Pháp sư - Bí mật của Nicholas Flamel bất tử - Chương 04

CHƯƠNG 4

Chào mừng trở lại Paris, Nhà Giả kim”

Sophie và Josh nhảy nhổm. Machiavelli vẫn còn ở xa lắm không thể nghe tiếng rõ như vậy được. Thật kỳ lạ, giọng hắn dường như đến từ đâu đó ngay sau hai đứa, và cả hai quay lại nhìn, nhưng chỉ có hai bức tượng kim loại gỉ sét màu xanh vượt lên trên ba mái vòn đằng trước ngôi nhà thờ: phía bên phải chúng là một người phụ nữ trên lưng ngựa, cánh tay cầm thanh kiếm giơ cao, và phía bên trái là một người đàn ông đang cầm vương trượng.

“Tôi đang chờ ông đây.”

 Giọng nói nghe như đến từ pho tượng người đàn ông.

“Trò bịp bợm rẻ tiền,”

 Scatty vừa nói một cách thô bạo vừa gỡ những dải sáp khỏi mủi giày bốt chiến đấu của cô, chỗ đặt ngón chân được bọc bằng thép.

 “Không gì hơn là thuật nói tiếng bụng thôi.”

Sophie cười bẽn lẽn.

 “Em tưởng bức tượng đang nói,”

 cô bối rối thừa nhận.

Josh cười chị cậu và rồi chợt suy ngẫm lại.

 “Em nghĩ em sẽ không ngạc nhiên nếu nó có như vậy thiệt.”

“Ông bạn Tiến sĩ Dee tốt lành gởi lời thăm ông.”

 Giọng Machiavelli tiếp tục lơ lửng trong không khí quanh họ.

“Vậy ông ta đã được cứu ở Ojai”

 Nicholas nói như chuyện trò, không cao giọng. Đứng cao và thẳng người, ông ta bất giác đưa hai tay ra sau lưng và liếc xéo về phía Scatty. Rồi những ngón tay phải của ông bắt đầu nhảy múa trên lòng bàn tay và những ngón tay trái.

Scatty kéo hai đứa sinh đôi cách xa khỏi Nicholas và chậm rãi lùi vào dưới bóng những mái vòm. Đứng giữa chúng, cô khoác hai cánh tay mình lên vai chúng—cả hai luồng điện bạc và vàng của chúng nổ giòn khi cô chạm vào—và cô kéo đầu hai đứa lại với nhau.

“Machiavelli. Bậc thầy dối trá.”

 Tiếng thì thào của Scatty như tiếng thở nhỏ nhất lọt vào tai chúng.

 “Không được để cho hắn nghe thấy chúng ta.”

“Tôi không thể nói gì hơn là rất vui được gặp ông, Ngài Machiavelli. Hay Quý ông Machiavelli trong thời đại này?”

 Nhà Giả kim nói khẻ khàng, dựa vào hàng chấn song bao lơn, nhìn xuống những bậc thang màu trắng đến nơi Machiavelli vẫn còn nhỏ bé ở đằng xa.

“Thế kỷ này, tôi là người Pháp”

 Machiavelli đáp, giọng hắn có thể nghe rất rõ.

“Tôi yêu Paris. Đây là thành phố yêu quý của tôi ở châu Âu—sau Florence, tất nhiên.”

Trong lúc Nicholas nói chuyện với Machiavelli, ông ta để tay sau lưng, ngoài tầm nhìn của người bất tử kia. Những ngón tay của ông cử động thành một chuỗi những tiếng gõ và tiếng

“Chú ấy đang làm bùa chú ạ?”

 Sophie vừa thở ra, vừa trố mắt nhìn hai bàn tay ông.

“Không, ông ấy đang nói chuyện với tôi,”

 Scatty nói.

“Bằng cách nào?”

 Josh thì thầm.

 “Pháp thuật hả? Hay là ngoại cảm?”

“ASL, ngôn ngữ dấu hiệu của Mỹ.”

Hai đứa sinh đôi liếc nhau thật nhanh.

 “Ngôn ngữ Dấu hiệu của Mỹ?”

 Josh hỏi.

“Chú ấy biết ngôn ngữ dấu hiệu à? Làm sao được chứ?”

“Em quyên là chú ấy đã sống rất lâu rồi sao,”

 Scatty nói cùng một nụ cười toe nhe ra mấy cái răng ma cà rồng.

