Ma Đao - Hồi 18 - Phần 1

Hồi 18: Vô Song phổ

“Vô song...” - hai tiếng ấy cũng gần như đồng thời bật lên từ miệng Bạch Ngọc Lâu.

Trước mặt ông ta là một bức họa, nét mực còn chưa khô, trên bức họa là chân dung Tư Mã Tiên Tiên, người mà Cẩm Cung Thành vừa gọi là Vô Song.

Trương Thiên Hộ khôn ngoan cẩn thận, bức chân dung do ông ta vẽ ra dĩ nhiên vô cùng tinh xảo! Ông ta chưa gặp qua Vô Song, chỉ là theo trí nhớ vẽ lại nhưng Tư Mã Tiên Tiên bắt chước không thành công mà ban ngày gần như lòa của Cẩm Cung Thành.

Nếu đó chỉ là một con người, một khuôn mặt thì chưa chắc ông ta đã nhớ được rõ ràng như thế, nhưng đây lại là hơn chục người, vả lại cũng không phải chỉ có một lần ông ta tới gian mật thất ấy tìm vui, nên dĩ nhiên là có ấn tượng rất sâu! Vì ông ta thấy đám Tư Mã Tiên Tiên ánh mắt đều có vẻ ngây dại, nên dưới ngọn bút của ông ta, bức chân dung cũng giống hệt như vậy.

Thẩm Thăng Y suốt từ đầu đứng bên cạnh nhìn, khi bức chân dung vẽ sắp xong, chàng đã đưa mắt nhìn vào mặt Bạch Ngọc Lâu.

Những thay đổi trên mặt Bạch Ngọc Lâu chàng đều thấy rõ, trước khi hai tiếng “Vô Song” bật ra, chàng đã tin chắc rằng Bạch Ngọc Lâu nhất định có biết người này.

Hai tiếng “Vô Song” bật ra khỏi miệng, Bạch Ngọc Lâu không tự chủ được chụp lấy bức họa, nhìn khắp từ trên xuống dưới một lúc rồi lui lại ba bước, ngã người xuống ghế.

Bao nhiêu người có mặt đều nhìn vào ông ta.

Bạch Băng là người hỏi trước nhất:

- Vô Song là gì?

- Là tên một nữ nhân. - Giọng nói của Bạch Ngọc Lâu vô cùng yếu ớt.

Bạch Băng nói:

- Con lại cứ tưởng cha nói tới quyển Vô Song phổ.

- Vô Song phổ và Vô Song quả thật có quan hệ với nhau.

Bạch Băng vừa định hỏi gì đó, Tần Độc Hạc bên cạnh đã nói:

- Chúng ta gặp nữ nhân này thấy gọi là Tư Mã Tiên Tiên, mà là có hơn mươi người.

Thẩm Thăng Y nói:

- Không cần nói nữa, đó là Cẩm Cung Thành dùng thanh Ma Đao biến ra.

- Biến ra một người không đủ sao?

- Ta thấy tay y không vững lắm, hết lần này tới lần khác đều làm hỏng, mới có cả chục Tư Mã Tiên Tiên xuất hiện. - Thẩm Thăng Y đáp ngay.

Bạch Ngọc Lâu nhìn Thẩm đại ca một cái nói:

- Ta đồng ý với câu nói của ngươi, Vô Song quả không thể dùng thuật dịch dung mà biến ra được.

Tần Độc Hạc nói:

- Tuy nàng ra rất lộng lẫy, nhưng ta lại nhìn không ra có chỗ nào là đặc biệt.

Bạch Ngọc Lâu lặng lẽ cười một tiếng:

- Nếu ngươi nói tới những người được biến ra thì ta tuyệt đối đồng ý.

Tần Độc Hạc nói:

- Bản nhân...

