Húng nhại – Phần II – Chương 15
15.
Những ẩn ý trong lời đề xuất của Gale lặng lẽ bao trùm khắp phòng. Có thể thấy phản ứng dần lộ trên các khuôn mặt. Có đủ thái độ từ hài lòng đến lo ngại, từ đau buồn đến thỏa mãn.
“Phần lớn công nhân là dân Quận 2,” Beetee nói giọng trung lập.
“Thế thì sao?” Gale vặc lại. “Chúng ta sẽ không bao giờ có thể tin tưởng họ được nữa.”
“Ít nhất cũng phải cho họ cơ hội đầu hàng chứ,” Lyme góp ý.
“Chà, chúng tôi đâu có cái cơ hội xa xỉ đó khi chúng đánh bom Quận 12, nhưng các người thì thân với Captitol hơn nhiều,” Gale độp lại. Nhìn vẻ mặt của Lyme, tôi nghĩ dám bà bắn anh lắm, hay ít nhất cũng đấm anh một cú. Có lẽ bà cũng có lợi thế hơn, với tất cả kỹ năng rèn luyện của mình. Nhưng sự giận dữ của bà chỉ chọc tức Gale, anh liền hét lên, “Chúng tôi đã chứng kiến lũ trẻ chết cháy mà chẳng làm gì được!”
Tôi phải nhắm mắt lại một thoáng khi hình ảnh đó xé toạc lòng tôi. Nó mang lại hiệu quả mong muốn. Tôi muốn tất cả mọi người trong ngọn núi đó chết hết. Dợm nói ra câu ấy. Nhưng mặt khác… tôi còn là dân Quận 12. Không phải Tống thống Snow. Tôi không thể làm khác được. Tôi không thể giáng xuống ai đó cái án tử mà anh đang đề xuất. “Gale à,” tôi nắm cánh tay anh, cố nói giọng hợp tình hợp lẽ. “Hạt là một mỏ than cũ. Việc đó sẽ giống như gây ra một tai nạn mỏ than trầm trọng vậy.” Chắc chắn những lời đó đủ sức khiến bất cứ người dân Quận 12 nào cũng phải cân nhắc lại kế hoạch.
“Nhưng không nhanh bằng vụ giết chết cha em, ” Anh bẻ lại. “Đó là vấn đề của tất cả mọi người à? Rằng kẻ thù của chúng ta có thể có vài giờ suy ngẫm cái thực tế là chúng đang hấp hối, thay vì chỉ bị nổ tung thành từng mảnh?”
Nhớ lại ngày xưa, khi chúng tôi chỉ là hai đứa trẻ đi săn ngoài Quận 12, Gale đã nói những điều tương tự và còn tệ hơn thế. Nhưng khi ấy chúng chỉ là lời nói. Ở đây, được đưa vào thực hiện, chúng trở thành hành động không bao giờ đảo ngược được.
“Anh đâu biết vì sao những người dân Quận 2 đó lại làm việc trong Hạt,” tôi nói. “Họ có thể bị ép lắm chứ. Biết đâu họ không muốn nhưng vẫn bị bắt giữ. Một số còn là gián điệp của chúng ta. Anh cũng sẽ giết họ à?”
“Anh sẽ hy sinh vài người, phải, để tiêu diệt phần còn lại,” anh đáp. “Và nếu anh là gián điệp đang ở trong đó, anh sẽ nói ‘Cho đất đá sạt lở đi!’”
Tôi biết anh nói thật. Biết Gale sẵn sàng xả thân theo cách này vì đại cục – không ai nghi ngờ điều đó cả. Có lẽ chúng tôi thảy cũng đều làm như vậy nếu chúng tôi là gián điệp và được quyền lựa chọn. Tôi đoán mình cũng sẽ làm như thế. Nhưng đó là một quyết định nhẫn tâm đối với nhưng kẻ khác và bao người yêu thương họ.
“Cậu nói chúng ta có hai lựa chọn,” Boggs bảo anh. “Nhốt họ hoặc lùa họ ra ngoài. Tôi cho rằng chúng ta có thể tìm cách làm sạt lở núi, nhưng đừng động tới đường hầm tàu hỏa. Mọi người có thể trốn thoát tới quảng trường, và chúng ta sẽ đợi họ ở đó.”