 “Và chú ấy đã giúp tạo ra ngôn ngữ dấu hiệu của Pháp trong thế kỷ mười tám,”

 cô ta nói thản nhiên.

“Chú ấy đang nói gì vậy?”

 Sophie sốt ruột hỏi. Cô không tìm đâu ra trong trí nhớ phù thủy được chút kiến thức cần thiết để diễn dịch những cử chỉ của người đàn ông lớn tuổi kia.

Scatty cau mày, môi cô cử động khi cô đánh vần thành từng từ“Sophie… brouillard… sương mù,”

 cô dịch lại. Rồi cô lắc đầu.

 “Sophie, chú ấy nhờ em làm sương mù kìa. Điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả.”

“Với em thì có đó,”

 Sophie nói đang lúc hàng tá những hình ảnh sương mù, mây mù, và khói mù nhấp nháy trong đầu cô.

Niccolo Machiavelli dừng lại trên mấy bậc thang và hít một hơi thở thật sâu.

 “Người của tôi đã bao vây khắp khu vực này,”

 hắn nói, di chuyển chậm chạp về phía Nhà Giả kim. Hắn bị hụt hơi một chút và trái tim hắn đập như búa nện; đúng là hắn cần phải tập thể dục trở lại.

Việc tạo ra một tên tulpa bằng sáp đã làm hắn kiệt sức. Trước giờ hắn chưa bao giờ làm một tên to lớn như vậy, và chưa bao giờ làm từ băng sau một chiếc xe đang gầm rú xuyên qua những con phố chật hẹp và uốn khúc của vùng Montmartre. Đó không phải là một giải pháp tao nhã, nhưng tất cả những gì hắn cần phải làm là giữ Flamel và đồng bọn của ông ta bị nhốt trong nhà thờ cho tới khi hắn tới được đó, và hắn đã thành công. Bây giờ ngôi nhà thờ đã bị bao vây, thêm nhiều hiến binh nữa đang trên đường đến và hắn đã triệu tất cả các nhân viên mật vụ sẵn sàng tiếp ứng. Vì là người đứng đầu DGSE, quyền hành của hắn hầu như không giới hạn, và hắn đã ban hành một mệnh lệnh buộc báo chí không được đưa tin. Hắn tự hào với bản thân mình vì đã hoàn toàn làm chủ mọi cảm xúc của mình, nhưng hắn phải thừa nhận rằng ngay lúc này đây, hắn đang cảm thấy rất hồi hộp: chẳng mấy chốc nữa hắn sẽ bắt giam Nicholas Flamel, Scathach và bọn trẻ. Hắn sẽ là người chiến thắng trong khi Dee lại là kẻ chiến bại.

Sau này hắn sẽ cho phép một ai đó trong cơ quan hắn rò rỉ một thông tin với báo chí rằng những tên trộm đã bị bắt khi đang đột nhập vào di tích quốc gia này. Gần đến rạng đông—vừa đúng lúc ra tin tức buổi sáng sớm—một báo cáo thứ hai sẽ được hé mở, tiết lộ rằng những tên tù nhân liều mạng đã chế ngự được những người canh gác và trốn thoát trên đường dẫn đến trạm cảnh sát. Không ai còn trông thấy chúng nữa.

“Bây giờ tôi bắt được ông rồi, Nicholas Flamel.”

Flamel tiến đến đứng ngay tại rìa của những bậc thang và nhét tay vào túi sau của chiếc quần jeans đen bạc thếch của mình.

 “Tôi tưởng lần cuối cùng ông nói câu đó là đúng lúc ông xông vào ngôi mộ của tôi chứ.”

Machiavelli choáng người dừng lại.

 “Sao ông biết chuyện đó?”

Hơn ba trăm năm trước đây, giữa đêm khuya thanh vắng, Machiavelli đã đập vỡ toang ngôi mộ của Nicholas và Perenelle, tìm bằng chứng xác nhận Nhà Giả kim và vợ ông đã thực sự chết và cố phân định xem họ có được chôn cùng cuốn sách của Pháp sư Abraham không. Tên người Ý này đã vô cùng ngạc nhiên khi tìm thấy cả hai cổ quan tài đều chất đầy toàn đá là đá.