Trương Thiên Hộ ngắt lời:

- Nếu không phải là đặc biệt phi thường, cho dù Cẩm Cung Thành làm lần đầu không được thì lần thứ hai lần thứ ba phải được, nhưng đây thì y lại liên tiếp thất bại nhiều lần.

- Nhưng rốt lại khuôn mặt của nàng ta có gì đặc biệt? - Tần Độc Hạc nhìn Bạch Ngọc Lâu.

Bạch Ngọc Lâu trầm ngâm đáp:

- Tai mắt mũi miệng cho tới lông mày đều rất đẹp, nhưng phối hợp với nhau thì lại có chỗ không ăn khớp.

Tần Độc Hạc có vẻ lạ lùng, Bạch Ngọc Lâu thở dài nói tiếp:

- Ta chỉ có thể nói như thế, cũng chỉ vì chỗ không ăn khớp ấy mà nàng chỉ có thể được gọi là mĩ nhân, chứ không thể gọi là bậc tuyệt sắc.

Thẩm Thăng Y nói:

- Chỗ không ăn khớp ấy e rằng không phải là chỉ ở một hai bộ phân.

Bạch Ngọc Lâu gật đầu:

- Khoảng cách giữa hai mắt, giữa mắt, lông mày và mũi, giữa mũi và miệng của nàng không như nhau, kết hợp lại khiến người khác thấy ở nàng có một cái gì đó chưa hoàn hảo, nhưng chỗ chưa hoàn hảo ấy thì người nhìn vào một vài khía cạnh không thể nói ra được.

Thẩm Thăng Y nói:

- Ta hiểu ý ngươi.

Bạch Ngọc Lâu lại thở dài một tiếng:

- Ai vừa nhìn thấy Vô Song cũng bị đôi mắt, nét mũi của nàng thu hút, mà chỉ cần đôi mắt thôi cũng đủ thu hút người ta rồi, chẳng ai để ý tới những chỗ chưa hoàn hảo.

Thẩm Thăng Y thản nhiên cười một tiếng nói:

- Cẩm Cung Thành tự xưng là Ma Vương, nhưng chỉ nhìn vào điểm này đủ thấy thật ra y cũng chỉ là một con người.

Bạch Ngọc Lâu nói:

- Cái gọi là ma thuật, dĩ nhiên ngươi đã rõ bất quá chỉ là thuật dịch dung.

Thẩm Thăng Y nói:

- Xem ra thuật dịch dung của y so với ngươi vẫn còn có một khoảng cách.

Bạch Ngọc Lâu chép miệng:

- Nghiêm khắc mà nói, thuật dịch dung của ta không đáng gọi là thuật dịch dung.

Thẩm Thăng Y đến lúc ấy mới hỏi:

- Vô Song này và Vô Song phổ của ngươi có quan hệ gì với nhau không? - Bạch Ngọc Lâu cúi đầu xuống, tâm tình có vẻ rất nặng nề.

Thẩm Thăng Y thấy thế nói:

- Nếu không tiện, ngươi cũng không cần miễn cưỡng nói ra.

- Nếu không nói, các ngươi lại không sao hiều mối quan hệ bên trong. - Bạch Ngọc Lâu nhìn nhìn Bạch Băng, thở dài nói. - Chuyện trong thiên hạ vẫn thường thế này, lúc gần quên rồi thì lại xuất hiện.

Thẩm Thăng Y nói:

- Còn có thể xuất hiện lại thì có thể nói sự tình vốn chưa kết thúc.

Bạch Ngọc Lâu nói:

- Có thể.

Thẩm Thăng Y hỏi tiếp:

- Bộ Vô Song phổ ngươi lấy được từ đâu vậy?

Bạch Ngọc Lâu nói từng tiếng:

- Ba Tư.

Thẩm Thăng Y sửng sốt:

- Ta cũng nghĩ rằng cái này không phải xuất xứ từ Trung Nguyên.

Bạch Ngọc Lâu chợt cười một tiếng. Kế lại nói:

- Có lúc quả ta rất vô lễ, ngươi nhờ đâu mà luyện được tính nhẫn nại như thế?

