị với Tào Tháo đối trận ở Hán Trung, tiến thóai do dự không
quyết. Dương Hồng đề nghị rằng: “Hán Trung là yết hầu của Ích Châu, không có
Hán Trung làm bình phong, Thành Đô luôn bị uy hiếp. Vì phải huy động tất cả con
trai ra chiến đấu, con gái đều phải vận chuyển lương thực, chiến trường này
không thể không đánh đến cùng”.
Được sự giúp đỡ của Dương Hồng,
Lưu Bị cuối cùng đã đoạt được Hán Trung, Gia Cát Lượng rất khẳng định năng lực
của Dương Hồng, dâng biểu đề bạt ông ta làm Thái thú Thục Quận. Dương Hồng là
người chủ quản rất hiểu rõ việc đề bạt nhân tài. Ông ta có một viên thư lại tên
gọi là Hà Chi, rất có tài cán, đã tiến cử với Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng sau
khi xem xét kĩ, cũng rất thích tài cán quản lý về hành chính của Hà Chi, trong
mấy năm, cuối cùng đã đề bạt ông ta làm Thái thú Quảng Hán, ngang hàng quan
chức với Dương Hồng.
Có lần hai người chạm mặt ở
trong triều, bởi đã cùng thứ bậc, Dương Hồng nói đùa rằng: “Ngựa của ông sao
chạy nhanh đến thế?”. Hà Chi cũng cười mà rằng: “Chẳng phải ngựa của tôi chạy
nhanh đâu, bởi ông chưa quất roi phóng ngựa ấy thôi!”
Câu chuyện giữa hai người trở
thành giai thoại đương thời.
2. Quyền thuật - Tính tình - Ý chí
Khương Duy là người kế thừa Gia
Cát Lượng về mật quân sự sau này, cũng là người được Gia Cát Lượng đặc biệt đề
bạt.
Khương Duy là người Thiên Thủy,
vốn là một viên quan nhỏ ở quận lị của Tào Ngụy, khi Gia Cát Lượng bắc phạt lần
thứ nhất, Khương Duy qui hàng, Gia Cát Lượng rất cảm mến tài năng, ngoài việc
để ở bên mình làm tham mưu chủ yếu, lại phong ông ta làm Phụng nghĩa tướng
quân, Khương Duy lúc đó mới hai mươi bảy tuổi mà thôi.
Gia Cát Lượng trong thư gửi cho
Trương Duệ và Tưởng Uyển vẫn khen ngợi Khương Duy là người trung cần với công
việc, suy tư kĩ lưỡng, là kẻ sĩ hàng đầu của Lương Châu, hơn nữa lại mẫn cảm về
quân sự, có can đảm, hiểu rõ binh pháp. Không lâu lại đề bạt làm Chinh tây
tướng quân trở thành một tướng lĩnh quân sự quan trọng của vương triều Thục
Hán. Trong cuốn sách của Trương Dực có tên là “Sử trát ký”, có so sánh đạo dùng
người của Tào Tháo, Lưu Bị, anh em Tôn Quyền và Gia Cát Lượng. Ông ta cho rằng
Tào Tháo dùng người thì tìm kiếm ở phương pháp, thậm chí nặng về quyền thuật.
Lưu Bị thì nặng về cảm tính, về việc dùng người thì xem trọng tính tình phù
hợp. Anh em Tôn Quyền hào kiệt, tìm kiếm người hợp với chí khí. Gia Cát Lượng
thì tổng hợp cả ba mặt nêu trên.
Bởi vương triều Thục Hán ở nơi
xa xôi, so với Ngụy Ngô thì lãnh thổ bé mà người thì ít, bởi thế Gia Cát Lượng
càng phải chú ý đến, yêu mến nhân tài chỉ cần có tài năng một mặt ví như họ có
khuyết điểm, cũng phát huy hết sở trưởng của họ. Ông ta với Ngụy Diên, Dương
Nghi, Hứa Tĩnh, Lý Nghiêm, Lưu Lập, cách nhìn nhận là cơ thuật, có thể nói ít
nhiều là quyền thuật.