“Vũ trang đầy đủ, tôi đoán thế,” Gale nói. “Ông biết chắc họ sẽ làm vậy mà.”
“Thông báo cho Quận 13 ngay,” Beetee đề nghị. “Hãy để Thống đốc Coin cho ý kiến.”
“Bà ta sẽ muốn chặn cả đường hầm,” Gale nói chắc như đinh đóng cột.
“Phải, nhiều khả năng là như vậy. Nhưng cháu biết đấy, Peeta đã nói đúng một điểm trong ĐTT của cậu ấy. Về nguy cơ giết sạch chúng ta ấy. Bác đã thử tính toán một chút. Kể cả số người thương vong và… bác nghĩ nó đáng giá ít nhất một cuộc bàn thảo,” Beetee nói.
Chỉ vài người được mời lại bàn thảo. Gale và tôi cùng những người khác được tan họp. Tôi đưa anh đi săn để anh xả giận, nhưng anh không đả động gì đến chuyện đó. Có lẽ quá bực tôi vì đã chống lại anh.
Cuộc gọi đã được thực hiện, quyết định được đưa ra, và đến chiều tôi được khoác lên mình trang phục Húng nhại, đeo cung trên vai và mang theo tai nghe kết nối tôi với Haymitch ở Quận 13 – nhỡ khi có cơ hội tốt nảy sinh một ĐTT. Chúng tôi đợi trên mái Tòa Tư pháp, mục tiêu nằm gọn trong tầm mắt.
Ban đầu các chỉ huy trong Hạt chẳng đếm xỉa gì đến tàu bay của chúng tôi, vì trước đây những món này chả đáng bận tâm hơn lũ ruồi vo ve quanh hũ mật là mấy. Nhưng sau hai lượt đánh bom vào giờ cao điểm phía trên của ngọn núi thì chúng đã phải để mắt tới. Đến khi vũ khí phòng không của Capitol khai hỏa thì đã quá muộn.
Kế hoạch của Gale vượt quá mong đợi của bất kì ai. Beetee đã nói đúng về việc không thể kiểm soát vụ sạt lở một khi nó bắt đầu. Các sườn núi vốn đã không vững, nay lại bị vụ nổ làm lung lay, nên cơ hồ lở bung ra. Toàn bộ các phần của Hạt sụp xuống trước mắt chúng tôi, xóa sạch bất cứ dấu vết nào cho thấy con người từng đặt chân đến đây. Chúng tôi đứng không thốt nên lời, bé nhỏ và nhạt nhòa trong khi từng đợt đá lăn sầm sập xuống núi. Chôn vùi các cửa núi dưới hàng tấn đá. Gây nên đám bụi mù mịt và đống đổ nát làm sa sầm cả bầu trời. Biến Hạt thành nấm mồ.
Tôi tưởng tượng ra thảm cảnh bên trong ngọn núi. Tiếng còi rền rĩ. Đèn nhấp nháy hắt sáng vào bóng tối. Bụi đá dày đặc trong không khí. Những tiếng hét kinh hoảng, những người bị mắt kẹt loạng choạng nhốn nháo tìm lối ra, để rồi nhận thấy các cửa núi, bệ phóng tên lửa, và ống thông hơi đã bị đất đá bịt kín. Dây điện sống lủng lẳng, đám cháy bùng lên, hàng đống đổ nát biến con đường quen thuộc thành mê cung. Mọi người lao rầm rập, chen lấn xô đẩy, bò lổm ngổm như kiến trong khi đống đất đá đè xuống đe dọa nghiền nát lớp vỏ mỏng manh của họ.
“Katniss?” Giọng Haymitch vang lên trong tai nghe. Tôi cố đáp lại nhưng phát hiện ra cả hai tay mình đang bưng chặt miệng. “Katniss!”