Thẩm Thăng Y nói:

- Ngươi muốn nói là ta vẫn nhịn được đến lúc vừa rồi mới hỏi ngươi về lai lịch của Vô Song phổ chứ gì?

Bạch Ngọc Lâu nói:

- Chỉ nhờ một chuyện ấy đủ thấy rồi.

Bạch Băng nói chen vào:

- Có thể Thẩm đại ca đã nhận ra từ sớm, nhưng nếu hỏi thì chưa đến lúc cha chưa nói ra thôi.

Bạch Ngọc Lâu cười cười, Thẩm Thăng Y ánh mắt chiếu qua Bạch Băng một lúc rồi nói:

- Trước đây chắc Băng nhi đi hỏi nhiều lần rồi.

Bạch Băng nhấm nhẳng:

- Nhưng cha không chịu nói.

Bạch Ngọc Lâu nói:

- Bây giờ cũng không phải là lúc nói đâu.

Bạch Băng nhăn mũi:

- Bây giờ thì không thể không nói.

Thẩm Thăng Y hỏi tiếp:

- Ngươi tới Ba Tư lúc nào?

Bạch Ngọc Lâu nói:

- Lúc trẻ ta từng vâng mệnh đi sứ Ba Tư.

Thẩm Thăng Y cười một tiếng:

- Ta thấy chuyện này ngươi tự nguyện nhiều hơn là bị ép buộc, chắc đột nhiên nảy ra ý định tới Ba Tư cho biết.

Bạch Ngọc Lâu gật đầu:

- Chuyện này đối với người khác thì như một việc khổ sai, nhưng đối với ta thì là một điều vô cùng hấp dẫn.

Thẩm Thăng Y hỏi:

- Lúc ấy ngươi bao nhiêu tuổi?

Bạch Ngọc Lâu đáp:

- Hai mươi ba, dĩ nhiên chưa có vợ con gì.

Nói tới đó, ánh mắt ông ta vụt trở nên xa xăm, phảng phất như có một màn sương che khuất.

Thẩm Thăng Y không nói gì, mọi người cũng đều im lặng nhìn Bạch Ngọc Lâu.

Bạch Băng vốn định nói chen vào, nhưng thấy dáng vẻ mọi người như thế, câu nói đã ra tới cổ lại nuốt vào.

Bạch Ngọc Lâu chậm rãi nói tiếp:

- Rõ ràng đây chỉ là một câu chuyện cũ mèm, chắc chắn các ngươi không thích thú, nhưng là sự thật.

Thẩm Thăng Y nói:

- Nếu thế dĩ nhiên ngươi biết đoạn nào nên kể chi tiết, đoạn nào nên kể đại lược.

Bạch Ngọc Lâu gật đầu:

- Sáng sớm hôm lên đường, ta vẫn được cha mẹ căn dặn ráo riết một hồi, tâm tình có chỗ không thoái mái, lại nhìn thấy một bọn thuộc hạ đi theo, mặt mũi đều có vẻ không muốn xa quê, trong bụng càng ngán ngẩm, mãi đến khi ra khỏi cửa ải mới hơi yên ổn trở lại.

Thẩm Thăng Y nói:

- Đó là vì phong cảnh ngoài cửa ải phải không?

Bạch Ngọc Lâu nói:

- Trước đó ta chưa từng nhìn thấy phong cảnh tráng lệ, bọn thuộc hạ cùng đi chắc cũng vì phong cảnh nên không ai nói nhiều như lúc mới lên đường.

Thẩm Thăng Y cười nói:

- Đây có phải đều là kể đại lược không đấy?

Bạch Ngọc Lâu lắc đầu:

- Họ mà vẫn giữ thái độ như lúc ban đầu, biết đây trên đường ta chỉ rầu rĩ ngồi trong xe ngựa, thì làm sao xảy ra chuyện này được?