“Tôi và Perenelle đã ở đó ngay đằng sau ông, đ bóng tối, đủ gần để chạm vào ông khi ông nhấc nắp quan tài của chúng tôi ra. Tôi biết có ai đó sẽ đến… Tôi chỉ không bao giờ tưởng tượng nổi người đó lại chính là ông. Thú thật rằng tôi thất vọng, Niccolo ạ,”

 ông nói thêm.

Người đàn ông tóc trắng tiếp tục bước lên những bậc thang dẫn đến Sacre-Coeur.

 “Ông luôn nghĩ tôi tốt hơn con người thực sự của tôi, Nicholas.”

“Tôi tin rằng luôn có điều tốt lành trong mỗi con người,”

 Flamel thì thầm,

 “ngay cả ông.”

“Không phải tôi, Nhà Giả kim ơi, không còn nữa, không từ lâu lắm rồi,”

 Machiavelli ngừng lại, chỉ vào cảnh sát và lực lượng đặc biệt Pháp có vũ trang trong bộ quần áo màu đen nặng nề đang tụ tập dưới chân bậc thang.

 “Nào bây giờ đến đây. Đầu hàng đi. Ông không bị tổn hại gì đâu.”

“Tôi không thể bảo ông là có bao nhiêu người đã nói với tôi như vậy,”

 Nicholas buồn bã nói.

 “Và họ luôn tự dối gạt,”

 ông thêm.

Giọng Machiavelli đanh lại.

 “Ông có thể điều đình với tôi hoặc Tiến sĩ Dee. Và ông biết tay Pháp sư người Anh đó không bao giờ có một chút kiên nhẫn nà>“Vẫn có một lựa chọn khác,”

 Flamel nhún vai. Đôi môi mỏng dính của ông cong lên thành một nụ cười.

 “Tôi có thể không thương lượng với ai trong các ông hết.”

 Ông ta xoay nửa người, nhưng khi ông ta nhìn ngược lại Machiavelli, cảm xúc trên mặt Nhà Giả kim làm tay người Ý bất tử kia phải đột ngột bước lùi lại. Trong tích tắc, một vẻ gì đó cổ xưa và tỏa sáng xuyên qua đôi mắt nhạt màu của Flamel, lung linh một màu xanh ngọc lục bảo lấp lánh. Bây giờ giọng Flamel rơi xuống thành lời thì thầm, Machiavelli vẫn nghe được rành mạch.

 “Sẽ là tốt hơn nếu tôi và ông không bao giờ gặp lại nhau.”

Machiavelli cười gằn, nhưng âm thanh như run rẩy.

 “Điều đó nghe giống một lời đe dọa ghê nhỉ… và tin tôi đi, ông không ở vào cái thế có thể ban ra những lời đe dọa đâu.”

“Không phải lời đe dọa,”

 Flamel nói, và từ bậc trên cùng ông bước lùi lại.

 “Mà là một lời hứa.”

Bầu không khí đem Paris ẩm ướt mát lạnh bất ngờ đượm mùi hương vanilla thơm ngát, và Niccolo Machiavelli biết rằng rồi sẽ có điều gì đó rất đáng ngại.

Đứng thẳng người, mắt nhắm, hai cánh tay thả dọc bên hông, lòng bàn tay hướng ra ngoài, Sophie Newman hít thở sâu, cố làm dịu lại trái tim đang nổi sấm ầm ầm của mình và cho phép đầu óc mình được đi lang thang. Khi Bà Phù thủy Endor quấn cô bé như một cái xác ướp bằng dãi băng là bằng không khí đông cứng lại, bà đã truyền đạt hàng ngàn năm kiến thức vào một cô bé con đang có vấn đề về nhịp tim. Sophie hình dung cô có cảm giác đầu mình căng phồng lên khi bộ não cô đầy ắp ký ức của Bà Phù thủy. Từ đó, đầu óc cô bị một cơn nhức đầu đập rộn lên, đáy cổ cô đặc quánh, chặt cứng và có một cơn đau âm ỉ đằng sau đôi mắt. Hai ngày trước cô là một con bé tuổi teen người Mỹ rất bình thường, trong đầu toàn những thứ bình thường hằng ngày: bài tập về nhà và các nghiên cứu ở trường, những bài hát và những đoạn video mới nhất, những đứa con trai cô thích, những số điện thoại và địa chỉ trang web, những trang blog và những đường dẫn url.

Bây giờ cô lại biết những thứ mà không một người bình thường nào nên biết qua.