Song về bản tính Gia Cát Lượng
mà nói, ông ta vẫn thích những kẻ sĩ trung trực. Xem những hiền tài là cây cột
trụ bền vững. “Xuất Sư Biểu” cũng nói đến thân hiền thần, xa tiểu nhân, ông ta
cũng tiến cử với hậu chủ Lưu Thiện những người như Quách Du Chi, Phí Vỹ, Đổng
Doãn, Hướng Sủng, và sau này là những trụ cột hàng đầu của triều đình như Trần
Chấn, Trương Duệ, Tưởng Uyển; những người này tài cán có chỗ khác nhau, song tư
tưởng phẩm cách đều là những kẻ sĩ trung trực, ông ta cho rằng gỗ tốt mọc ở
rừng sâu, kẻ chân sĩ ở trong quần chúng. Bởi thế thường chú ý tìm kiếm các quan
lại địa phương bình thường, những kẻ sĩ tài cán có kinh nghiệm.
Phương Hiếu Nhụ là nhà nho học
lớn đời Minh, cho rằng Gia Cát Lượng làm thừa tướng, đã nỗ lực tiến cử hiền
tài, các tể tướng từ Tần Hán đến nay cũng chẳng thể sánh kịp.
3. Chú trọng giáo dục, tăng cường thực tiễn
Bởi muốn tiến cử được nhiêu
người hiền tài giúp nước, Gia Cát Lượng rất xem trọng việc giáo dục. Thời Lưu
Yên, Lưu Chương nước Thục có thể nói rằng suy vi về học vấn.
Sau khi Lưu Bị cai trị Ích
Châu, Gia Cát Lượng xem trọng giáo dục, còn đặc biệt lập ra người chủ quản phụ
trách giáo dục, gọi là khuyến học tòng sự, những đại nho ích Châu như Trương
Sản, Duẩn Mặc, Tiều Chu đều đã từng đảm nhiệm chức vụ này.
Sau khi Lưu Bị xưng đế, Gia Cát
Lượng lại chính thức thành lập Phủ thái học tối cao, do những tiến sĩ truyền
dạy. Lấy kinh sách cổ văn và sách kinh điển nho gia làm giáo trình chủ yếu, bởi
thế chính quyền Thục Hán đã bồi dưỡng được không ít nhân tài. Tiều Chu đảm
nhiệm chức Khuyến học tòng sự rất lâu, là một nhà sử học và kinh điển học nổi
tiếng lúc đó, đôi với thiên văn tướng số nghiên cứu rất sâu sắc. Học sinh được
ông bồi dưỡng, bao gồm cả nhà đại sử học Trần Thọ từng viết Tam quốc chí, và Lý
Mật nổi tiếng với Trần tình biểu.
Sau khi Gia Cát Lượng làm thừa
tướng đặc biệt cho xây dựng ở Thành Đô một đài đọc sách để tập hợp các nhà nho,
kiêm tiếp đãi các hiền sĩ bốn phương. Ông ta đặc biệt nêu ra hai nguyên tắc tập
hợp nhân tài một là có suy nghĩ sâu rộng, hai là có năng lực thực tế. Trước là
động viên thuộc hạ nói hết ý mình, tập hợp trí tuệ để tìm kiếm được sách lược
và chế độ tốt nhất cho quốc gia, lại bởi những can gián phê bình trực tiếp mà
bồi lấp những khuyết điểm điều hành. Sau là thông qua những khảo sát nghiêm
chỉnh, để tìm kiếm những thành tích thực tế tránh hư danh phủ lấp làm tổn hại
đến lợi ích của nhân dân.
Ví như khi đang bắc phạt rất
bận rộn, Gia Cát Lượng vẫn không quên công việc thu thập nhân tài. Ông thậm chí
còn áp dụng chế độ này ở tiền tuyến, nơi biên cương cũng cho lập không ít đài
đọc sách. Tương truyền ở ngoài cửa bắc Miếu huyện có một nơi cũng gọi là Ngọa
long cương, trùng tên với Gia Cát Lượng sống thời nhỏ, cũng có một đài đọc sách
của Gia Cát Lượng. Lục Du là nhà yêu nước đời Tống từng qua đấy thăm đài đọc
sách của Gia Cát Lượng có để lại bài thơ, trong đó có viết: “Thế sự nho gia
từng hiểu rõ, đài cao ngày đó đọc thơ gì”. Mở rộng việc xây đài đọc sách, tin
rằng đối với việc thu thập của chính quyền Thục Hán có ảnh hưởng rất lớn.
Tam quốc chí có chép: “Diêu
Điền là Thái thú ở Quảng Hán, Gia Cát Lượng đặc biệt trước trăm quan ở triều
đình, khen ngợi Diêu Điền rằng: “Người làm quan, công việc có ích nhất đối với
quốc gia là tiến cử hiền tài. Diêu Điền không ngừng tiến cử hiền tài cho triều
đình, hi vọng mọi người sẽ làm được như ông ta, đó là cống hiến rất lớn cho quốc
gia”.