Bạch Băng nóng ruột láu táu hỏi:

- Xảy ra chuyện gì vậy?

Bạch Ngọc Lâu ánh mắt càng xa xăm:

- Mọi người đều có cảm giác được mở rộng tầm mắt, lại đều muốn không cần gì đi gấp tới Ba Tư, dọc đường đi tới đâu cũng chỉ muốn nhìn xem phong cảnh, mà lúc phi ngựa chạy mau, nếu phát hiện cái gì đặc biệt mà ta không thấy thì họ cũng nhắc nhở chỉ cho ta để ý.

- Rốt lại họ nhìn thấy những gì? - Bạch Băng lại hỏi.

Bạch Ngọc Lâu ngẫm nghĩ:

- Đó là một buổi sáng mờ sương, trước đó mọi người vì dọc đường đi cứ nhìn nhìn ngó ngó, lỡ mất chỗ ngủ, dừng lại dưới một ngọn đèo, nhưng chẳng ai oán hờn trách móc.

- Cha lại rườm lời rồi. - Bạch Băng nhấm nhẳng.

Bạch Ngọc Lâu cười cười:

- Mọi người không ai nóng ruột, sao cô lại vội vã thế?

Thẩm Thăng Y nói:

- Chúng ta cũng nóng ruột, chỉ vì Băng nhi nói ra trước mới không ai nói nữa.

Bạch Ngọc Lâu đưa mắt nhìn khắp mọi người, ho khan một tiếng mới kể tiếp:

- Lúc ấy ta vẫn đang ngủ, chợt nghe tiếng người gọi dậy, vội vén cửa lều ra nhìn, chỉ thấy bầu trời phía đông có ráng bảy màu.

Bạch Băng hỏi:

- Là ráng buổi mai à?

Bạch Ngọc Lâu lắc đầu đáp:

- Là khói hoa, đây là lần đầu chúng ta thấy cảnh như thế, mọi người đều muốn tới tận nơi nhìn cho rõ, cũng lúc ấy chúng ta nghe một hồi tù và báo hiệu, một hồi tù và vừa thê lương vừa kì lạ.

- Không có người à? - Bạch Băng lạ lùng hỏi lại.

- Cô biến thành nóng nảy từ lúc nào vậy? - Bạch Ngọc Lâu cười, nói xong câu ấy mới tiếp. - Vừa nghe tiếng tù và báo hiệu, tất cả chúng ta vội vàng trở dậy, cho rằng đã tiến lầm vào địa vực của một bộ lạc nào đó nên họ đang đêm tập hợp, mờ sáng tấn công.

Trương Thiên Hộ vuốt râu cười khẽ:

- Theo tình hình ấy xem ra quả rất giống như vậy.

- Nhưng thật ra không phải. - Bạch Ngọc Lâu chợt cau mày. - Chúng ta bày trận để chờ, chờ hồi lâu vẫn chẳng thấy gì, tiếng tù và cũng dừng bèn lưu lại vài người giữ xe, còn bao nhiêu theo ta phóng ngựa qua xem chuyện gì. - Lại ho khan một tiếng, kể tiếp. - Còn chưa tới gần chúng ta đã nghe xa xa có tiếng vó ngựa, tiếng la thét, tiếng binh khí chạm nhau.

Trương Thiên Hộ nói:

- Nghe không giống lối giết người trả thù trên giang hồ, có phải là hai bộ lạc ác chiến với nhau không?

- Trương lão tiền bối khôn ngoan cẩn thận, mà lần này đã đoán sai rồi.

Trương Thiên Hộ cười lớn:

- Vậy là người giang hồ.

- Người giang hồ ở Quan ngoại cũng là kẻ giang hồ khác lạ, tất cả đều cưỡi ngựa đâm chém, quần áo võ khí cũng đều kì lạ, thật khiến ta mở rộng tầm mắt. - Bạch Ngọc Lâu ngẫm nghĩ nói tiếp. - Đó là một khoảng đất hình lòng chảo lớn, hai mặt đều dựng lều trại, có thể thấy họ đã tới đóng ở đó từ trước.