Vào ngày cha tôi chết, tiếng còi báo động rú lên suốt giờ ăn trưa ở trường. Không ai chờ tan học và cũng chẳng cần phải chờ đến lúc đó. Ứng phó với tai nạn mỏ than là thứ nằm ngoài tầm kiểm soát thậm chí với Capitol. Tôi chạy tới lớp Prim. Tôi vẫn còn nhớ em hồi ấy, đứa bé bảy tuổi nhỏ xíu, nhợt nhạt, nhưng ngồi thẳng lưng khoanh tay trên bàn. Đợi tôi đến đón em như đã hứa nếu còi báo động reo. Em bật dậy khỏi ghế, túm tay áo khoát của tôi, và hai chị em tôi len qua dòng người đổ ra phố để tập trung trước cửa chính của mỏ than. Chúng tôi thấy mẹ bấu chặt sợi thừng được chăng vội để ngăn đám đông. Hồi tưởng lại, lẽ ra ngay khi đó tôi nên biết là có vấn đề. Bởi tại sao chúng tôi lại phải đi tìm mẹ, trong khi đáng ra ngược lại mới đúng?
Thang máy kêu kèn kẹt, nghiến rít sợi cáp nhả những thợ mỏ ám khói vào với ánh ngày. Mỗi nhóm bước ra là những tiếng kêu nhẹ nhõm cất lên, người thân chui qua dây thừng đến dẫn chồng, vợ, con, cha mẹ, anh chị em mình đi. Chúng tôi đứng trong bầu không khí lạnh giá lúc chiều buông, một lớp tuyết mỏng phủ trên mặt đất. Thang máy càng lúc càng chậm và nhả ra ít người hơn. Tôi đã quỳ xuống đất ấn tay lên lớp tro than, muốn kéo ra cha khôn cùng. Nếu có một cảm giác nào bất lực hơn việc cố với tới người mình yêu thương đang bị mắt kẹt dưới lòng đất thì tôi không biết đó là gì. Người bị thương. Những thi thể. Cuộc chờ đợi xuyên đêm. Nhưng tấm chăn được người lạ quấn quanh vai ta. Một tách nước nóng mà ta không buồn uống. Và rồi cuối cùng, khi bình minh hé rạng, nét mặt đau buồn của người trưởng kíp trực mỏ chỉ có thể mang một ý nghĩa duy nhất.
Chúng tôi vừa làm gì thế này?
“Katniss! Cháu ở đó chứ?” Chắc ngay lúc này Haymitch đáng tính tròng cho tôi cái cùm đầu.
Tôi buông tay ra. “Vâng.”
“Vào trong đi. Không nhỡ Capitol vét hết những gì còn lại trong không lực để tìm cách trả thù đấy,” ông hướng dẫn.
“Vâng,” tôi nhắc lại. Tất cả mọi người trên mái nhà, ngoại trừ những chiến binh trực chiến bên súng máy, bắt đầu vào trong. Khi đi xuống cầu thang, tôi không thể không lướt ngón tay dọc những bức tường cẩm thạch trắng hoàn mỹ. Lạnh và đẹp biết bao. Ngay ở cả Capitol cũng chẳng có gì sánh nổi sự tráng lệ của tòa nhà cổ này. Nhưng bề mặt đá thì rắn đanh – tôi chỉ thấy bắp thịt rã rời, người lạnh đi. Thời nào đá cũng chinh phục con người.
Tôi ngồi dưới chân một cây cột khổng lồ trong đại tiền sảnh. Qua cửa tôi trông thấy hàng đá cẩm thạch trắng trải dài dẫn tới những bậc thanh trên quảng trường. Tôi nhớ mình đã nôn nao thế nào vào cái ngày Peeta và tôi ở đó nhận lời chúc mừng cho chiến thắng trong Đấu trường. Rã rời vì chuyến Diễu hành Chiến thắng, không xoa dịu được các quận, đối mặt với những ký ức về Clove và Cato, nhất là cái chết từ từ đáng sợ của Cato dưới móng bọn mút.
Boggs khom người xuống bên tôi, da ông nhợt nhạt trong bóng tối. “Chúng ta đã không đánh bom đường hầm tàu hỏa, cháu biết đấy. Có lẽ một số người sẽ thoát được.”
“Rồi chúng ta sẽ bắn họ khi họ ló mặt ra phải không?” tôi hỏi
“Chỉ khi bắt buộc thôi,” ông đáp.