Đề bạt nhân tài, còn phải hiểu
được vận dụng nhân tài, để vận dụng đầy đủ trí tuệ của họ, thì cách làm này mới
có ý nghĩa. Bởi thế, sau khi bình định Ích Châu không lâu, Gia Cát Lượng thiết
lập một cơ cấu gọi là “Tham thự”. Gia Cát Lượng nói: “Tham thự là nơi tập hợp
tư tưởng quần chúng để có những đóng góp lớn”. Hấp thụ các ý kiến địa phương,
khiến mỗi quyết sách đều được thảo luận đầy đủ, lấy ý kiến mọi người để châm
chước lợi hại trong trước tác của mình. Gia Cát Lượng từng nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc thu thập lời ăn tiếng nói, để thông suốt trên dưới, kế sách tập hợp
được ý kiến quần chúng. Bỏi thế “đạo lý chính trị trọng ở nghe nhiều, phàm lắng
nghe để thu nạp lời nói quần chúng, mưu kế của kẻ sĩ, thì vạn vật như ở trước
mắt, mọi âm thanh đều ở bên tai”. Ông rất xem trọng thuộc hạ dám nói thẳng, bởi
mọi người có thể biểu đạt ý kiến đầy đủ thì sai lầm về quvết sách mới giảm đến
mức thấp nhất.
Hơn 1.700 năm trước, mối liên
hệ giữa cấp trên với cấp dưới đã được chú ý, làm công việc chủ quản vất vả,
trách nhiệm của vị thống sóai ở chỗ để mọi người biểu đạt đầy đủ ý kiến, để tổ
chức và vận dụng hữu hiệu, ví như quản lý xí nghiệp hiện đại cũng khó làm triệt
để như thế.
Ông ta nhắc nhở những quan chức
cao cấp chớ không chịu lo lắng nghe lời nói của kẻ dưới, nếu như các cán bộ cao
cấp tự đắc thái quá, ắt sẽ làm hỏng việc này, khiến cho tất cả pháp lệnh đều
không thể thúc đẩy. Cho nên ông vận dụng kinh nghiệm hưng vong trong lịch sử,
huấn thị các cán bộ cao cấp rằng: “Nguy sinh ra trong lúc yên, mất sinh ra
trong lúc còn, loạn sinh ra trong lúc đang bình trị”. Lại biểu thị: “Người
không lo xa, ắt có hoạ gần”. Ông nhắc nhở mọi người muốn an cư phải nghĩ đến
nguy hiểm, chẳng thể chủ quan, lắng nghe nhiều ý kiến phản đối, có thể đưa ra
được những phản đối, có thể đưa ra được những phán đóan chính xác hơn.
4. Thêm điều thiện, bỏ điều ác, làm hạn chế bớt tham nhũng
Sau khi đảm nhiệm chức Thừa
tướng, Gia Cát Lượng viết huấn lệnh bảo ban mọi người, động viên mọi người nói
thẳng hơn nữa, ông nói: “Nếu tránh những xích mích nhỏ, không trao đổi với nhau
thì hại đến triều đình”. Nếu như nhận phê bình mà không vừa lòng hoặc bởi tránh
hiềm nghi, sợ đắc tội với người, không thể thảo luận rõ hai mặt trái phải của
vấn đề, thì quyết định kế sách sẽ có sai lạc mà tạo thành tổn thất quốc gia.
Gia Cát Lượng chủ trương, quyết sách gì cũng phải qua trao đổi mà thống nhất,
cũng tức là vận dụng phương pháp tranh luận phản để để đưa ra kết luận chính
xác. Chẳng những yêu cầu thuộc hạ phải làm được, Gia Cát Lượng tự mình thi hành,
lấy kinh nghiệm bản thân ngày xưa quan hệ với những người thầy, người bạn tốt
như Thôi Châu Bình, Từ Thứ mà thản nhiên nói với mọi người. Đặc biệt với những
trợ lý thân cận lâu năm đi theo ông như Đổng Hòa và Hồ Tế, thái độ xử sự của
ông là luôn luôn nhắc nhở thẳng thắn, chỉ bảo rõ ràng, để các quan chức cao cấp
và thuộc hạ cùng tham khảo.
Tích cực khuyến thiện cố nhiên
là quan trọng, song việc xua đuổi cái xấu cũng là trách nhiệm của người làm
việc quan.