- Là quyết đấu à?

- Đúng thế, chỉ là lối họ quyết đấu không giống với giới võ lâm Trung Nguyên chúng ta, rõ ràng họ đã chia phần rất ổn thỏa từ đầu, cứ từng cặp từng cặp cưỡi ngựa đâm chém nhau, gay cấn mà nguy hiểm...

Thẩm Thăng Y nói:

- Chắc các ngươi xuất hiện khiến họ để ý lắm.

- Dĩ nhiên, họ lập tức dừng cả lại, kế đó liên tiếp chửi bới nhau, đôi bên đều cho rằng chúng ta là do đối phương mời tới giúp đỡ.

- Họ đóng lại ở đó, chẳng lẽ không phải là đợi mọi người tụ họp, trước khi quyết đâu chẳng lẽ không mời người giúp đỡ sao?

- Có thì vẫn có, nhưng mọi việc đều đã được thỏa thuận, tóm lại là không được mời người nước ngoài.

- Vậy dĩ nhiên đôi bên đều không thừa nhận. - Thẩm Thăng Y cười cười. - Rồi họ có đổi ý, liên thủ tấn công các ngươi không?

- Đang còn cãi nhau chưa xong, không dễ ai chịu ai, may là một bên quá nóng nảy, tấn công luôn đối phương, bản lĩnh của họ vốn lại không chênh lệch nhau nhiều, nếu cứ đánh nhau như đã định chỉ e không phân thắng bại.

- Bên đánh bất ngờ thành công à?

Bạch Ngọc Lâu gật đầu:

- Bên bị đánh bất ngờ tuy có vài cao thủ, vẫn bị thương ngã ngựa, đôi bên lập tức ào lên đánh nhau lộn bậy, chẳng buồn đếm xỉa tới chúng ta.

- Người ta vì các ngươi mà bị đánh lén, dĩ nhiên các ngươi không thể tụ thủ bàng quan, phần lớn các ngươi lại theo quy củ của hào kiệt Trung Nguyên, thì một trận quyết đấu ắt phải biến thành một trường hỗn chiến.

Thẩm Thăng Y hỏi tiếp:

- Kết cục ra sao?

- Lực lượng đôi bên không chênh lệch nhau lắm, chúng ta vào cuộc thì rõ ràng là sẽ quyết định thắng phụ. - Bạch Ngọc Lâu chép miệng một tiếng. - Chúng ta vốn cho rằng họ chỉ tranh nhau câu nói, nào ngờ kẻ nào bị chúng ta đánh ngã ngựa cũng không thoát, đều bị đốt phương giết chết.

- Mục đích đánh nhau sống chết là chuyện gì?

- Vô Song phổ. - Bạch Ngọc Lâu nói từng tiếng.

Thẩm Thăng Y ngẩn người, lại hỏi ngay:

- Bộ Vô Song phổ vốn là của bên nào, mà làm sao lại dẫn tới một trường quyết đấu như vậy?

Bạch Ngọc Lâu nói:

- Trước đó ở Ba Tư xuất hiện một thiên tài về dịch dung, y nguyên là một người điêu khắc giỏi, kĩ thuật điêu khắc đã tới chỗ xuất thần nhập hóa, bất kể là cái gì cũng có thể khắc ra được, linh hoạt sống động, nếu người khác thì đạt tới mức ấy ắt đã thỏa mãn nhưng y thì khác hẳn, cả ngày cứ rầu rĩ không vui.

Bạch Băng hỏi:

- Tại sao thế?

- Có thể y là một người có lòng cầu tiến mạnh mẽ, đến lúc phát hiện đã tới giới hạn của mình, bất kể thế nào cũng không thể vượt qua nữa rồi, thì cho dù cái chết có tới ngay trước mắt cũng không để ý.