“Chúng ta có thể tự phái tàu hỏa đến mà. Giúp sơ tán người bị thương,” tôi nói.
“Không. Đã quyết là để đường hầm cho họ xử lý. Bằng cách đó họ có thể sử dụng mọi đường ray để đưa mọi người ra ngoài,” Boggs nói. “Với cả, làm thế thì chúng ta sẽ có thời gian đưa những chiến binh còn lại tới quảng trường.”
Vài tiếng trước, quảng trường là vùng đất không người, tiền tuyến của trận chiến giữa phiến quân và các Trị an viên. Khi Coin phê chuẩn kế hoạch của Gale, phiến quân đã mở một cuộc tấn công dữ dội đẩy lùi lực lượng Capitol cách vài dãy nhà để chúng tôi kiểm soát được ga tàu trong trường hợp Hạt sụp đổ. Giờ thì nó sụp đổ thật rồi. Thực tế trở nên sáng rõ. Bất kỳ ai sống sót cũng sẽ tới quảng trường tháo thân. Tôi nghe thấy tiếng đạn nổ lại vang lên, khi các Trị an viên chắc chắn là đang chiến đấu tìm cách vào cứu đồng đội. Những chiến binh của chúng tôi đang được đưa vào phản công.
“Cháu lạnh quá,” Boggs nói. “Để tôi tìm xem có chăn không.” Ông đi mà tôi không kịp ngăn lại. Tôi không cần chăn, dù đá cẩm thạch đang tiếp tục hút hơi ấm khỏi cơ thể mình.
“Katniss,” Haymitch nói bên tai tôi.
“Vẫn đây ạ,” tôi đáp.
“Chiều nay tình hình Peeta có biến chuyển thú vị đấy. Chắc là cháu muốn biết,” ông nói. Thú vị không có nghĩa là tốt. Không có nghĩa là tốt hơn. Nhưng tôi thực không có bất kỳ lựa chọn nào khác ngoài lắng nghe. “Chúng ta đã cho thằng bé xem đoạn ghi hình cháu hát bài ‘Cây Treo cổ’. Nó chưa bao giờ được phát sóng, vì thế Capitol không thể sử dụng nó khi thằng bé bị bắt hồn. Nó nói nó nhận ra bài hát đó.”
Tim tôi lỡ một nhịp trong giây khắc. Rồi tôi nhận ra đó chỉ là sự lú lẫn khác do nọc độc bắt-là-cắt gây ra. “Cậu ấy không biết được đâu bác Haymitch. Cậu ấy chưa bao giờ nghe thấy cháu hát bài đó cả.”
“Không phải cháu. Mà là cha cháu. Nó nghe ông ấy hát vào cái ngày ông ấy tới tiệm bánh trao đổi hàng hóa. Hồi đó Peeta còn nhỏ, độ sáu, bảy tuổi thôi, nhưng nó nhớ được bởi vì nó đã đặc biệt lắng nghe xem lũ chim có ngừng hót không,” Haymitch nói. “Chắc là có.”
Sáu, bảy tuổi. Có lẽ là trước khi mẹ tôi cấm hát bài đó. Thậm chí còn quanh khoảng thời gian tôi học nó không chừng. “Có cả cháu ở đấy à?”
“Đừng nghĩ vậy. Không nhắc gì đến cháu cả. Nhưng đó là sự kết nối đầu tiên với cháu mà không làm thằng bé lên cơn,” Haymitch nói. “Ít nhất cũng có ý nghĩa nào đó, Katniss à.”
Cha tôi. Hôm nay ông dường như hiện diện khắp nơi. Chết trong hầm mỏ. Đưa tiếng hát vào nhận thức mơ hồ của Peeta. Ẩn hiện trong ánh mắt Boggs nhìn tôi khi ông choàng tấm chăn quanh vai tôi vẻ che chở. Tôi nhớ cha quay quắt đến đau lòng.