Trong thiên “Tiện nghi” Gia Cát
Lượng nhấn mạnh, làm việc quan phải nghĩ đến “Tăng điều thiện bớt điều xấu”
cũng tức là thái độ tiến cử hiền tài, giảm bớt tham nhũng. Trong “Xuất Sư Biểu”
ông muốn hậu chủ Lưu Thiện thân hiền thần, xa tiểu nhân, ông cho rằng thiếu
vắng hiền tài thì sẽ còn kẻ xu nịnh, là bắt đầu sự bại hoại tất cả, cho nên
“phàm nước nguy không sửa sang, dân không an cư, bởi thiếu hiền tài mà không
nguy, được hiền tài mà không yêu, chưa từng có vậy”.
Gia Cát Lượng tuy thuộc phái
Thanh Lưu, song rất trọng thực tiễn, ông rất biết những phần tử tri thức cuối
đời Hán trọng hư danh dựa dẫm với nhau, phong cách kẻ sĩ bại hoại, người thích
xa xỉ quá nhiều, là nguyên nhân chủ yếu nguy vong quốc gia, là sự không biết
nhục của sĩ đại phu, là mối sỉ nhục cho quốc gia.
Gia Cát Lượng nhấn mạnh nguyên
tắc “trị thực mà không trị hư”. Ông ta nói: “Vì người mà chọn quan thì loạn, vì
quan mà chọn người thì tốt”. Ông coi trọng thực tiễn, cốt là người hiền, không
cứ xuất thân, không kể từng trải, lựa người không nghĩ đến hạn chế của họ.
Dương Hồng, Hà Chi được đề bạt đặc biệt là phát huy tinh thần ấy của Gia Cát
Lượng.
Gia Cát Lượng đối với người ta
tuy có điểm nghiêm túc mà ít thông biến, song ông đối đãi khiêm nhường, tuyệt
không áp chế kẻ dưới. Ông rất phản đối hành vi cậy mình lão thần, tranh quyền
đoạt lợi, nếu bị phát hiện, thường không xét đến địa vị cao, quan hệ thân
thuộc, nhất định nghiêm khắc chỉ trích, đối với những việc hỗn loạn nội bộ nguy
hại lớn cho quốc gia quân đội, thì nhất luật trừng trị tuyệt không tha thứ. Đối
với những người có cá tính riêng mình cậy tài, đố kỵ nhỏ nhen, tuy không phải
là điều xấu lớn, cũng nhẫn nại thuyết phục để có thể sửa đổi được. Trong chính
quyền Thục Hán, những người có địa vị cao như Lý Nghiêm, Liêu Lập, Lai Mẫn đều
bị bãi chức, phế làm thường dân. Còn Lưu Đàm, Trương Duệ, thì được Gia Cát
Lượng khuyên răn không mỏi, có được cơ hội hối lỗi. Lý Nghiêm, Liêu Lập như
trên đã nói không được phục chức. Lai Mẫn là người Nam Dương vốn hậu duệ của
đại lão thần Lai Hấp đời Quang Vũ đế, là dòng dõi cao sang. Ông vốn là tân
khách của Lưu Chương sau khi Lưu Bị chiếm được Ích Châu được bổ nhiệm làm Điển
học hiệu uý.
Chỉ phải Lai Mẫn vẫn tự cho
mình là danh sĩ nước Sở, thích phê bình chính sự, xem thường các đại thần trong
triều, làm căng thẳng quan hệ với mọi người, thường có xung đột với xung quanh.
Gia Cát Lượng thường cảm thán
rằng: “Lai Mẫn làm rối loạn quần thần, chẳng khác Khổng Văn Cử” (Khổng Văn Cử
là cháu Khổng Tử tự coi mình là danh sĩ, thường va chạm với Tào Tháo, sau bị
Tào Tháo giết đi). Lưu Bị xưng đế, lúc đó Thượng thư lệnh Lưu Ba tiến cử Lai
Mẫn làm Thái tử gia lệnh. Lưu Bị tuy không vừa ý, song ngại mặt Lưu Ba miễn
cưỡng bổ nhiệm.
Sau khi Lưu Thiện lên ngôi, bổ
nhiệm Lai Mẫn làm Hổ bôn trung lang tướng, nắm quân túc vệ, có quyền lớn trong
triều đình.