Thẩm Thăng Y gật đầu nói:

- Đó thật giống như một kiếm khách chú tâm nghiên cứu kiếm đạo chợt phát hiện đã vào tới hóa cảnh, không thể tìm ra được cái gì mới nữa, nhìn khắp thiên hạ cũng không có ai là đối thủ, lúc ấy thì chuyện gì cũng thấy là vô vị.

Bạch Băng lập tức hỏi Thẩm Thăng Y:

- Thẩm đại ca, đúng thế thật à?

Thẩm Thăng Y cười cười:

- Ta hiện vẫn thấy rằng cái gì cũng có giới hạn.

- Là ta nói kiếm thuật của anh đã tới chỗ thiên hạ vô địch kia mà.

Thẩm Thăng Y nói:

- May mà câu ấy chỉ là cô nói với ta, nếu không thì thiên hạ dù to lớn, chỉ sợ ta không còn nơi nào mà đi.

Bạch Băng nói:

- Anh chỉ sợ có người khác tìm tới so tài, xem anh có phải là Thiên hạ đệ nhất kiếm không.

- Sợ lắm.

- Ta thấy anh chỉ nói đùa. - Bạch Băng cười duyên dáng. - Thật ra anh chẳng sợ gì cả.

Thẩm Thăng Y nói:

- Nếu đúng là thiên hạ đệ nhất còn khá, nếu không phải, lỡ có ai tìm tới đánh cho một trận sống dở chết dở thì sợ lắm.

Bạch Băng lắc đầu:

- Dù anh nói gì đi chăng nữa, ta vẫn thấy anh là thiên hạ đệ nhất.

Thẩm Thăng Y không đôi co với nàng nữa, quay hỏi Bạch Ngọc Lâu:

- Đỉnh cao nhất của điêu khắc là gì?

- Như là sống... - Bạch Ngọc Lâu vuốt râu. - Chỉ như là sống mà thôi.

Thẩm Thăng Y tuyệt đối đồng ý, một chữ “như” kia thật ra đã là cảnh giới tối cao của kĩ xảo ở nhân gian rồi.

Bạch Ngọc Lâu lại nói tiếp:

- Không chỉ điêu khắc, mà văn chương hội họa tả thực cũng thế.

- Vẽ tuyết không vẽ được nét trong, vẽ trăng không vẽ được ánh sáng, vẽ hoa không vẽ được mùi thơm, vẽ suối không vẽ được tiếng nước, vẽ người không vẽ được tình ý, loại văn chương hội họa điêu khắc tả thực đều có lúc cùng, chỗ cao nhất quả chỉ là một chữ “như” mà thôi. Giả dụ như nghe được tiếng nước, như gửi được mùi thơm, như có thể kết bạn với người, làm được chữ “như” ấy đã là đăng phong tạo cực rồi.

Bạch Ngọc Lâu gật đầu kể tiếp:

- Nếu vị cao thủ về điêu khắc kia đến lúc lớn tuổi thì cũng không nói làm gì, nhưng lúc ấy y bất quá chỉ ba mươi tuổi.

Thẩm Thăng Y nói:

- Y thông minh như thế chắc không có được nhiều người vạch ra được đường lối điêu khắc khác với y.

Bạch Ngọc Lâu nói:

- Cũng có thể là vì muốn đem thuật điêu khắc thực hành trên người sống, y lập chí là trong cuộc đời phải tìm được cách biến một người thành người khác, mà giống hệt người kia.

- Đó cũng là thuật dịch dung, Vô Song phổ ghi lại là những điều người ấy tìm ra được phải không?