Đạn đã thực sự nổ đùng đoàng ngoài kia. Gale cùng một nhóm phiến quân lao vút qua, hăm hở xông vào cuộc chiến. Tôi không xin được tham gia cùng các chiến binh, chẳng phải vì đằng nào họ cũng không cho mà bởi tôi còn lòng lạ với nhiệt huyết đâu mà làm việc đó. Tôi ước gì Peeta ở đây – Peeta ngày xưa ấy – vì cậu sẽ có thể nói rõ ràng tại sao việc nã đạn vào nhau khi mọi người, bất kỳ người nào, đang hì hụi tìm cách thoát khỏi núi, lại sai trái đến thế. Hay chuyện cũ của tôi làm tôi quá nhạy cảm? Không phải chúng tôi đang trong cuộc chiến ư? Đó chẳng phải chỉ là cách thức khác để giết kẻ thù của chúng tôi hay sao?
Màn đêm ụp uống. Những bóng đèn chiếu cỡ lớn chói rỡ được bật lên, thắp sáng quảng trường. Mỗi bóng đèn hẳn cũng phải chiếu hết công suất trong ga tàu. Cho dù đang đứng bên kia quảng trường, tôi vẫn có thể rõ ràng nhìn xuyên qua mặt trước lắp kính dày của tòa nhà dài hẹp. Không thể nào bỏ lỡ đoàn tàu đáp bến, hay thậm chí một người nào. Nhưng hàng giờ rồi mà vẫn không ai đến. Mỗi phút trôi qua lại càng khó tưởng tượng ra có bất kỳ ai sống sót khỏi cuộc đột kích vào Hạt.
Mãi sau nửa đêm, Cressida tới lắp một cái micro đặc biệt vào trang phục của tôi. “Cái này để làm gì ạ?” tôi hỏi.
Giọng Haymitch vang lên giải thích. “Ta biết là cháu sẽ không thích nó, nhưng chúng ta cần cháu đọc một bài phát biểu.”
“Một bài phát biểu ạ?” tôi nói, chưa chi đã thấy nôn nao.
“Ta sẽ mớm cho cháu từng câu một,” ông trấn an tôi. “Cháu chỉ phải lặp lại những gì ta nói thôi. Nghe này, không có dấu hiệu sự sống nào trên ngọn núi đó cả. Chúng ta đã thắng, nhưng trận chiến vẫn tiếp tục. Vì thế chúng ta nghĩ nếu cháu bước ra bậc thềm Tòa Tư pháp trình bày - nói với mọi người rằng Hạt đã thất thủ, rằng sự hiện diện của Capitol ở Quận 2 đã chấm dứt – cháu có thể khiến lực lượng còn lại của chúng đầu hàng.”
Tôi nheo mắt nhìn bóng tối bên kia quảng trường. “Cháu còn chẳng nhìn thấy lực lượng của chúng.”
“Thế mới cần míc,” ông nói. “Cháu sẽ được lên sóng, cả giọng nói qua hệ thống truyền thanh khẩn cấp lẫn hình ảnh, ở bất cứ nơi nào người ta tiếp cận được màn hình.”
Tôi biết là có mấy màn hình khổng lồ trên quảng trường. Tôi đã thấy chúng trong chuyến Diễu hành Chiến thắng. Có thể cũng nên cơm cháo đấy, nếu tôi giỏi mấy trò kiểu này. Mà tiếc thay là không. Họ cũng đã cố mớm lời cho tôi trong những thử nghiệm ban đầu tới ĐTT, và đó là một thất bại thảm hại.
“Cháu có thể cứu rất nhiều mạng sống, Katniss à,” cuối cùng Haymitch nói.
“Được rồi. Cháu sẽ thử xem sao,” tôi bảo ông.
Thật lạ khi đứng ngoài trên đỉnh thềm, được vận phục trang cầu kỳ và chiếu sáng rực rỡ mà lại phát biểu cho những khán giả mình không nhìn thấy. Cứ như tôi đang trình diễn cho ông trăng xem vậy.
“Nhanh lên nào,” Haymitch nói. “Cháu lộ liễu quá rồi.”