Gia Cát Lượng khi chuẩn bị bắc
phạt, đối với Lai Mẫn rất không yên tâm, bèn đề bạt Đổng Doãn là người biết lo
công việc, kiêm chức Hổ bôn trung lang tướng thay cho Lai Mẫn. Còn Lai Mẫn thì
được thăng làm Tế tửu, phục quốc tướng quân đi theo ở trong quân để dễ khống
chế. Song lại dẫn đến sự bất mãn của Lai Mẫn, chẳng những phê bình Gia Cát
Lượng dùng người không đích đáng, lại công khai phỉ báng Đổng Doãn, tạo nên
không khí căng thẳng trong triều đình. Gia Cát Lượng đành phải phạt tội bồng
bột của Lai Mẫn, bãi cả quan chức, lại lệnh cho đóng cửa suy nghĩ, đối với việc
này Gia Cát Lượng còn viết ra một thiên giáo lệnh, nhắc nhở các quan chức trong
triều đình chẳng thể tái diễn hiện tượng như Lai Mẫn, nếu không sẽ xử tội nặng.
Trương Duệ tên chữ là Quân Tự,
là danh sĩ ở Ích Trung, rất ham nghiên cứu lịch sử. Thời Lưu Chương làm Trướng
hạ tư mã, từng dẫn quân kháng cự lại Lưu Bị, sau thua trận phải đầu hàng. Lưu
Bị có được Thục Trung, lại bổ nhiệm Trương Duệ làm Thái thú Ba Quận, kiêm Trung
lang tướng. Khi Ung Khải phản loạn ỏ phía nam, được bổ nhiệm làm Thái thú Ích
Trung, song Trương Duệ không bình loạn được mà còn bị giặc bắt, đưa đến Đông
Ngô thành tù binh.
Gia Cát Lượng thấy Trương Duệ
có học vấn, làm việc tích cực, đã lệnh cho Đặng Chi trao đổi với Tôn Quyền, xin
tha cho Trương Duệ. Trương Duệ sau khi về nước Thục, Gia Cát Lượng rất quý
trọng ông ta, hai người có quan hệ khá sâu đậm. Năm Kiến Hưng thứ năm, khi Gia
Cát Lượng đóng ở Hán Trung chuẩn bị bắc phạt, đặc biệt bổ nhiệm ông ta làm
Trưởng sử, cùng với Tưởng Uyển phụ trách việc chỉ huy phủ Thừa tướng.
Song Trương Duệ có quan chức
cao, lại chỉ nghĩ đến tư riêng, với các đại thần trong triều thường xảy ra xung
đột. Hơn nữa với Thái thú Dương Hồng và Hiệu uý Sầm Thuật lại xảy ra va chạm
nghiêm trọng. Dương Hồng với Trương Duệ vốn không có thù hằn, song con trai
Trương Duệ là Trương Úc, là thuộc hạ của Dương Hồng, bởi phạm lỗi mà bị xử
phạt, Trương Duệ bèn nhân việc ấy, cãi cọ với Dương Hồng, hai người đổi bạn
thành thù. Sầm Thuật bởi công tác lâu năm giỏi giang, được Gia Cát Lượng xem
trọng. Trương Duệ uy hiếp địa vị của Sầm Thuật, sẵn lòng ghen ghét, thường kiếm
cớ làm phiền ông ta tạo thành sự bất hoànghiêm trọng.
Việc này khiến Gia Cát Lượng
khá bực mình, song Tưởng Uyển bởi nể nang không tiện khuyên can, nên tình hình
càng ngày xấu đi. Gia Cát Lượng nghĩ đến tình cảm cũ, đặc biệt viết thư khuyên
răn:
Từ cổ đến nay, bạn hữu có quan
hệ sâu nặng, càng phải cử người hiền mà không nghĩ đến thù riêng, xử tội mà
không nghĩ đến thân tình, mọi việc đều lấy phép công làm đầu, huống chi ta
trọng dụng Sầm Thuật cũng là bồi dưỡng nhân tài quốc gia, ông sao chẳng hiểu ra
nhỉ?
Bởi thái độ Gia Cát Lượng cương
quyết mà thành khẩn, Trương Duệ rất cảm động, bèn chủ động giao hòa với Dương
Hồng, Sầm Thuật lại cùng với Tưởng Uyển hợp tác mật thiết, cùng trông coi việc
triều đình. Trương Duệ sau này khen Gia Cát Lượng “Thưởng không kể xa, phạt
không kể gần”, nghĩ rằng cũng là kinh nghiệm thân thiết, lời nói chân thực vậy.