Bạch Ngọc Lâu nói:

- Lúc ấy đã có thuật dịch dung rồi, nhưng y lại thấy là cách sử dụng dược vật trên mặt người rất phiền phức, nên mở đầu y đã nghĩ tới cách tìm ra một chất gì đó, chỉ cần phủ lên trên mặt là có thể lấy khuôn đầy đủ chính xác của một bộ mặt, rồi theo cái khuôn ấy tạo ra một cái mặt nạ, thì có thể biến thành bất cứ ai.

Trương Thiên Hộ nói:

- Như vậy thì rõ ràng mau lẹ và đơn giản hơn thuật dịch dung rất nhiều, nhưng mà y tìm được cái gì?

Bạch Ngọc Lâu nói:

- Ta không biết y làm sao tìm ra, nhưng rõ ràng y nỗ lực trong mấy năm, rốt lại cũng đã tìm ra thứ thuốc ấy.

Dừng lại một lúc ông ta cầm một cái hộp bên cạnh, mở nắp ra.

Tất cả mọi ánh mắt đổ dồn lên cái hộp, một mùi vị khó ngửi cũng đồng thời xộc vào mũi họ.

Thẩm Thăng Y, Bạch Băng đối với mùi này không lạ, nhưng Trương Thiên Hộ, Tần Độc Hạc, Hàn Kỳ thì là lần đầu tiên gặp phải.

Tần Độc Hạc lập tức khịt khịt mũi:

- Mùi gì lạ quá, thật là lần đầu tiên ta ngửi phải.

Trương Thiên Hộ lẩm bẩm:

- Ta cũng không ngờ thứ thuốc ấy mà lại có mùi này.

Họ cũng đều lần đầu tiên thấy chất thuốc trong hộp như nhau.

Đó là một khối màu sữa trắng, đặt ngay ngắn trong hộp, dưới ánh đèn sáng lóng lánh, phảng phất như trong suốt.

Bạch Ngọc Lâu vừa đưa cái hộp về phía Trương Thiên Hộ vừa nói:

- Lão tiền bối thử ấn ngón tay vào xem.

Trương Thiên Hộ bỡ ngỡ ấn ngón tay vào, khối lạ ấy từ từ lún xuống theo ngón tay, nhưng không vỡ ra.

Tần Độc Hạc vươn đầu ra nhìn, nhịn không được hỏi:

- Nó ra làm sao?

Trương Thiên Hộ lẩm bẩm:

- Rất kì quái... - Câu nói chưa dứt, ngón tay đã ấn xuống tới đáy hộp, chợt thấy có cảm giác là lạ, đầu ngón tay hơi tê tê, giống như bị ăn mòn.

Ông ta vội vàng rút ngón tay lên, nhìn nhì đầu ngón, không thấy có gì thay đổi, lại nhìn vào khối lạ ấy, chỗ lún xuống đã từ từ bằng phẳng trở lại như cũ, chỉ có chỗ ngón tay ấn vào là xuất hiện vết chỉ tay.

Tần Độc Hạc càng nhìn càng thích, bất giác cũng đưa tay ấn vào, kết quả dĩ nhiên cũng giống hệt, trên khối lạ ấy cũng xuất hiện một vết chỉ tay.

Trương Thiên Hộ nhìn nhìn vào hai vết chỉ tay nói:

- Quái lạ thật, lão phu sống đến từng này tuổi mới nhìn thấy chất này lần đầu tiên.

Bạch Ngọc Lâu nói:

- Nếu đem bỏ chất này vào trong nồi đun lên, thì sẽ biến thành sền sệt như tương, đem đắp lên mặt, khi nguội sẽ thành một lớp mỏng, như cái mặt nạ.

Trương Thiên Hộ ngẫm nghĩ:

- Nói như thế, chỉ cần có chất này, một người có thể tùy thời mà biến thành hàng trăm hàng ngàn người, cũng có thể biến biến một người ra thành hàng trăm hàng vạn người.

Bạch Ngọc Lâu nói:

- Hoàn toàn có thể.

Trương Thiên Hộ chép miệng:

- Kĩ thuật dịch dung này không những tiện lợi mà còn có tác dụng hơn mọi kĩ thuật dịch dung khác.