Đội truyền hình của tôi, đã vào vị trí bên ngoài quảng trường cùng những máy quay đặc biệt, ra dấu sẵn sàng. Tôi bảo Haymitch bắt đầu, rồi bật míc, cẩn thận lắng nghe ông đọc câu đầu tiên của bài phát biểu. Hình ảnh lớn của tôi thắp sáng một trong các màn hình bên kia quảng trường khi tôi cất tiếng. “Hỡi người dân Quận 2, tôi là Katnisss Everdeen đang lên tiếng từ bậc thềm tòa Tư Pháp của các bạn, nơi…”
Hai đoàn tàu song hành rin rít chạy vào ga. Khi cửa trượt mở, mọi người túa ra trong làn khói họ mang theo từ Hạt. Ắt hẳn họ ít nhất cũng lờ mờ biết điều gì đợi mình ở quảng trường, bởi ta có thể thấy họ đang cố tìm cách tránh né. Đa số nằm rạp xuống sàn, và một lằn đạn trong nhà ga làm bóng đèn vỡ tan. Họ đến mang theo vũ khí, như Gale dự đoán, nhưng cũng bị thương nữa. Có thể nghe thấy những tiếng rên rỉ giữa bầu không khí ban đêm tĩnh lặng.
Ai đó bắn vỡ bóng đèn trên bậc thềm, để lại tôi trong sự bao bọc của bóng tối. Lửa bùng lên trong nhà ga – chắc hẳn một đoàn tàu đang cháy- và làn khói đen dày cuồn cuộn bốc vào cửa sổ. Không còn lựa chọn nào khác, mọi người bắt đầu chen lấn vào quảng trường, ngạt thở nhưng vẫn huơ súng chống đối. Mắt tôi đảo nhanh qua những mái nhà bao quanh quảng trường. Mỗi cái đều được tăng cường những ụ súng máy do phiến quân điều khiển. Ánh trắng phản chiếu lấp lánh trên các thùng dầu.
Một nam thanh niên loạng choạng bước ra khỏi ga, một tay rịt chặt chiếc khăn đẫm máu vào má, tay kia kéo lê khẩu súng. Khi người đó vấp ngã dập mặt, tôi nhìn thấy vết cháy sém chạy dọc lưng áo sơ mi của anh ta, bên dưới là lớp thịt đỏ. Bỗng nhiên anh ta cũng chỉ như một nạn nhân bỏng khác trong một tai nạn mỏ than.
Tôi lao băng băng xuống bậc thềm chạy tới chỗ anh ta. “Dừng lại!” tôi hét lên với phiến quân. “Đừng bắn!” Lời tôi nói vang vọng khắp quảng trường và xa hơn nữa khi chiếc míc khuếch đại giọng tôi lên. “Dừng lại!” Tôi tới gần người thanh niên, đang cúi xuống giúp anh ta thì anh ta lê lết quỳ dậy chĩa súng vào đầu tôi.
Theo bản năng tôi lùi lại vài bước, giơ cung lên cao quá đầu cho thấy mình không hề có ý làm lại anh ta. Giờ anh ta đã cầm súng bằng cả hai tay, tôi nhìn ra một cái lỗ nham nhở trên má anh, chỗ mà thứ gì đó – có lẽ là đá rơi – đã đâm thủng thịt. Anh ta bốc mùi cháy, mùi tóc, thịt, và nhiên liệu cháy. Mắt anh ta long sòng sọc vì đau đớn và kinh hoảng.
“Đứng yên,” giọng Haymitch thì thầm bên tai tôi. Tôi tuân lệnh ông, nhận ra đây chính là những gì mà toàn thể Quận 2, có khi là toàn thể Panem, hẳn đang xem vào thời điểm hiện tại. Húng nhại bị một người đàn ông không còn gì để mất khống chế.
Anh ta nói líu lưỡi gần như không thể nghe ra. “Cho tôi một lý do tại sao tôi không nên bắn cô đi.”
Xung quanh như mờ đi. Chỉ còn lại tôi nhìn vào cặp mắt điên loạn của người thanh niên đến từ Hạt đang đòi hỏi một lý do. Hẳn nhiên tôi nên nghĩ ra hàng nghìn cớ mới phải. Nhưng môi tôi chỉ mấp máy được mấy từ “Tôi không thể.”