Sophie Newman sở hữu ký ức của Bà Phù thủy Endor; cô biết tất cả những gì Endor từng trông thấy, mọi thứ bà ta từng làm qua suốt từng ấy các thiên niên kỷ. Tất cả là một mớ bòng bong: một sự pha trộn giữa tư tưởng và ước muốn, những điều quan sát được, nỗi sợ hãi và khát khao, một đống lộn xộn toàn những thị kiến kỳ quái, những hình ảnh đáng sợ và những âm thanh không thể hiểu nổi. Nó như thể là những cuộn phim cả ngàn năm được trộn lại và biên tập lại với nhau. Và mớ ký ức lộn xộn vung vãi khắp nơi là những phạm vi ảnh hưởng không đếm được khi Bà Phù thủy thực sự sử dụng năng lượng đặc biệt của bà, Phép thuật Không khí. Tất cả những gì Sophie phải làm là tìm ra thời gian Bà Phù thủy sử dụng sương mù.

Nhưng làm sao tìm kiếm nó, khi nào và ở đâu?

Kh để ý đến giọng nói Flamel đang sỉ vả Machiavelli, tẩy xóa đi cái mùi chua chua trong nỗi sợ hãi của cậu em và tiếng xủng xoảng từ những thanh kiếm của Scathach, Sophie tập trung mọi ý tưởng của cô vào sương mù và mây mù.

San Francisco thường chìm đắm trong mây mù, và cô từng thấy cầu Cổng Vàng vươn lên khỏi lớp mây dày đặc. Và chỉ mới mùa thu vừa rồi, khi gia đình đang ở Nhà thờ thánh Paul tại Boston, họ đã bước ra trên phố Tremont và thấy rằng một đợt sương mù ẩm ướt đã hoàn toàn nhận chìm công viên Common. Những ký ức khác chợt ào về: mây mù ở Glassgow; sương mù ẩm ướt có xoáy ở Vienna, sương khói hôi hám vàng khè ở London.

Sophie cau mày; cô chưa từng ở Glasgow, Vienna hoặc London. Nhưng Bà Phù thủy thì… và đây chính là những ký ức của Bà Phù thủy Endor.

Những hình ảnh, ý tưởng và ký ức—như những dải sương mù cô đang thấy trong đầu mình—đổi dời và xoăn vặn. Và rồi đột nhiên chúng hiện rõ ra mồn một. Sophie nhớ rõ ràng là cô đang đứng kế bên một nhân dáng ăn vận y phục trang trọng của thế kỷ mười chín. Cô có thể thấy anh ta trong con mắt tâm trí của mình, một người đàn ông có mũi dài và vầng trán cao với mái tóc quăn màu xám. Anh ta đang ngồi nơi một cái bàn giấy cao, một bó giấy màu kem trước mặt, và đang nhúng một cây bút đơn sơ vào một cái bình mực đầy ắp. Phải mất mộc lúc cô mới nhận ra rằng đây không phải là một trong số những ký ức của riêng cô, mà cũng không phải là những cảnh cô từng xem trên tivi hay trong bộ phim nào đó. Cô đang nhớ lại những gì Bà Phù thủy Endor đã làm và đã nhìn thấy. Khi cô quay lại để nhìn gần vào nhân dáng đó, ký ức của Bà Phủ thủy tràn ngập trong cô: người đàn ông này là một nhà văn người Anh nổi tiếng và ông vừa mới bắt đầu viết một cuốn sách mới. Nhà văn liếc nhìn lên và mỉm cười với cô; rồi đôi môi ông ta cử động, nhưng không có âm thanh nào. Cúi người nhìn qua vai ông, cô thấy ông viết những lời Sương mù khắp nơi. Sương mù tràn lan trên mặt sông. Sương mù chìm xuống lòng sông bằng kiểu chữ thảo loăng quăng tao nhã. Bên ngoài cửa sổ phòng làm việc của ông, sương mù, dày và mờ đục, cuộn tròn như khói trên tấm kính dơ bẩn, xóa đi nền đất bằng một lớp mềm không thể xuyên thủng được.