Lưu Đàm tên chữ là Uy Thạc,
người nước Lỗ, thời Lưu Bị làm Dự Châu mục, có cho ông ta làm tòng sự. Bởi cùng
họ với Lưu Bị cho nên rất thân thiết. Tam quốc chí có chép: Lưu Đàm phụng chỉ
cung kính, giỏi việc đàm luận, Lưu Bị rất cảm mến ông ta thường dẫn theo ở bên
mình.
Danh vị ở triều đình gần với Lý
Nghiêm, kể ra trong nội các của Gia Cát Lượng là một quan chức trọng yếu. Song
Lưu Đàm lại sinh tính xa xỉ, sinh hoạt bừa bãi, thị tỳ thường có vài chục
người, trong nội các thanh liêm của Gia Cát Lượng kể ra đó là người đặc biệt.
Gia Cát Lượng đối với hành vi của ông ta rất đau đầu, bất đắc dĩ đành phải biên
chế ông ta vào đạo quân bắc phạt, nếm trải những ngày gian khổ ở doanh trại.
Song Lưu Đàm cậy mình có công lớn, với chính quyền họ Lưu có quan hệ mật thiết,
thường vẫn uống rượu ở trong quân, nói năng bừa bãi, đến như mãnh tướng Ngụy
Diên đứng đầu trong quân, cũng không vừa lòng với ông ta, khiến cho Gia Cát
Lượng chẳng thể nhường nhịn, cho gọi đến doanh tướng, nghiêm khắc trách cứ cùng
cảnh cáo nặng nề. Lưu Đàm bị nạt nộ như vậy, ông ta chẳng ngờ Gia Cát Lượng rất
bực tức với mình. Song kiểm thảo lại tự mình có việc làm thái quá, lại nhận ra
sự bực tức của Gia Cát Lượng không có ác ý, tất cả vẫn là tại mình, vì thế viết
một bài tự kiểm điểm, công khai nói rõ:
Lưu Đàm tôi bản tính trống
rỗng, thao lược nông cạn, lại có bệnh rượu chè, từ thời tiên đế đến nay, thường
gây phiền phức, thậm trí còn động đến sự an nguy của triều đình.
Nay Minh Công (chỉ Gia Cát
Lượng) một lòng vì nước, không khinh bỉ sự uế tạp của tôi, vẫn tận lực giúp đỡ
khiến tôi có được địa vị hôm nay. Song tôi thường vẫn u mê nói năng có sai
phạm, gây ra không ít phiền phức, may mà Minh Công nhân từ nhường nhịn, không
quá bắt bẻ trách cứ, khiến tôi dưới trăm sự sai lầm, còn miễn cưỡng giữ được
tước lộc và tính mạng. Từ này về sau, tôi sẽ nghiêm khắc với mình, sửa lỗi đến chết,
thề với thần linh không tái phạm nữa, nếu không sẽ chẳng có mặt mũi nào mà thấy
người ta.
Lời văn kiểm thảo này khá sâu
sắc, chân thành, xét thân phận của Lưu Đàm cũng khó phù hợp với thực tế quân
đội, bởi thế Gia Cát Lượng tha thứ cho ông ta, cho ông ta trở về Thành Đô vẫn
làm chức vụ Quân kỵ tướng quân. Từ đấy về sau, Lưu Đàm tự sửa lỗi lầm, giữ mình
trong sạch. Chỉ tiếc sau khi Gia Cát Lượng mất, ông ta lại trở về bệnh cũ,
không lâu sau bởi có lỗi với Lưu Thiện, bị tự xử mà chết.
Sự việc này cho thấy Gia Cát
Lượng là một chính trị gia có tài, có thành tích điều hành nước Thục, các quan
chức của Thục Hán, đại đa số đều từ bỏ lối sống xa hoa, lo lắng trung thành với
chức vụ, cố gắng từ bỏ sự giả dối phù hoa, khiến cho Thục Hán thành ra một quốc
gia chính trị trong lành, quan lại đoan chính nổi trội trong ba nước.
Trần Thọ khen ông ta có thể làm
cho quan lại Thục Hán tự cố gắng không giả dối, chủ yếu là ông ta đối nhân xử
thế, có thể triệt để làm được việc, tha cho kẻ biết hối lỗi, trừng phạt nặng kẻ
giả dối. Công bằng nghiêm minh, tất cả vì việc công, cho người ta có cơ hội
vươn lên, thành tích điều hành của Gia Cát Lượng đích xác là nghìn năm khó
thấy.