Theo lý thì cảnh tiếp theo sẽ là người thanh niên kéo cò súng. Nhưng anh ta lại bối rối, cố hiểu lời tôi. Bản thân tôi cũng bối rối khi nhận ra những gì mình vừa nói hoàn toàn là sự thật, và cái động lực cao quý đưa tôi qua quảng trường đã bị thay thế bằng nỗi thất vọng. “Tôi không thể. Đó là vấn đề, phải không?” tôi hạ cung xuống. “Chúng tôi đã làm nổ tung mỏ than của các anh. Các anh đã thiêu rụi quận của chúng tôi. Chúng ta có đủ mọi lý do để giết nhau. Vậy cứ làm đi. Cho Capitol được đắc ý. Còn tôi đã chán giết nô lệ của chúng rồi.” Tôi buông cung xuống đất và dùng ủng đá nó đi.
“Tôi không phải nô lệ của họ,” người thanh niên lẩm bẩm.
“Tôi thì có,” tôi nói. “Thế nên tôi mới giết Cato… còn anh ta giết Thresh… Thresh giết Clove… cô ta thì cố giết tôi. Mọi sự cứ luẩn quẩn như vậy, và ai là kẻ chiến thắng đây? Không phải chúng ta. Không phải các quận. Luôn luôn là Capitol. Nhưng tôi mệt mỏi vì phải làm một phần trong Đấu trường của chúng lắm rồi.”
Peeta. Trên mái nhà vào cái đêm trước kỳ Đấu trường Sinh tử đầu tiên của chúng tôi. Cậu đã hiểu tường tận trước khi chúng tôi đặt chân vào đấu trường. Tôi hy vọng giờ cậu đang xem, rằng cậu nhớ ra chuyện đêm ấy, và có lẽ sẽ tha thứ cho tôi khi tôi chết.
“Cứ nói đi. Nói cho họ nghe về việc chứng kiến ngọn núi sụp đổ,” Haymitch nhấn mạnh.
“Khi thấy ngọn núi sập xuống tối nay, tôi đã nghĩ… chúng lại làm thế rồi. Bắt tôi giết các anh – người dân các quận. Nhưng tại sao tôi lại làm việc đó chứ? Quận 12 và Quận 2 đâu có cuộc chiến nào ngoại trừ cuộc chiến Capitol gây ra cho chúng ta.” Người thanh niên chớp mắt không hiểu. Tôi quỳ xuống trước anh ta, trầm giọng khẩn nài. “Thế tại sao anh lại đấu với những phiến quân trên mái nhà? Với Lyme, người chiến thắng của các anh? Với những người hàng xóm của các anh, thậm chí còn là gia đình của các anh?”
“Tôi không biết,” người thanh niên nói. Nhưng anh ta vẫn không rời súng khỏi tôi.
Tôi đứng lên, chầm chậm quay một vòng, hướng đến những khẩu súng máy. “Các anh có trên đó không? Tôi đến từ một thị trấn mỏ. Từ khi nào mà các thợ mỏ lại đẩy các thợ mỏ khác đến cái chết kiểu này, rồi sẵn sàng giết chết bất kì ai cố bò ra khỏi đống đổ nát?”
“Ai là kẻ thù?” Haymitch thì thầm.
“Những người này” - tôi chỉ những cơ thể thương thích trên quảng trường – “không phải là kẻ thù của các anh!” Tôi quay phắt lại phía nhà ga. “Những phiến quân này không phải kẻ thù của các anh! Chúng ta đều có chung một kẻ thù, và đó là Capitol! Đây là cơ hội chấm dứt mọi quyền lực của chúng, nhưng ta cần mỗi người dân quận chung tay góp sức!”
Các máy quay chĩa đăm đăm vào tôi khi tôi chìa tay ra với người thanh niên, với những người bị thương, với những phiến quân còn ngần ngại trên khắp Panem. “Xin hãy tham gia cùng chúng tôi!”
Lời tôi nói lơ lửng trong không khí. Tôi hướng về phía màn hình, mong được thấy họ ghi lại làn sóng hòa giải lan tỏa khắp đám đông.
Thay vào đó tôi nhìn thấy chính mình bị bắn trên màn hình.