Và bên dưới má cổng của Sacre-Coeur tại Paris, không khí giá lạnh và ẩm ướt, đầy mùi kem vanilla. Một dòng chảy màu trắng nhỏ giọt từ từng ngón tay cua Sophie đang xòa ra. Những dòng lưa thưa uốn loanh quanh chảy xuống thành vũng đọng dưới chân cô. Đằng sau đôi mắt nhắm của mình, cô nhìn thấy nhà văn nhúng cây bút vào bình mực và tiếp tục công việc của ông. Sương mù trườn… sương mù nằm… sương mù rũ gục… sương vương trong mắt và cổ họng…

Làn sương mù trắng dày đặc chảy những từ ngón của Sophie ra và trải khắp mặt đá, chuyển động như những cụm khói nặng nề, khi thì chảy trong những đoạn dây thừng xoắn vặn khi lại giống những sợi chỉ mảnh như tơ nhện. Ngoằn nghèo và chuyển hướng, làn sương chảy qua chân Flamel và đổ nhào xuống các bậc thang, nhân dần lên, trở nên dày đặc, tối sầm.

Niccolo chăm chú nhìn vào dòng sương mù chảy xuống những bậc thang của Scare-Coeur như dòng sữa bẩn, thấy nó đặc quánh lại và lớn dần lên trong lúc cuốn lên cuộn xuống, và ngay lúc đó, biết rằng Flamel sắp qua mặt hắn. Lúc tỏa xuống đến hắn là đã cao ngang ngực, ướt rượt và đượm mùi vanilla. Hắn hít sâu, nhận ra đó là mùi hương của phép thuật.

“Xuất sắc,”

 hắn nói, nhưng làn sương mù làm chẹt tiếng nói hắn, làm nhòe đi cái giọng Pháp được trau chuốt cẩn thận của hắn, để lộ ra âm tiếng Ý thô ráp hơn nằm ẩn bên dưới.

“Hãy để chúng tôi yên,”

 giọng Flamel âm vang vượt khỏi đám sương mù.

“Nghe như một lời đe dọa khác nữa vậy, Nicholas à. Tin tôi đi khi tôi nói với ông rằng ông không biết gì về những lực lượng đang hợp lực để chống lại ông. Những mánh lới tầm thường của ông không cứu được ông đâu.”

 Machiavelli rút chiếc điện thoại di động ra và nhấn phím gọi nhanh.

 “Tấn công. Tấn công ngay!”

 Hắn vừa nói vừa nhảy lên các bậc thang, di chuyển nhẹ nhàng trên đôi giày đế gia đắt tiền, trong khi ở phía xa bên dưới, đội cảnh sát tụ tập sẵn đang chuẩn bị tập kích lên các bậc thang, những bàn chân mang ủng dậm thình thịch trên nền đá.

“Tôi đã sống rất lâu rồi.”

 Giọng Flamel không xuất phát từ nơi mà Machiavelli mong đợi, hắn dừng lại, quay trái quay phải, cố nhận ra một hình thù nào đó trong sương mù.

“Thế giới cứ tiến tới, Nicholas,”

 Machiavelli nói.

 “Ông thì không. Hẳn ông có thể trốn tránh chúng tôi ở Mỹ, nhưng tại đây, ở châu Âuày, có quá nhiều Elder, quá nhiều người bất tử biết ông. Ông sẽ không thể cứ ẩn nấp mãi được. Chúng tôi sẽ tìm được ông.”

Machiavelli lao lên vài bậc thang cuối cùng mang hắn trực diện với lối vào nhà thờ. Ở đây không có sương mù. Đám sương mù không tự nhiên này khởi đầu từ trên bậc cao nhất và chảy xuống, để ngôi nhà thờ nổi lên như một hòn đảo trong một vùng biển đầy mây giăng. Ngay cả trước khi hắn chạy vào nhà thờ, Machiavelli đã biết hắn sẽ không tìm thấy bọn họ trong đó: Flamel, Scathach và hai đứa nhỏ sinh đôi đã trốn thoát mất rồi.

Cho đến lúc này.

Nhưng Paris không còn là thành phố của Nicholas Flamel. Thành phố này đã từng tôn vinh Flamel và vợ ông như những vị bảo trợ cho người bệnh tật, nghèo đói, thời thành phố có những con đường được mang tên hai ông bà đã qua lâu rồi. Paris bây giờ thuộc về Machiavelli và những Elder đen tối mà hắn phục vụ. Nhìn ra khắp thành phố cổ, Niccolo Machiavelli thề rằng hắn sẽ biến Paris thành một cái bẫy—và có lẽ thậm chí là một ngôi mộ—cho Nhà Giả kim huyền thoại.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3