Bạch Ngọc Lâu nói:

- Đúng ra là thế.

Ngừng một chút lại nói tiếp:

- Cho đến hiện nay, vẫn không có kĩ thuật dịch dung thứ hai nào được như thế, gọi là Vô Song, cũng không phải là quá lời.

Trương Thiên Hộ hỏi:

- Chất này tên là gì?

Bạch Ngọc Lâu đáp:

- Đến hiện nay vẫn không có tên gọi nào thích hợp, cũng có thể cho đến hiện nay, vẫn không ai xác định được tác dụng thật sự của chất này.

Trương Thiên Hộ gật đầu:

- Thuật dịch dung rốt lại không phải là biện pháp cần thiết thường xuyên, chất này mà cứ đem ra dùng vào việc dịch dung, thì cũng hơi lãng phí.

Bạch Ngọc Lâu nói:

- Chuyện đó chắc là tương lai không xa sẽ rõ. - Thở dài một tiếng ông ta nói tiếp. - Chất này nếu được phổ biến rộng rãi chắc sẽ có một người thông minh hiểu rõ được ngoài tác dụng dịch dung còn có tác dụng gì khác, đáng tiếc là đến hiện nay vẫn không thể không giấu kín.

Thẩm Thăng Y nói:

- Nếu phổ biến rộng rãi chắc sẽ có không ít người lợi dụng để cải trang muốn làm gì thì làm, rốt lại chỉ có một kết quả...

- Là thiên hạ đại loạn... - Bạch Ngọc Lâu cười gượng một lúc.

Trương Thiên Hộ hỏi ngay:

- Bộ Vô Song phổ rốt lại là ghi chép về cách chế tạo chất này phải không?

- Đúng thế. - Bạch Ngọc Lâu đóng nắp hộp lại. - Chế tạo chất này tuy không phiền phức lắm, nhưng mỗi thứ nguyên liệu đều là ngoài ý nghĩ, nếu không có Vô Song phổ, không biết rõ quá trình chế tạo và thành phần nguyên liệu, thì cho dù nắm được bí quyết, cũng chỉ là bắt chước mà làm càn thôi.

Thẩm Thăng Y gật đầu:

- Nếu một ngàn năm sau mà có người nào thông minh như thế nghĩ ra được phương pháp hay tương tự, có thể bớt được bao nhiêu là thời gian để làm rõ lai lịch của chất này, chứ hiện tại, nói ra chỉ là lừa bịp.

Trương Thiên Hộ hỏi tiếp:

- Kẻ thất phu không có tội, vì mang ngọc mà có tội, vị cao thủ điêu khắc kia tìm ra được chất này nếu không cho người ta biết thì thôi, nếu không thì...

Ông ta không nói tiếp đoạn dưới, Thẩm Thăng Y cười nói:

- Phú quý mà không về quê cũng như mặc áo gấm đi đêm, một người đạt được kết quả như thế này, nếu không cho người ta biết, thì ngay cả mình chắc cũng không thấy hết sự thú vị.

Bạch Ngọc Lâu nói:

- Thì chắc cũng vì nguyên nhân ấy, cho nên tuy biết rõ là sẽ có lúc gây ra nhiều phiền phức lớn, nhưng y cũng không nhịn được, đem mấy người ra biến đi biến lại cho người ta xem, biến một lần lại biến ra một mối họa.

Trương Thiên Hộ nói:

- Chất này thì chắc không ít người thích đâu.

Bạch Ngọc Lâu gật đầu nói:

- Không những bọn tà ma ngoại đạo, mà ngay cả các nhân vật chính phái cũng muốn có trong tay, họ bèn chia làm hai phe, trước khi chưa bên nào có được trong tay, đã mở ra một trận ác đấu, rốt cuộc chọn khu đất lòng chảo kia quyết một phen sinh tử.